Subic Bay, Vì Sao Lạc

Subic Bay, Vì Sao Lạc

Đồng Sa Băng

Tháng Năm biển Đông vẫn còn yên lặng, sóng không lớn quá cấp ba, nước biển màu xanh và bầu trời quang đãng. Ba chiếc tàu đánh cá Việt Thủy rời hải cảng Singapore ngày 10-5-1975 đi Subic Bay, Phi Luật Tân. Ba con tàu nối đuôi và chạy cách nhau trong tầm mắt.
Mỗi con tàu chứa khoảng ba, bốn trăm người với một số thức ăn, và nước uống. Thức ăn hầu hết là đồ hộp được cung cấp bởi phái đoàn Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc. Khối người trên tàu chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp. Di chuyển trên tàu cả là một vấn đề phiền phức, nên, hầu hết người ta chỉ ngồi một chỗ suốt đoạn đường đi. Bốn đứa chúng tôi (Th, H, C và tôi) là những người độc thân, không gia đình, không thân thuộc và nhảy lung tung từ tàu này qua tàu kia để được đi chung, nên cuối cùng không được « tiếp tế » lương thực và nước uống trước khi tàu rời bến. Nhưng thân thanh niên, khỏe mạnh, một thân một mình nên những điều đó không làm chúng tôi phân vân.
Sự phân chia và chọn người lái tàu đã được sắp xếp từ hải cảng Singapore mấy ngày qua. Hôm lên đường chiếc Việt Thủy 3 được điều khiển bởi một tài công người Nhật Bản. Người « Thuyền trưởng » Nhật Bản này đã khai báo và cho biết rằng ông ta có mười lăm năm kinh nghiệm đi biển, và đặc biệt ông biết nhìn trăng sao trên bầu trời là có thể xác định được vị trí và hoạch định ra hải trình. Những lời tuyên bố tài năng của ông làm cho lòng người tị nạn thêm yên tâm, và không ngần ngại trao thân phận, sinh mạng gia đình cho tài nhìn trăng sao của ông!
Việt Thủy là tàu đánh cá loại nhỏ, dụng cụ hải hành không đầy đủ và tối tân gì mấy. Tàu được trang bị với sáu máy log thẳng, chạy bằng dầu diesel. Trên tàu không có thợ máy chuyên nghiệp, cho nên mọi lo toan về trợ giúp đều do vị « Thuyền trưởng » xem xét và kiểm soát trước giờ ra đi.
Thời tiết êm xuôi, ba con thuyền nối đuôi nhau băng qua khúc biển giữa Mã Lai và Nam Dương trong bình an. Những người tị nạn xúm nhau từng nhóm theo gia đình, đùm bọc ngồi xúm xít trong khoang tàu. Thỉnh thoảng những tiếng la khóc của những đứa trẻ vì đói khác và nóng nực. Hai ngày sau con tàu đến vùng duyên hải Borneo. Vì tàu nhỏ, đông người nên Việt Thủy chạy rất chậm và dựa theo ven biển Borneo cho an toàn. Vùng biển này xanh biếc và nhiều san hô trải dài đến biển Palawan. Ngày đó Việt Thủy đi ngang qua những hòn đảo nhỏ của Trường Sa, nhưng có lẽ không mấy người để ý hay biết đến.
Hai ngày một đêm trôi qua thật chậm. Bốn đứa chúng tôi quay quần bên thành tàu, chia xẻ nhau những làn khói thuốc, nhìn bọt nước, những gợn sóng bạc đầu và từng đàn cá chuồn bay lẹt xẹt trên mặt biển. Có những lúc đói bụng, ruột gan cào nghe ột oạt tôi lại lục những gói mì còn sót trong túi hành trang cho đở đói. Nhưng nước sôi lại không có nên chỉ biết nhai và nuốt đại những sợi mì. Trên tàu những gia đình lớn bé đều được cung cấp những lon đồ hộp và sữa đặc. Người trên tàu xuống bếp nấu cơm và đun nước sôi. Nhưng tuyệt nhiên chúng tôi không được chia xẻ đến một miếng ăn, ngay cả khi đói khát đến khờ người. Gia đình nào cũng thủ cho bản thân họ, tôi nghĩ đó cũng là chuyện thường khi con người nằm trong cảnh lâm nguy, nên cũng chẳng lấy làm buồn. Đoàn người trên tàu chật như nêm, không có chỗ trống, tôi ngồi co chân trên nắp thùng phi bên cạnh mái che bằng vải. Có những hôm trời mưa, những giọt mưa đọng trên miếng vải che, chúng tôi đẩy chỗ thủng cho những giọt nước mưa trên miếng vải chảy vào lon nhựa để uống cho qua cơn khát.
Không gì làm tôi lảng vảng xuống hầm máy xem chơi. Và vào ngày thứ hai viên « Thuyền Trưởng » cần người giúp chấm dầu. Đám bốn đứa chúng tôi liền tình nguyện làm « thợ chấm dầu ». Và từ đó tôi thường trực dưới hầm máy. Lần đầu tiên trong đời tôi đi làm thợ máy! Tôi nghĩ chắc cũng dễ thôi, chỉ cần cầm lon dầu chấm vào ổ máy là xong. Vậy mà bốn đứa chúng tôi trở thành người quan trọng. Và cái quan trọng lớn nhất đối với chúng tôi là từ ngày đi làm « thợ máy » chúng tôi được chia xẻ những miếng cơm, giọt nước từ những gia đình trên tàu mỗi khi đói khát.
Đến ngày thứ tư ba chiếc Việt Thủy vẫn còn trong tầm mắt trên vùng biển san hô giữa Trường Sa và Borneo.
Nhưng chiều hôm thứ tư con tàu Việt Thủy 3, con tàu chạy sau cùng bỗng nhiên chạy chậm lại.
Viên Thuyền Trưởng người Nhật xuống phòng máy xem, phát giác hai trong sáu máy không còn chạy! Người Thuyền Trưởng nói:

-Máy tàu bị lột dên.

Tôi nghĩ máy không bị lột dên mới là chuyện lạ! Vì khối người đông như kiến, con tàu đã quá tải và hai hôm nay người Thuyền Trưởng bảo tăng vận tốc máy, ép tàu chạy cho lẹ để kịp với hai chiếc kia. Mọi người trên tàu nhốn nháo sợ sệt, rù rì bàn tán khi biết máy tàu bị hư. Việt Thủy 1 và 2 càng lúc càng đi xa. Nhưng nếu có còn đâu đây cũng không kéo thêm Việt Thủy 3 nổi, vì mỗi con tàu đã kéo ngoài khả năng của nó!
Việt Thủy 3 tắt máy để sửa. Con tàu bắt đầu trôi. Ngoài những mảnh san hô màu xanh xanh trắng trắng thấp thoáng dưới đáy biển, và những ngọn sóng bạc đầu, người ta không nhìn thấy gì khác. Một khối người đông như nêm trên tàu tự dưng bất động, chỉ còn nghe tiếng nguyện cầu và những ánh mắt buồn, lo lắng. Trời về chiều, không mưa, không gió nhưng trong lòng mọi người đã cảm thấy lạnh. Tôi rời phòng máy bước lên sàn tàu, đưa mắt nhìn vào khoảng chân không, giống như lòng tôi đang trống rỗng.
Vị Thuyền Trưởng loay hoay sửa chữa, một hồi sau tiếng máy tàu lại nổi lên. Mọi người châu mặt về người Thuyền Trưởng, viên Thuyền Trưởng nói: « Chỉ chạy được bốn máy thôi ». Ông dặn dò những người chấm dầu xong bước lên phòng lái. Những nỗi lo âu trên từng gương mặt lại từ từ chìm xuống. Việt Thủy 3 chạy rất chậm và đã ngoài tầm mắt của Việt Thủy 1,2.
Từ đây Việt Thủy 3 một mình trên biển Đông.
Đêm về muôn ngàn vì sao lấp lánh trên không, con tau vẫn ì ạch mang đoàn người di chuyển về hướng Manila. Trên tàu vấn đề ăn, uống và việc giải quyết chuyện cá nhân là cả một vấn đề, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua, vì ở hoàn cảnh này con người không còn biết mắc cở nữa. Vị Thuyền Trưởng hằng đêm vẫn nhìn bầu trời đầy trăng sao để định vị, và lèo lái con tàu cho đến đích. Tôi nhìn ông với lòng đầy khâm phục. Kiến thức của tôi về thiên văn học rất hạn hẹp, tôi chỉ biết có sao Bắc Đẫu, có dãy Ngân Hà, có trăng non trăng già. Nhưng để nhìn những vì tinh tú trên bầu trời và hoạch ra một hải trình để đi thì ngoài khả năng của tôi và nhiều người. Và rồi con tàu vần chạy, và đoàn người vẫn đếm từng ngày hồi hộp, mong thấy bờ bến.
Đến ngày thứ bảy con tàu vẫn chạy theo ven biển, nhưng nơi nào thì cả vị Thuyền Trưởng cũng không biết! Mọi người trên tàu bắt đầu thắc mắc. Theo như bài tính đơn giản, tàu chạy 10 hải lý một giờ thì khoảng năm ngày hơn là tàu phải đến Subic Bay. Nhưng đã bảy ngày rồi, Subic Bay vẫn như vì sao lạc. Nhiều người trên tau đâm ra lo sợ và góp ý cùng vị Thuyền Trưởng nên tấp vào bờ để biết tàu đang ở đâu. Vậy là Việt Thủy chuyển mũi tàu hướng vào ven bờ. Khi vào gần bờ, nhiều người dân địa phương, da đen luốc chèo thuyền độc mộc đến cập vào Việt Thủy. Sau khi cho xem bản đồ và hỏi ra thì biết Việt Thủy đã đi lạc về bắc Phi Luật Tân hơn một ngày hải hành, và sắp vào địa phận của giống dân man rợ Bắc Phi vẫn còn ăn thịt người! Mọi người thở phào nhẹ nhỏm, và trong đám đông có nhiều tiếng xì xầm về tài nhìn trăng sao của vị Thuyền Trưởng!
Việt Thủy cập vào bờ và mọi người trên tàu trút hết nỗi sợ hãi xuống biển. Những người dân Phi Luật Tân miền biển đen đuốc nhưng rất hiền hòa, tiếp đón con tàu Việt Thủy rất niềm nở. Họ chèo thuyền độc mộc mang đầy dừa tươi cập bên Việt Thủy và xin đổi lấy đồ hộp. Biết là sẽ được đến Subic Bay nay mai nên những người trên Việt Thủy không ngần ngại đổi những lon đồ hộp lấy dừa tươi uống. Và có lẽ chính quyền địa phương đã được lệnh nên mang Bác Sĩ và thuốc men đến khám bệnh chích thuốc cho người trên tàu. Với một ít vốn liếng Anh văn tôi trở thành một thông dịch viên cho những cuộc khám bệnh cho dân tị nạn trên tàu. Hầu hết những lời khai bệnh chỉ là nhức đầu, sổ mũi, nóng lạnh nên với vốn liếng Anh văn bặp bẹ tôi đã giúp nhiều gia đình có con em nhỏ.
Từ đó tôi được nhiều thiện cảm với đồng bào trên tàu hơn, và cũng từ đó họ ân cần ban bố cho tôi một ít thức ăn như sữa đặc và đồ hộp. Tôi vẫn đưa tay nhận lấy mà trong lòng thầm nghĩ: « Những thứ này không cho thì ngày mai cũng sẽ bỏ lại trên tàu thôi, những ngày qua đói khác xin thì không cho, bây giờ mình giúp họ họ lại bố thì của thừa này đây, nghĩ mà buồn cười cho con người. »
Nhưng rồi tôi vẫn làm nhiệm vụ của một thông dịch viên vui tươi.
Đến bây giờ, chắc có lẽ nhiều người đi trên con tàu Việt Thủy vẫn còn đâu đây và chắc chắn họ cũng nhớ những giây phút này. Nhưng có lẽ điều mà tôi nhớ mãi là hình ảnh những người con gái Phi Luật Tân xinh đẹp chích thuốc và săn sóc những đứa bé bị bịnh, vội vàng trao những mảnh giấy nhỏ có đề tên và địa chỉ trước khi Việt Thủy quay đầu về hướng Nam, với một lời dặn ân cần là khi nào đến Mỹ hãy viết thư liên lạc với mấy cô. Tôi gom góp những mảnh giấy nhỏ bỏ vào túi, lòng vui cười vẫy tay chào tạm biệt, và biết vẫn còn có những tấm lòng cao thượng.
Việt Thủy quay đầu rời bến, qua ngày hôm sau là đến Subic Bay. Mọi người vui mừng rời con tàu cũ kỷ, để lại tất cả những thức ăn, nước uống lại trên tàu, bước chân vào trại tỵ nạn Subic Bay.
Trại tị nạn là những túp lều bằng vải, nằm san sát trên một sân cỏ bằng phẳng, đã được dựng lên từ lâu. Mỗi túp lều chu vi khoảng 4, 5 thước vuông và được kê hai ba dãy giường bố nhà binh cho khoảng tám người ở. Ngoài những lều vải, trại Subic Bay còn có những khu barrack nằm rãi rác trong khu rừng cây xanh um. Vào giai đoạn đầu của làn sóng tị nạn, chiến dịch Đời Sống Mới (Operation New Life), Subic Bay là trung tâm chuyển tiếp, đón nhận thuyền nhân, lập hồ sơ rồi đưa đi những nơi khác như Guam, Wake và vào lục địa Hoa Kỳ. Những lúc cao điểm Subic Bay có thể lên đến vài ngàn người tị nạn.
Hằng ngày người tị nạn được ăn ba bửa: sáng, trưa, tối. Và những dịch vụ vệ sinh đều được binh lính Mỹ phục dịch. Nhưng sau vài ba tuần lễ đầu, vì tinh thần vệ sinh chung trở nên bê tha nên trại tị nạn phân chia những nam thành viên thay phiên nhau đi làm dịch vụ vệ sinh trong trại.
Subic Bay nằm trên hòn đảo Grande Island gần Manila, trên đảo có vài bãi tắm nước trong xanh và nhiều cá bơi lội trong dòng nước. Người tị nạn suốt ngày bơi lội ở những bãi tắm này. Ngoài ra trên đỉnh đồi Subic là rừng xoài bên cạnh những nhà tù được xây lên từ thời Phi Luật Tân còn là thuộc địa của Tây Ban Nha.
Một điều đặc biệt là khoảng một tháng trước ngày Sài Gòn thất thủ, vị giáo sư toán của trường đại học Khoa Học Sài Gòn, Lâm Lý Hùng, đã dùng thuyền gỗ nhỏ đưa gia đình (9 người gồm hai vợ chồng và 7 người con) rời Sài Gòn đi Úc Đại Lợi. Ngày đó, khoảng tháng 3, 1975, người dân Sài Gòn xôn xao bàn tán về chuyến đi của gia đình giáo sư Lâm Lý Hùng. Nhiều người ca ngợi lòng can đảm của ông, và nhiều người khác đánh giá sự độc tài của chế độ cộng sản qua chuyến đi một còn một mất của gia đình ông. Khi gia đình giáo sư Lâm Lý Hùng còn lênh đênh ngoài khơi Thái Bình Dương thì Sài Gòn mất, và gia đình ông nhập vào đoàn người tỵ nạn tại Subic Bay. Có lúc giáo sư Lâm Lý Hùng cũng là trại trưởng của trại tỵ nạn Subic Bay.
Người tị nạn ở đây, trong khi chờ làm thủ tục để đi định cư, họ được học Anh văn và đời sống phong tục của dân Mỹ. Chiều tối về, ngày nào cũng vậy, ban quản trị trại chiếu phim hoạt họa trên màn ảnh lớn cho toàn trại xem. Những khúc phim ngắn của Road Runner, chú thỏ Bug Bunny và cảnh rượt bắt của những con vật trong đời sống hằng ngày, mà mỗi lần một khúc phim chấm dứt là một tràng cười nổi lên, kế đến là hàng chữ “That’s All Folks” lại hiện ra. Có phải những khúc phim đó muốn nhắc lại cho mọi người biết là cuộc chiến giữa Nam Bắc Việt Nam cũng chỉ là những cuộc chém giết, rượt bắt như trò đùa của những con nộm mà giờ chót đã đến, đã hết rồi, để chỉ còn tràng cười và hàng chữ « That’s All Folks ». Trong hàng khán giả kia đâu phải chỉ có đám con nít! Họ là những nhà trí thức, những vị giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, những cấp chỉ huy và những người sinh viên rường cột của nước nhà, là tinh hoa của miền Nam Việt Nam. Đã bị đánh lừa, bị phản bội và bây giờ được nhắc nhở bằng một tràng cười và câu: « Chỉ vậy thôi, các bạn ».
Sau khi nhập trại, làm thủ tục đăng ký tên tuổi nghề nghiệp, tôi lại lang thang trong trại tìm người thân. Tôi đến thung lủng tị nạn nơi có treo bảng thông tin to như tấm bảng đen dưới gốc cây, đọc những tin nhắn tìm người thân trên đó. Không thấy tên nào quen, tôi lại lang thang trong rừng người và bất chợt tôi gặp lại hết những người đi trên Long Châu: Anh Hoàng và những anh chị em của anh Hoàng. Tất cả đã đến đây trước bốn đứa chúng tôi. Tay bắt mặt mừng, anh Hoàng gom hết anh em lại và điểm danh không thiếu một ai. Nhưng Điễn và những người lính Lôi Hổ trên tàu há miệng Hải Quân ở căn cứ chuyển vận kho 18, Tân Thuận thì không có mặt trên Subic Bay, họ đã đi thẳng đên Guam hoặc Wake.
Vài ba tuần sau khi đến Subic Bay, anh Hoàng, T và ông Si trở lại Long Châu chạy qua Guam.
Còn lại chúng tôi hằng ngày chỉ biết tắm biển, lên ăn, rồi lại xuống tắm biển rồi lại ăn. Chiều về chun vào mấy lớp Anh Văn học năm ba chữ hoặc lên hồ bơi, bơi lội, thụt bi-da. Sướng quá nên chúng tôi nói: « Vui chơi đời tị nạn » là vậy! Có một điều làm những người tị nạn chúng tôi rất hãnh diện là đội bóng chuyền của dân tị nạn. Nói đúng ra là vài tay bóng chuyền cừ khôi của Hải Quân VNCH. Tôi nhớ một người tên Thạch Sến và một người tên Giám. Hai anh này chơi bóng chuyền rất hay và làm cho đội bóng chuyền của binh lính Mỹ và Philippine phải nghiêng đầu kính phục. Thạch Sến một mình chấp 6 tay bóng chuyền Mỹ mà vẫn thắng vẽ vang dưới tiếng vỗ tay ầm ỉ của người xem! Cho nên những buổi chiều nhiều người kéo nhau ra chờ xem đấu bóng chuyền.
Khoảng một tháng sau lần lượt những người trên đảo đều rời Subic Bay qua căn cứ không quân Clark để đi tiếp. Những người còn lại của nhóm anh Hoàng trên tàu Long Châu đều ra đi khác chuyến. 20-6-1975 tôi rời Subic Bay lên chiếc C-130 (máy bay di chuyển quân đội của Hoa Kỳ) tại căn cứ Clark với vài ba trăm người khác, bay qua Guam.
Những người đến sau tiếp tục ở lại Subic Bay, trầm mình trong làn nước biển xanh, và chiều về lại xem những khúc phim rượt chạy để cuối cùng âm thanh của hàng chữ « That’s All Folks » và tiếng cười lại vang lên trong tâm tư khó chịu của người thất trận!
Chiếc C-130 vội cất cánh rời phi đạo Clark, trong nhấp nháy tôi nhìn lại Subic Bay nhỏ như hột cát. Tiếng động cơ máy bay ầm ì đều đặn, và đoàn người ngồi yên lặng, dõi mắt nhìn qua khung cửa sổ, cố ghi lại hình ảnh một vài giờ vui.

Biển và tôi

Biển và tôi

Đồng Sa Băng

Ba con tàu đổ bộ kéo miệng lên kín nghít vội vàng di chuyển ra giữa dòng sông Sài Gòn. Tối 29 tháng 4 bầu trời đen như mực, những người trên tàu lớn – bé – già – trẻ đều được lệnh ngồi im xuống sàn tàu. Con tàu được điều chỉnh với tiếng máy thật nhỏ, chỉ đủ sức để đẩy khối sắt và đoàn người đi trong im lặng.
Đoàn tàu chứa đầy gia đình binh lính Lôi Hổ, lính thiện chiến của QLVNCH. Những người lính này thường được di chuyển vào ban đêm để đột nhập vào phòng tuyến của địch. Hay những đêm tối trời họ nhảy dù xuống mật khu trà trộn trong vùng địch với những phi vụ tình báo. Hoặc những cuộc trinh sát một còn một mất. Nhiều khi họ chỉ được trở về thành phố sau nhiều tháng sống trong rừng sâu, vì vậy mà lối ăn mặc, tóc tai và bản tính của họ có phần không giống với những binh chủng khác.
Nhưng đêm nay những người lính Lôi Hổ này như cọp trong chuồng. Trước mặt họ không có quân thù, không có rừng sâu, không có những tiếng kêu rùng rợn của loài cầm thú, hay tiếng cóc nhái rỉ rã giữa đêm trường nằm ngóng quân thù. Mà chỉ có một màng đêm đen tối.
Khi con tàu qua địa phận Rừng Sát những tiếng súng nhỏ nổi lên lẻ tẻ từ hai bên bờ sông nhưng không đáng kể, con tàu vẫn âm thầm trôi đi trong bóng tối. Ngồi khép mình bên mạn thuyền tôi nhìn về vùng trời Sài Gòn, nơi đó có Mẹ, có anh em, và Phương. Có lẽ giờ này Phương đã ngủ yên giấc! Nhìn chung quanh, khối người chật như nem nhưng tuyệt nhiên im phăng phắc. Tiếng sóng lăn tăn vẫn vỗ vào mạn thuyền nghe róc rách, và con tàu di chuyển thật chậm. Nhìn về bầu trời Thủ Thiêm, những ngọn lửa đỏ làm sáng cả góc trời và chen lẫn những tiếng nổ ì ạch. Một đêm tôi thức trắng, và có lẽ nhiều người khác cũng thức trắng đêm.
Sáng 30 tháng 4, 1975 ba con tàu đã có mặt ngoài khơi Vũng Tàu. Chúng di chuyển sát nhau và quần thảo trên vùng biển nhỏ, dường như họ đang chờ đợi ai. Gió biển lạnh, thổi rì rào làm buốt da thịt. Màu nước biển đen và ánh sáng mập mờ đã thu đại dương bao la thành một không gian nhỏ bé bao quanh con tàu. Và trong không gian nhỏ này, con tàu cứ lảng vảng như vẫn còn luyến tiếc điều gì nơi bến nó ra đi.
Khi mặt trời bắt đầu ló dạng trên biển Đông, xa xa những tia sáng yếu ớt màu hồng đập vào mặt nước làm lóe lên những gợn sóng bạc đầu thì, nhấp nhô từ xa những con thuyền, to có, nhỏ có bắt đầu lù lù hiện ra. Một chiếc, hai chiếc, rồi ba chiếc, những chiếc ghe đánh cá bằng gỗ đông nghẹt người cứ nhô lên rồi lại chìm xuống. Trời đã sáng, đoàn tàu càng lúc càng nhiều hơn. Mọi người trên tàu đổ bộ đã tỉnh. Từ phía chân trời hiện lên chiếc tàu hải quân Mỹ màu xám tro nằm lù lù trên mặt biển. Thế là những chiếc tàu vượt biên đều quay đầu về chiếc tàu hải quân Mỹ mà chạy.
Bên cạnh tàu hải quân Mỹ, khoảng vài ba trăm thước, là chiếc xà lang chở đầy người lố nhố. Chiếc xà lan này đi từ Đà Nẳng vào từ mấy ngày nay. Tàu hải quân Mỹ, chiếc USS Thomaston LSD-28 thuộc Đệ Thất Hạm Đội Thái Bình Dương, có bải đậu trực thăng. Bên cạnh chiếc LSD là một chiếc soái hạm (thuộc loại FFG) chạy theo sau hộ tống.

USS Class Thomaston LSD-28 ship

Khoảng 9 giờ sáng ngày 30 tháng 4, từ xa chiếc tàu đánh cá chở đầy người đang bập bềnh nhấp nhô theo nhịp sóng như muốn chìm trong biển sâu, cố gắng lại gần tàu đổ bộ. Khi đến gần, những người trên tàu đánh cá chờm mình lên mũi tàu van xin được cứu vớt. Nhìn họ như những con chim ướt sũng, run rẫy trong cơn gió lớn muốn tìm một tàn cây để núp. Con tàu nhỏ bé vẫn bập bếnh trên ngọn sóng và những khuôn mặt hãi hùng giương tròn đôi mắt nhìn về chiếc tàu đổ bộ khẩn cầu. Nhưng, một khẩu lệnh từ đâu trên chiếc tàu đổ bộ đưa xuống: « Bắn! »
Liền sau tiếng « Bắn » người lính Lôi Hổ kéo cò cây súng M16 rắc một tiếng. Hàng loạt những viên đạn bay vèo vèo về chiếc tàu đánh cá, găm chụt chụt xuống nước, ria thành hình chữ V bao quanh mũi tàu. Chiếc tàu đánh cá mong manh khựng lại, và những người trong tàu chấp tay lạy như rái. Những gương mặt hốc hác run rẩy lại càng thêm run rẩy, và con tàu nhỏ bé lặng lẽ lùi dần ra xa.
Tôi đứng đó, tay siết chặt thành tàu nhìn đám người chấp tay lạy trước làn đạn mà lòng tê cứng. Không biết họ kinh hoàng hay chính lòng tôi thấy sợ.
Ngoài khơi Vũng Tàu lúc này tàu vượt biên càng đông hơn, quần thảo lại một vùng như buổi chợ nổi. Tiếng kêu cứu, van xin, la hét như loạn. Mọi người đều nhắm vào chiếc tàu hải quân Mỹ và chiếc xà lan khổng lồ.

LCU US NAVY chở dân di tản 1975

Nhưng tiếng súng chát chúa vừa rồi xua đuổi con tàu đánh cá đã giấy lên một không khí rối loạn trên mặt biển. Đáp lại những tiếng súng từ chiếc tàu đổ bộ là, chiếc soái hạm chạy bắn nước, đánh một vòng bên cạnh chiếc LSD như con ngựa trở chứng! Và kế tiếp là lệnh từ đâu đưa ra bảo mọi người phải vứt tất cả súng ống xuống nước mới được lên tàu lớn. Những khẩu Carbin xếp, M16, và những cây súng lục ngắn gọn rất đẹp lần lượt được ném xuống biển sâu! Từ đây trên tàu đổ bộ trở thành một nơi vô trật tự, không ai nghe ai. Nơi đây nếu còn luật lệ thì chỉ còn luật mạnh còn yếu chết.
Trong đám tàu kia có hai chiếc tàu buôn: Long Hồ và Long Châu, hai chiếc tàu cùng một chủ đang đi bên cạnh nhau. Tôi biết anh Hoàng là sĩ quan cơ khí của tàu Long Hồ, mấy tuần nay tình hình rối loạn ở Sài Gòn tôi không liên lạc được. Bây giờ Long Hồ xuất hiện ở đây, tôi nghĩ thế nào cũng có người quen trên đó. Trước những cảnh đáng sợ, tiếng súng đạn và con người cấu xé lẫn nhau để được bốc lên tàu lớn, đã làm chùn ý tưởng « ra đi ôm mộng trùng dương » của tôi. Tôi quay mắt theo dõi chiếc Long Hồ. Bất chợt chiếc tàu đổ bộ tôi đi quay đầu về chiếc Long Châu. Khi hai chiếc tàu sắp chạm nhau tôi mới biết là trên Long Châu có một vị quân nhân Lôi Hổ cấp Tá có gia đình đang đi bên tàu đổ bộ, và vị sĩ quan cấp Tá này muốn nhảy qua tàu đổ bộ cùng gia đình. Trong khi hai chiếc tàu đang điều động gần nhau tôi thấy anh em anh Hoàng có mắt trên Long Châu, tôi vội mừng như kẻ sắp chết đuối vớ được phao, tôi la lớn:
-Anh Hoàng tui qua bên tàu anh được không?
Anh Hoàng liền đáp:
-Tàu tao trở lại Sài Gòn.
Nghe mấy tiếng « trở lại Sài Gòn » tôi mừng quá. Tôi liền nói:
-Anh đợi tui qua với, tui cũng muốn trở lại Sài Gòn.
Anh Hoàng liền nói:
-Ừ, qua đi.
Tôi quay qua Điện:
-Anh ở lại đi nhe, tui trở lại Sài Gòn.
Điện nghe tôi nói thế liền đáp:
-Mầy về thì tao cũng về chứ đi một mình chi.
Tôi chen chân bước về hướng mũi tàu, nơi hai chiếc tàu sẽ chạm nhau cho vị sĩ quan cấp Tá bước qua. Tôi liền nói với mấy anh Lôi Hổ đang ôm súng đứng trước mũi tàu:
-Anh cho tôi qua chiếc tàu kia nhe.
-Không được. Không được lộn xộn, trở lại không tao bắn chết bây giờ.
Anh lính Lôi Hổ nhìn tôi sừng sộ, nạt.
Nhìn nét mặt anh tôi hoảng sợ, liền ôm túi sách lùi lại phía sau tàu. Hai chiếc tàu chỉ còn một chút nữa là chạm nhau, tôi thấy viên sĩ quan cấp Tá đang đứng trên mũi Long Châu, chờ bước qua. Tôi ao ước được làm như ông ta, nhưng không được! Hai con tàu chỉ cập sát nhau để chuyển một người rồi sẽ gian ra xa. Tôi quẩn trí, không biết phải làm sao để qua bên kia, để được về với gia đình, với Phương, và với sự bình an mà hằng ngày tôi vẫn có, và nhất là để khỏi thấy cảnh con người đối xử tàn nhẩn với con người. Chỉ một bước thôi, một bước là tôi sẽ xa rời những ưu phiền sợ sệt, những hãi hùng mà sáng nay tôi đã chứng kiến. Nhưng bước chân đó tôi không thực hiện được! Khi hai con tàu xích gần lại nhau thì người trên tàu đổ bộ xôn xao, ồn ào như náo loạn. Người lính Lôi Hổ phải bắn chỉ thiên mấy phát và ra lệnh mọi người đứng im tại chỗ. Tôi nhìn anh Hoàng, chỉ tay xuống biển ra ni và nói:
-Anh thả phao xuống kéo tui lên được không?
Anh Hoàng nhìn xuống mặt nước, ngước mặt nhìn tôi nói:
-Được. Nhưng mầy dám nhảy xuống không?
Lúc này hai chiếc tàu đâu lại thành hình chữ V, vị sĩ quan cấp Tá sắp bước chân qua, và Điện đang đứng sát bên tôi. Tôi không còn thì giờ để do dự, chỉ có giây phút này thôi rồi hai con tàu sẽ xa nhau, và cơ hội trở lại Sài Gòn sẽ không đến với tôi lần thứ hai trên biển này. Tôi liền tròng túi hành trang qua cổ, xong, nhảy xuống biển!
Liền theo đó Điện cũng nhảy xuống biển theo tôi.
Hai chiếc phao từ Long Châu liệng xuống nhưng cả tôi lẫn Điện đều chụp hụt, lập tức hai chiếc phao bị dòng nước tống ra phía sau. Con nước giữa hai chiếc tàu như một dòng sông chảy xiết, chỉ trong vòng vài ba phút phấn đấu tôi đã mệt lã, và con nước xoi tôi và Điện về phía đuôi tàu. Tôi ngóc đầu lên nhìn những người trên tàu Long Châu, con sóng lại đánh tôi lao chao, tôi quậy tay chân giữ thăng bằng, và hai cái phao thứ hai liệng xuống. Tay tôi quờ quạng trong con sóng và chụp được chiếc phao, khi tôi chỉ còn cách chân vịt khổng lồ của Long Châu không bao xa. Tôi vội vàng chui đầu vô phao cấp cứu, lấy sợi dây còn lại quấn lia lịa trên mình, trên phao, rồi nằm như con cá chết! Mấy người trên Long Châu kéo tôi lên khỏi mặt nước, bỏ trên boong tàu. Tôi mệt lã người, chỉ hỏi:
-Điện đâu?
-Nó chụp hụt phao, nước đẩy ra sau và được tàu đánh cá vớt rồi.

Tiếng nói của ai đó trên tàu Long Châu cho tôi biết. Tôi nằm sãi sòng trên boong tàu, người lã đi. Hơn nữa tiếng đồng hồ sau tôi bình phục và đi lại trên tàu Long Châu. Chiếc tàu đổ bộ hải quân đã tách xa Long Châu và đang nhập với những chiếc tàu khác bên cạnh xà lang và tàu hải quân Mỹ. Tôi dõi mắt nhìn theo những chiếc tàu chung quanh nhưng không thấy bóng dáng Điện. Từ đó tôi mất liên lạc Điện.
Nhìn lại trên tàu Long Châu chỉ có trên dưới 20 người kể cả gia đình Thuyền Trưởng và anh em anh Hoàng. Những người trong nhóm anh Hoàng tôi đều biết.
Đã gần trưa ngày 30 tháng 4, Long Châu chở đầy xăng dầu và Long Hồ chở gạo nằm ì tại chỗ. Máy vẫn nổ nhưng tàu chỉ lần quần ngoài khơi Vũng Tàu, chưa chịu đi. Tôi hỏi chừng nào quay đầu trở lại Sài Gòn thì chỉ nghe anh Hoàng nói đợi một lát nữa. Nữa tiếng đồng hồ rồi một tiếng, hai tiếng đồng hồ trôi qua tàu vẫn chưa nhúc nhích. Tôi đi lòng vòng trên tàu, vào những phòng ngũ của thủy thủ xem xét. Lật nệm giường ngủ lên tôi thấy súng M16, đạn dược và lựu đạn nằm la liệt dưới giường. Thì ra chiếc Long Châu từ Đà Nẵng vào chở hơn một tiểu đội Lôi Hổ. Khi đến Vũng Tàu những người lính Lôi Hổ trở vào bờ bỏ lại súng đạn nơi đây, và trong số người từ Đà Nẵng vào có vị sĩ quan cấp tá Lôi Hổ, một Đại Tá Cảnh sát và một tà lọt. Tôi nôn nóng đợi không biết chừng nào tàu sẽ trở lại Sài Gòn. Nơi đây không khí càng lúc càng sôi nổi. Những chiếc ghe đánh cá thi nhau chạy về tàu lớn.

Dân di tản hướng về tàu lớn

Khoảng 10:30 trưa 30 tháng 4, trên radio lời tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được loan đi. Chấm dứt! Chính thể Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam chấm dứt vào lúc trưa 30 tháng 4, 1975!
Ngoài khơi biển Vũng Tàu dậy sóng. Những chiếc tàu con chạy loạn xạ tìm tàu cứu vớt. Chiếc LSD hải quân Mỹ thả lưới xuống kéo người từ xà lang và những chiếc ghe con. Từ xa tôi nhìn về chiếc LSD, hàng hàng lớp lớp những bàn tay con người nhôn nháo bám vào mảnh lưới để được kéo lên như kéo những kiện hàng. Người đạp lên người, những bàn tay bám víu vào mảnh lưới không chịu nỗi sức nặng của chính mình, và rớt lủm bủm xuống nước giữa hai con tàu. Xa quá, tôi không biết những người rơi rớt xuống biển có được cứu vớt lên không? Hay chỉ là miếng mồi cho cá! Hay có lẽ đã bị nghiền nát bởi hai thành tàu!
Từ thành phố Sài Gòn những chiếc trực thăng ào ạt mang người di chuyển ra chiếc LSD và Đệ Thất Hạm Đội Thái Bình Dương. Khi những nhân viên cuối cùng đáp xuống chiếc LSD an toàn thì những chiếc trực thăng cũng lần lượt bị xô xuống biển, lấy chỗ cho chiếc khác đáp xuống.
Trời về chiều, gió thổi mạnh và bọt nước chung quanh chiếc LSD như lớp sương mù. Và hết lưới này đến lưới khác, bóng người vẫn đu đeo, và bóng người vẫn rơi rớt giữa hai con tàu. Ba con tàu đổ bộ từ căn cứ chuyển vận kho 18, Tân Thuận Đông quay đầu lên đường đi Subic Bay, Phi Luật Tân. Những tàu sắt có khả nămg đi một mình thì ra đi. Long Châu và Long Hồ cũng bắt đầu lên máy. Tôi quay qua hỏi anh Hoàng:
-Sao anh đi hướng này?
-Thì tao nói với mầy tàu tao trở lại Sài Gòn để khỏi bị nhiều người bu lên, đơn giản vậy thôi.
Tôi ngỡ ngàng nhìn anh Hoàng!
Long Châu hú lên một hồi còi, tôi nhìn lại chiếc xà lan và đám ghe nhỏ mong manh. Chắc Điện đang loi nhoi đu đeo theo lưới trong đám người đó! Rồi tôi tự hỏi: « Long Châu sẽ đi về đâu? ». Long Châu, những ngày rong ruổi!

30-4-1975: HỎA VẬN HẠM HQ.472

30-4-1975: HỎA VẬN HẠM HQ.472 TRONG NHỮNG THÁNG NGÀY CUỐI CỦA CUỘC CHIẾN

Lê Châu An Thuận

MẤT NƯỚC LÀ MẤT TẤT CẢ! ĐỪNG BAO GIỜ TRÔNG CHỜ VÀO SỰ BAO DUNG ĐỘ LƯỢNG CỦA ĐỐI PHƯƠNG, DÙ ĐỐI PHƯƠNG ĐÓ LÀ NGƯỜI CÙNG MÀU DA, CÙNG TIẾNG NÓI VỚI MÌNH!

Đang là Hạm trưởng Hỏa Vận Hạm – HQ. 472, thì vào đầu tháng 2 năm 1975, tôi nhận Lệnh thuyên chuyển về làm Thuyền trưởng cho hãng tàu Vishipco Lines, và chờ vị Hạm Trưởng mới đến thay thế tôi; đến giờ nầy tôi vẫn còn giữ LTC làm “kỷ vật”. Tiếc thay vị đó lại đi học khóa Tham mưu cao cấp, một vị khác lại được chỉ định đến thay thế cho tôi, nhưng không biết vì lý do gì cũng chưa trình diện BTL/Hạm Đội để nhận công tác. Ông Chỉ Huy Trưởng Hải Đội động viên tôi đi thêm một chuyến công tác. Từ cực nam của miền Nam chúng tôi “dong ruỗi” trên con đường tiếp tế cho từng vùng để các đơn vị, các chiến hạm có đủ nhiên liệu hoạt động trên biển. Từ An Thới, Phú Quốc chúng tôi bom đầy cho Căn cứ Yểm Trợ Tiếp vận và các chiến hạm hoạt động trong vùng; ghé qua Côn Sơn tiếp tục nhiệm vụ của mình và trực chỉ Vũng Tàu để vào Cát Lỡ lấy dầu và tiếp tế cho các chiến hạm đang neo đậu tại đây.

Nhận được lịnh ra Qui Nhơn để tiếp tế cho các chiến hạm từ Vùng I Duyên Hải trên đường xuôi nam. Tình hình chiến sự trong đất liền thì càng lúc khó khăn cho miền Nam, tinh thần anh em dưới tàu của tôi không có biểu hiện hoang mang hay lo sợ. Tôi vững lòng vì mọi người trong chúng tôi hiểu lẫn nhau và đã cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn trong một thời gian tương đối khá dài.

Từ nhiều nguồn quân sự và dân sự tôi biết chắc rằng miền Nam Việt Nam đang trải qua những ngày tháng đen tối, từ sai lầm chiến lược và chiến thuật, chúng ta khó có thể đảo ngược và gìn giữ sự nguyên vẹn của miền Nam như trước đây. Giải pháp chính trị nào cho Việt Nam đây? Thi hành Hiệp định Paris? Đành chờ và xem!

Tôi và anh em trên tàu phải làm tròn trách nhiệm mà mình đang gánh trên vai, tuy nhỏ nhoi nhưng chúng tôi phải làm tốt để cuộc triệt thoái được thành công. Ngày 21/3/1975 sau khi vào lấy dầu tối đa có thể tại Căn cứ xăng dầu của Quân vận tại Qui Nhơn, tôi ra lệnh anh em phải cẩn thận vì tối hôm trước đó người nhái Việt cộng toan tính đặt mìn tàu bịnh viện hạm HQ.400 nhưng may mắn anh em phát hiện và bắt được hai người, chúng tôi ra neo ở ngoài cảng và cho một số anh em ra phố đi chợ vì thực phẩm trên tàu đã cạn kiệt; anh em đi chợ về cho biết thành phố gần như bỏ ngõ, chỉ lèo tèo vài anh cảnh sát còn phụ trách lưu thông trên đường phố.

Tôi nhận được yêu cầu từ Hộ tống hạm HQ. 08 đến tiếp tế dầu; tôi được biết Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lịnh Vùng I Duyên Hải đang trên chiến hạm nầy. Tôi gặp anh Nguyễn Trường Yên, Hạm trưởng, anh là một trong ba bốn anh cùng khóa 15 rất xuất sắc và đảm nhiệm chức vụ Hạm trưởng trên các chiến hạm lớn sớm nhất của Hạm đội. Tôi lên đài chỉ huy của chiến hạm trình diện Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và nhận thấy ông đang mặc jacket hải quân và trên mặt có vết sước nhẹ. Trọng tâm của ông trong lúc nầy là rước càng nhiều càng tốt anh em binh sĩ Sư đoàn 3 Bộ binh và hướng dẫn các đơn vị chiến hạm, chiến thuyền của vùng I về Vũng Tàu.

Tách khỏi chiến hạm HQ. 08, thì vào lúc 1:00 chiều ngày 31 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đón tiếp HQ. Đại tá Nguyễn Công Hội, Tư Lịnh phó Vùng I Duyên Hải lên chiến hạm chúng tôi để chỉ huy đơn vị trưởng các chiến đỉnh của vùng tập trung lại để cùng về Vũng Tàu. Tôi và ông có quan hệ trong công tác, trước đây ông là Chỉ huy trường Hải đội Tuần Duyên và tôi là Hạm trưởng một chiếc PGM dưới quyền ông; sau nầy khi ông về vùng I thì tôi lại trình diện ông mỗi khi công tác ở đây. Ông là người trầm tĩnh, ít nói, có kinh nghiệm chỉ huy cao.

Đồng thời chúng tôi cũng có chở Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh và các Sĩ quan Tham mưu của ông trên chiến hạm của chúng tôi. Mọi người đều lo lắng cho các đơn vị và binh sĩ dưới quyền. Binh lính của Sư đoàn 3 Bộ binh có mặt trên tàu khá đông song anh em giữ kỷ luật rất tốt.

Đính kèm là trang số 40 của Nhật Ký Tư Lệnh do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh viết:”Tôi cùng đại tá Hội, tư lệnh phó Vùng I Duyên hải sang tàu dầu 542 [ đính chánh 472] (hạm trưởng trung úy An Thuận [đính chánh đại úy]) cùng một đoàn tàu nhỏ đi về Cam Ranh.

Sau cùng thì cả đoàn tàu đã về đến Cam Ranh an toàn. Các vị quan khách lần lượt rời chiến hạm, trả lại không gian an bình và sinh hoạt bình thường cho chúng tôi. Trong suốt thời gian qua vì cùng phụ giúp các vị tướng, tá chỉ huy trên tàu nên tôi chỉ ngủ được chừng một tiếng đồng hồ/ngày. Café và trà là nguồn trợ lực rất quý giá cho tôi, ăn uống chỉ là phụ. Ai nấy đều như “xác không hồn”.
Sáng sớm ngày 2 tháng 4 năm 75, chiến hạm được lệnh rời Cam Ranh lên đường về Vũng Tàu để chuẩn bị vào lại Căn cứ Yểm trợ Tiếp Vận Cát Lở lấy dầu; về đến Vũng Tàu ngày 4 tháng 4 năm 1975. Tiếp tế dầu và nước cho các chiến hạm đang neo đậu tại Vũng Tàu, nhưng vì tình trạng kỹ thuật tàu của chúng tôi quá tệ, nên lệnh cho chúng tôi neo tại chỗ để các cơ xưởng hạm có mặt ở đây sửa chửa những hư hỏng kỹ thuật cho chúng tôi. Quyết định sau cùng là phải vào Ba Son để sửa chữa vì các cơ xưởng hạm ở đây không có các bộ phận thay thế. Anh em có thân nhân ở Saigon hoặc ở các vùng phụ cận, và bản thân tôi, chỉ mong được về Saigon sau một chuyến công tác dài ngày trên biển từ cực nam đến cực bắc duyên hải của miền Nam, và trong giai đoạn nghiêm trọng nầy của đất nước chúng tôi cũng còn có trách nhiệm với gia đình vợ con.

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức trao quyền cho cụ Trần Văn Hương, anh em chúng tôi trên tàu biết rằng miền Nam của chúng ta đang trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn và chắc chắn không đủ sức cầm cự được lâu.

Về đến Saigon chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi cho anh em về nhà để mang gia đình vào sáng sớm ngày hôm sau, để số còn lại sẽ về nhà ngay, trong đó có tôi. Tối hôm đó thì thợ Ba Son xuống tháo ráp máy móc hư hỏng dưới tàu để đem về xưởng, cùng với anh em còn lại, chúng tôi theo dõi tiến trình sửa chữa; tôi lên BTL/Hạm Đội gặp sĩ quan trực để biết thêm tình hình hiện tại của Hải Quân và của đất nước, và gọi điện thoại về nhà, báo cho gia đình chuẩn bị sẳn sàng để ngay mai khi tôi về thì có thể rời nhà ngay. Những quyết định gấp rút và khó khăn vô cùng cho mọi người!

Ngày hôm sau khi tôi về nhà, đang loay quay kêu gọi người thân trong nhà chuẩn bị đi thì đã có lời kêu gọi hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi và vợ tôi hy vọng vào các bạn tôi đang neo tàu buôn ngoài sông Saigon, vô ích và không có kết quả, cố gắng vào Cảng Saigon, kết quả cũng không có gì tốt hơn.

Mặc dầu có nhiều cố gắng nhưng chúng tôi không thành công, thôi thì đành tự an ủi “không thành công thì cũng thành nhân” nhưng cái giá phải trả lại quá đắt là những năm tháng tù đày đói rách tại miền bắc, và bài học đầy máu và nước mắt mà tôi học được là: Mất nước là mất tất cả, đừng bao giờ trông chờ vào sự bao dung độ lượng của đối phương, dù đối phương đó là người cùng màu da, cùng tiếng nói với mình! Cũng trong khoảng thời gian đó, nhiều nước thuộc địa khác không cần hy sinh hơn hai triệu con dân của mình và mất 20 năm nội chiến để giành độc lập cho xứ sở của mình; họ không ngu dại để “chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”, phát biểu của Lê Duẩn; nước Đức thống nhất không có đổ máu, không có phân biệt đối xử quốc gia hay cộng sản, người dân Tây Đức hy sinh tiền của để cưu mang người dân Đông Đức và cả nước cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh như ngày hôm nay, và đương kim thủ tướng Đức là một chính trị gia xuất thân từ nửa nước Đức “hậu cộng sản”… Vậy ai khôn hơn ai?

Vận nước đến hồi đổi thay để mọi người dân miền Nam cùng chia sẻ với dân miền Bắc, cùng nhau chạm mặt chế độ cộng sản, một chế độ đàn áp có hệ thống các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội và tập hợp hòa bình và sẵn sàng trấn áp những ai dám kêu gọi dân chủ, tự do.

Giờ đây giới trẻ đã có ý thức rằng họ phải bảo vệ tổ quốc, và họ đã và đang dấn thân trong việc thực thi dân chủ và thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam, bắt đầu tiến trình thoát khỏi chế độ cộng sản cầm quyển với bản tánh ích kỷ, vô lương. Hy vọng đây là mở đầu cho một giai đoạn mới cho tuổi trẻ thức tỉnh và vùng lên để lấy lại chính nghĩa cho tổ quốc.

Lê Châu An Thuận

Nhớ những ngày tháng 3 và tháng 4 năm 1975

Chuyến đi Nam Vang

Chuyến đi Nam Vang

Chí Hợi

Hè 2008 – Melbourne

Lên tầu nhận việc

Chiếc M/V Monte Christo từ Singapore đi Nam Vang phải ghé qua cảng Saigon để thay Thuyền Trưởng khác vì ông Reboul, đương kim Thuyền Trưởng, một người Việt nhưng mang quốc tịch Pháp không muốn lái tầu đi Nam Vang và đồng thời để nhận hàng, một số gạo do viện trợ Mỹ cung cấp cứu dân Kam-pu-Chia. Liên lạc được biết người Thuyền Trưởng sẽ thay thế là ông Nguyễn Thế Nghiệp và đang thiếu Thuyền Phó, tôi đi lại ngay hãng Đại Diện tầu (Shipping Agent) xin việc và được chấp thuận làm Thuyền Phó. Lòng mừng rỡ vì có việc làm, lương tương đối khá cao nhưng ngựơc lại rất gian nan, khó khăn và nguy hiểm. Nhiều đoạn đường sông đi Nam Vang thường hay bị phục kích, giật mìn thuỷ lôi.

Chiếc tầu cũ kỹ, chủ là ông Tăng Bạ, một thương gia rất giàu người Hoa, có nhiều cơ sở kinh doanh ở Nam Vang. Tôi viết tên  theo lối nói của thủy thủ đoàn người Miên gọi nhưng chưa bao giờ được giáp mặt nói chuyện với ông ta. Toàn  thân tầu đựơc  quét một lớp sơn mới, trông xa rất đẹp nhưng khi lại gần, nhìn thật rõ mới biết tầu rất cũ, sét rỉ nhiều chỗ. Đài chỉ huy ở giữa, hầm hàng ở trứơc và một ở sau. Phần trên boong có chỗ ăn ở cho mọi ngừơi thật rộng rãi, khoáng đãng, phần hầm ở phía dưới là máy và láp chân vịt. Nguyên thủy là máy chạy bằng hơi nước (machine à vapeur), nhưng sau này đựơc thay  thế bởi một máy Diesel cũ, nhưng mạnh. Nồi xốt-de (chaudière) vẫn còn đang xài và dùng để chạy cần câu bốc dỡ hàng. Trọng tải khoảng 3000 tấn.

SQ Đệ tam là một người Miên, anh này thích hay phô trương. Lúc nào cũng trịnh trọng trong bộ short trắng, vai đeo lon, chân đi giầy da đánh bột trắng bóc khác xa với hai người Việt chúng tôi, lúc nào cũng mặc áo bỏ ngoài, lúc đi dép, lúc đi giầy. Xếp máy là một thanh niên trẻ tên Diệp Lên, có du học tại Đông Đức về máy tầu nên có đựơc  bằng cấp cao, anh này rất thân với tôi và nói tiếng Pháp giỏi. Còn lại tất cả thủy thủ đoàn đều là người Miên, trong đó có một số ít người già có kinh nghiệm lâu năm làm nghề tầu biển, số còn lại là thanh niên trẻ. Nghe họ nói bọn trẻ này là con nhà giầu, có tiền nhiều để chạy mua đút lót sổ thủy thủ (livret marin), trốn quân dịch đi lính và được xuất ngoại. Một đôi người nói tiếng Việt giỏi và có người lấy vợ Việt nhưng sống ở Nam Vang. Tất cả nhân viên đều vui vẻ, lịch sự và lễ phép với nhau lúc chung sống và làm việc trên tầu.

Thương thuyền được các chiến đỉnh và chiến hạm hộ tống trên sôngMékong

Tôi xuống tầu Monte Christo để nhận việc lúc nó đang được cột tại phao, gần phía  bên bờ Thủ Thiêm, đối diện trụ sở văn phòng của hãng Messageries Maritimes. Tầu đang chờ đợi bến trống để cặp bến « ăn gạo ». Một chiếc đò nhỏ đưa tôi qua sông và leo lên tầu đúng lúc đang có một chiếc ghe bầu cặp bên cạnh để đưa cát lên và được dùng để phòng thủ với những bao cát đựơc đổ đầy. Được giới thiệu với cai boong và các nhân viên đang xúc cát đổ đầy vào các bao, tôi bắt tay từng người, chào hỏi vui vẻ.

Vào phòng nhận buồng và đi một tua quan sát tầu, đài chỉ huy, phòng vô tuyến, phòng ăn, nhà bếp và hầm máy, hầm hàng. Thôi cũng tạm chấp nhận giang sơn mới của mình, nơi đây sẽ đổ mồ hôi, sức lao động kéo cày kiếm sống qua ngày. Các bao cát được chuyền lần và chất đầy xung quanh đài chỉ huy, trông có vẻ vững chắc, tạm đủ bảo vệ chống phục kích của Miên Cộng.

Một số ghe nhỏ bu quanh tấp nập để hỏi han các thuỷ thủ có hàng gì bán không. Tôi thấy họ trao nhau nhiều món đồ nhỏ như đồng hồ Seiko 5, từng bao hộp dầu xanh hiệu con ó,  radio transistor lọai nhỏ có một và hai băng, thuốc lá thơm đủ loại. Họ cũng lén lút, dấu diếm tránh quan thuế, nhưng vẫn có những kẽ hở để hàng lậu lọt qua được. Đứng trên đài cao nhìn xuống thấy vui vui và buồn cười, phần vì ngôn ngữ bất đồng, phần thì mặc cả, trả giá qua lại, hai bên giằng co, giằng lại, người muốn bán, người không muốn mua.

Qua hôm sau có Hoa tiêu xuống, dắt tầu qua bên kia thương cảng cặp bến để chuẩn bị « ăn hàng ». Tầu không cặp bến mà cặp bên cạnh một chiếc tầu buôn to lớn, khổng lồ của Mỹ để từ đó câu gạo trực tiếp từ tầu lớn qua tầu bé. Đây là chính đúng lúc tôi  đảm nhiệm vai trò Thuyền Phó, nhận mọi giấy tờ các cơ quan liên hệ về quan thuế,  giấy nhận hàng ( manifeste de cargo ) do cơ quan viện trợ Mỹ đưa xuống, lập bảng chia gạo trong các hầm hàng (plan de cargo), trông coi kiểm sóat nhân viên đếm hàng (pointers ) xem có bao nhiêu bao gạo chất xuống tầu cho thật đúng với giấy tờ, công việc thật bận rôn, nhưng tôi đã quá quen nên không có gì khó khăn cả.

Thời gian thật cấp bách, hàng phải xuống cho thật nhanh, phải đủ số lượng nhận theo tờ manifeste, nhưng phu bến tầu làm chậm quá. Thuyền Trưởng tầu Mỹ cứ hối thúc đòi cho làm cả đêm lẫn ngày để mau xong việc, tách bến về Mỹ. Phần tầu của tôi cũng vậy, cũng phải tranh thủ thời gian cho mau xong để cùng gia nhập đoàn công voa (convoi) có hộ tống đi Nam Vang. Đến ngày giờ ấn định, hai tầu đều phải tách bến mặc dầu số gạo chất qua chưa đủ. Hầm phải đóng lại, niêm chì, làm biên bản và hoàn tất thủ tục giấy tờ các lọai.

Ngày giờ khởi hành đã ấn định, tất cả chuẩn bị chu đáo. Giấy tờ về hàng hóa đã xong, quan thuế kiểm soát cẩn thận kỹ lưỡng. Trên boong, dưới máy, nhà bếp đi chợ mua lương thực đầy đủ. Hoa tiêu lên tầu, cờ chử P (sắp khởi hành) và cờ chữ H (có hoa tiêu trên tầu) đựơc kéo lên cao ngọn cờ. Các dây đỏi tháo hết kéo về,  tầu từ từ xa bến, đổi hướng hạ giòng đi ra biển.

Qua Vũng Tầu, Hoa Tiêu sông Saigon xuống và Hoa Tiêu sông Cửu Long lên để thay đổi nhau. Tầu quay một vòng, chạy ngược lên phía Cửa Tiểu, cũng giang hành trong sông. Hai bên bờ cây cối đủ lọai xanh rì, ẩn hiện lấp ló bên trong những căn nhà tranh, vách lá của cư dân địa phương. Tầu vẫn tiến mạnh, chạy hết tốc độ. Qua ngang Mỹ Tho, nơi dây quá quen thuộc và thân thương đối với tôi.  Bắc (đò ngang) Bến Tre, đò dọc, ghe đuôi tôm, ghe bầu đi hàng đoàn  dài được giòng bởi một chiếc tầu kéo nhỏ xíu nhưng có máy rất mạnh chạy xuôi ngược, tấp nập trông nhộn nhịp thật vui mắt. Không bao lâu đã đến Tân Châu, Hồng Ngự, nơi gần biên giới Kam-Pu-Chia, lúc đó đã xế chiều. Hoa tiêu xuống rời tầu, sau khi đã thả neo để tầu nhập cùng một đoàn thương thuyền khác đã đến đó từ trước, đang đậu chờ đợi đoàn tầu escorte convoi của HQ Kam-Pu Chia đến. Được ngắm nhìn cảnh trời, sông nước bao la của một buổi chiều tàn trên sông Cửu Long, đó là cả một niềm phấn khởi lý thú, tràn ngập đầy thi vị. Tầu HQVN sẽ hộ tống phụ tiếp vào lãnh thổ Miên cho đến tận « Hố Lương » (ngừơi Miên gọi là Neak Luong), rồi tiếp đó giao phó hoàn toàn cho HQ Miên đảm nhiệm phần còn lại. Đoàn tầu vượt biên giới gồm  năm chiếc thương thuyền, trong đó có một chiếc tầu dầu  mà tôi rất lo ngại thương xót cho số phận của nó nếu bị bắn trúng.

Vượt biên giới

Một buổi sáng, vào giờ khởi hành đã ấn định, tất cả rục rịch kéo neo, nổ máy vượt biên giới, hướng sang Kam Pu Chia. Đoàn tầu nhỏ của HQ hộ tống lăng xăng chạy chung quanh, phân chia vị trí để bảo vệ cho đoàn tầu buôn. Quang cảnh có phần thay đổi khác với bên VN, các tầu vẫn nối đuôi nhau hàng một tiếp tục theo nhau đi trong sông. Hai bên hông, đoàn tầu nhỏ hộ tống chạy kề kề, súng ống chỉa thẳng vào bờ sẵn sàng nổ súng khi hữu sự. Nhà cửa đều là loại nhà sàn, cư dân có vẻ thưa thớt khi lần lần xa hơn, khác lúc ở gần biên giới. Điểm đặc biệt khác với địa thế vùng VN là hai bên bờ sông, mô đất nhô lên cao hơn mặt nứơc khoảng 1 hay 1,5 mét,  cây cối, bụi cây mọc xanh um, khó có thể  thấy đựơc xa tận bên trong cùng vì bị che lấp tầm mắt bởi cây cối rậm rạp. Nhiều chỗ  cảm thấy rất thuận tiện cho các cuộc phục kích bất ngờ của địch quân. Bờ đất đỏ khô cứng, đôi chỗ thụt lõm vòng cung vào bên trong, đôi chỗ dôi ra vòng cung bên ngoài, phần trên đất mọc các loại cây chằng chịt, rất tốt cho địch ẩn núp quan sát, mà ta chẳng hề hay biết gì vì bị khuất tầm mắt .

Được nghe kể lại, sau các lần phản pháo bắn trả lại địch trong các cuộc phục kích, quân ta đổ bộ lên bờ, quan sát trận địa. Kết quả báo cáo cho biết địch quân chạy tán loạn vào bên sâu trong đất liền, trốn thóat đựơc qua khỏi tầm nhìn quan sát và tầm đạn truy kích tác xạ của ta. Địch an toàn tiếp tục chạy sâu vào bên trong mà quân ta không dám truy kích đuổi theo. Súng lớn, hỏa lực chánh sử dụng đều thuộc loại có công dụng phòng không như Oerlikon 20 mm hay Bofor 40mm, nay đựơc trang bị cho tiểu đĩnh nên không thích hợp mấy ngọai trừ khẩu pháo cối 81 ly (có tầm xa  tối đa 4 km bắn cầu vồng)  hay cối 60 ly (xa 1 km) có tác dụng hữu hiệu nhất một khi bắn trúng đích.

Đạn 20 mm, khi chạm chỉ phá một lỗ trong lòng đất  khoảng lớn như trái dưa hấu (cỡ hơn trái bánh đá một ít), vả lại là loại rất nhậy nổ (chuyên để phòng không), chỉ chạm cành cây hay thân cây nhỏ, đạn cũng tự nổ ngay lập tức. Kết quả là chưa chạm địch thì đạn đã nổ rồi, công dụng tàn phá không trúng đích.

Đạn 40 mm có sức công phá mạnh hơn, nhưng cũng là loại phòng không, không thích hợp mấy cho việc tiêu diệt hay công phá các mô đất, các hang núp bắn sẻ cá nhân  đào sâu trong lòng đất của du kích. Đạn đụng bất cứ vật gì là nổ ngay, cho dù chưa chạm đích, ngoại trừ đó là đạn xuyên phá. Sức công phá chỉ đào đụơc trong đất một khoảnh lớn độ hơn thể tích cái lu đất mà thôi, không có tác dụng hữu hiệu tiêu diệt địch núp trong những hang hóc (danh từ địch gọi là ổ hang cóc) ở trên bờ mô đất cao.

Một chiếc PBR cặp lại kè bên, cột dây vào để đựơc tầu tôi kéo chạy theo, nhân viên lười không muốn lái, nghỉ ngơi và đùa giỡn với nhau. Tôi được nói chuyện với viên Thiếu Úy chỉ huy con tầu nhỏ đó. Anh ta trịnh trọng trong bộ quân phục mầu xanh cứt ngựa, ủi hồ láng cóng, chân đi đôi giầy đen cũng được đánh xi láng cóng, đầu đội casquette có huy hiệu écussion thêu kim tuyến chỉ vàng nổi bật sáng chói, vai đeo giây biểu chương  cũng có chỉ kim tuyến vàng, có thể nhìn thật rõ từ đàng xa. Tôi thầm nghĩ, đi tác chiến, không biết lúc nào chạm địch mà quân phục mặc cũng như  trong ngày đại lễ không bằng. Tác chiến gì với loại SQ công tử, con nhà giầu như thế này. Đựơc biết SQ Miên rất trẻ  đều thuộc loại « danh gia vọng tộc » hay là con nhà giầu có mới đựơc tuyển vào học lớp SQ/HQ.

Đựơc dịp nói chuyện với giới chức thẩm quyền, tôi đề nghị xin được cho đem một khẩu đại liên M 60 và nhiều thùng đạn, đem  lên gắn trên nóc đài chỉ huy của tầu. Lý do :  ở trên cao có thể dễ quan sát, tầm đạn bắn đựơc đi xa và hữu hiện nhiều  hơn, vả lại có nhiều bao cát phòng thủ che chở, an toàn cho xạ thủ. Viên Thiếu Úy không đồng ý và nói súng không được phép để xa khỏi tầu. Tôi buồn bực, chán nản vì câu trả lời kém sáng suốt, chứng tỏ kẻ chỉ huy không có một tí kinh nghiệm chiến trường gì cả. Tôi đành phải chịu thua, vì lúc này tôi là dân sự rồi, không còn một  quyền hành quân sự nữa. Thầm nghĩ, khi đụng trận mới biết ý kiến đề nghị của tôi thật hữu hiệu.  Tầu vẫn tiếp tục giang hành, chưa có triệu chứng gì báo hiệu một cuộc phục kích sắp xẩy ra. Trên đài chỉ huy, Hoa tiêu người Miên tiếp tục ra lệnh miệng cho lái tầu, người lái nhận lệnh răm rắp tuân theo, thi hành đúng y như vậy. Con tầu vẫn bủa sóng, mạnh tiến lên phía trước với vận tốc « Full Ahead » (nhanh hết tốc độ).

Thấy lấp ló bên trong các chiến đỉnh, một vài tà áo mầu, hay nói cho đúng ra là một vài chiếc xà-rông  xanh, đỏ đi lại, lẫn khuất, lúc thấy, lúc không. Hỏi ra mới đựơc biết đó là vợ của các SQ đi theo. SQ Miên thường hay đem theo vợ lúc hành quân, đồng thời các bà đó cũng là những tay buôn lậu chuyên nghiệp, buôn bán rất lớn, đủ mọi lọai hàng kể cả vàng, kim cương hay xì ke, ma túy.

Thương thuyền nước ngoài tiếp tế Nam Vang trên sông Mékong

Cảnh tang hoang, điêu tàn của chiến tranh từ từ hiện dần theo quang cảnh hai bên bờ sông. Một xác tầu chìm từ bao giờ, không rõ tên của một thương thuyền nào đó, sét rỉ, nằm lẻ loi trơi trọi giữa lòng sông. Cột tàu, cần cẩu và ống khói nhô cao lên, phần còn lại chìm sâu dưới nước. Mọi người đều hướng mắt theo dõi chiếc tầu chìm, rồi quay lại nhau, nhún vai, lắc đầu như muốn tỏ ra một điều lo sợ lớn lao mà không nói thành lời.  Từ đây, dọc bờ sông cũng còn một vài xác tầu chìm như vậy, nằm án ngữ giữa sông, chỗ sâu nhất, các tầu khác qua lại đều  phải tránh né, luồn lách sang một bên, đôi khi rất khó khăn vì sơ đụng chạm vào nhau, làm hư hại vỏ tầu của mình.

Máy truyền tin PR-C 25 của chiếc tiểu  đĩnh cặp bên cạnh phát ra những tràng tiếng Miên oang oang qua ống khuếch đại (loud speakers) không ngớt. Rồi từ xa, phía  trước mũi tầu tôi, một chiếc khác chĩa vào bờ khẩu pháo SKZ 75 mm  (súng không giật ngựơc phía sau khi bắn) làm một tiếng ầm khá lớn, vang dội trong không gian  đang yên tĩnh. Đạn trúng một mô đất mầu đỏ khá cao dọc bờ sông, nhô ra hình vòng cung khỏi ra phía trước bờ nước, đi vào ở sâu khoảng  độ 5-7 mét ở bên trong đất nơi có các lùm cây xanh rì, thì viên đạn nổ văng tung tóe lên trời các mảnh khói lân tinh mầu xám tro,  bay lên cao theo hình chử V, rồi từ từ tắt lịm (tiếng nổ của đạn lửa chống xe tăng). Tầu  nhỏ tác xạ đại liên vào những chỗ nghi ngờ có phục kích, bắn cầm chừng hăm dọa địch quân. 

Từ trên cao, với cái nhìn và quan sát kỹ của con mắt chuyên môn quân sự, tôi hơi cảm thấy lo lắng cho bản thân và toàn thể nhân viên trên tầu. Nhận thấy nếu địch quân mở cuộc phục kích đại quy mô, xử dụng một lực lượng khá đông với nhiều B-40, B-41, súng SKZ 57mm hay 75 mm, địch có thể tiêu diệt dễ dàng đoàn tầu buôn chúng tôi. Quan sát kỹ cuộc bắn hăm dọa vừa rồi vào bờ,  viên đạn 75mm chỉ xuyên vào đất khỏang 5-7 mét là đã tự động nổ tan tành rồi. Địch quân ở sâu 10m, 12m, đào hang cóc núp ẩn không có hề hấn gì, ngoại trừ chỉ nghe tiếng nổ inh tai, long óc mà thôi. Hai bên bờ sông, đất cao nhô lên như bức thành bê tông cốt sắt che chở cho địch. Xin nhắc lại địa thế hai bên bờ sông Mê Kông trên lãnh thổ Miên rất cao, đất ở bên trong rất cứng, có nhiều bụi cây râm rạp. Phần bờ đất bên VN thấp, mềm, sình lầy, mùa nước lớn có thể tràn ngập vào ruộng bên trong. Địch lợi dụng tối đa  » ĐỊA  LỢI  » tốt kể trên nên có thể áp đảo quân ta một cách  dễ dàng. Nên nhớ, súng SKZ có đường khương tuyến, bắn đi rất xa, cở 1 hay 2 km là chuyện thường và nếu được điều chỉnh máy ngắm cho thật thiện nghệ, chắc chắn viên đạn sẽ trúng đích. Bắn xong địch quân cứ việc lăn vào hang cóc là an toàn cho bản thân. Lính HQ không dám đổ bộ lên bờ tác chiến hay truy kích.

Súng phóng hỏa tiễn B-40 hay 41 có tầm gần hơn chỉ vài trăm mét mà thôi. Ai nấy cũng đều chú ý vào phát bắn hăm dọa đầu tiên đó và bắt đầu hoảng sợ. Riêng tôi cũng ở trong tình trạng đó. Lúc còn trong quân ngũ, đã có vài lần đụng độ sát cạnh với địch nhưng tôi không sợ một tí gì cả. Phần vững chắc là có quân chỉ huy dưới tay, súng ống đầy đủ, trội mạnh nhiều hơn đối phương, truyền tin liên lạc luôn luôn duy trì để được trợ giúp. Nhưng nay tôi đã là kẻ « adieu aux armes »,  một tấc sắt cũng không có trong tay,  sự lo sợ đến với tôi là chuyện đương nhiên. Một lo sợ nữa, nếu chết trong quân đội, tôi được vinh danh chết cho Tổ Quốc, may ra cũng có huy chương « Anh Dũng »  gắn trên  quan tài, nay chết trơ trọi ở xứ ngừơi, thây xác không biết có đựơc mang về cho vợ con hay gia đình không ? … Tôi  cảm thấy dại dột quá, tự quyết  định sẽ xin nghỉ việc sau chuyến này.

Cách đó độ ít tháng, tôi cũng đã từng bỏ tầu giống như chiếc này, khi làm việc cho hãng Alaska Barge, một hãng tầu Mỹ chuyên kéo và giòng các xà lan,  có huy hiệu  hình đầu  người da đỏ gắn lông gà ở trên. Huy hiệu này được mang trên ống khói các tầu của hãng.                                     

Chuyến đó, tầu  kéo một xà lan đầy đạn đại bác. Khi  đến Tân Châu chờ convoi đi Nam Vang, nghe nói tình hình địch quá căng thẳng nên tôi trốn tầu, lên xe đò về Saigon.  Hãng cũng vẫn trả lương đầy đủ cho tôi, không phạt cúp tiền gì cả. Thế mới hay, người Mỹ đôi khi cũng sòng phẳng lắm. Chiếc này do ông Vân (cựu HHTT) làm Thuyền Trưởng.  Chuyến đó, tầu kéo bị ăn B-40, Thuyền  Phó ngừơi Mỹ tử thương, hãng phải bồi thường một số tiền rất lớn, còn riêng tôi thoát chết. Ôi may mắn quá! Thoát chết, được ông bà phù hộ cho một lần nữa. Nếu tôi nhớ không lầm, chiếc tầu này tên CHEEROKEE một tầu kéo, vỏ thân bằng gổ, máy rất mạnh, thuộc lọai « Ocean Going tug boat » của hãng tầu kéo ALASKA BARGE.

Tất cả mọi người, ngoại trừ những ai đang đi quart tại đài chỉ huy như Thuyền Trưởng, Hoa tiêu và tôi, đều chạy vào hầm hàng chứa gạo. Nơi đây họ đã dùng các bao gạo, xây xung quanh thành những hố cá nhân che chở rất hữu hiệu, giống như các công sự phòng thủ bằng cát ở  trên đất. Vang vọng từ dưới hầm lên các lời tụng kinh cầu Phật oang oang, đều đều. Tôi cảm thấy bây giờ là lúc lòng tin mãnh liệt nhất của các tín đồ Phật giáo, tin tửơng nơi đấng thiêng liêng phù hộ.

Rồi bỗng một tiếng nổ « ầm »  thật lớn, inh tai, nhức óc. Tầu bị một phát đạn B-41 trúng ngay phần trên miệng hầm hàng, phía trước đài chỉ huy. Thuyền Trưởng, Hoa tiêu vẫn bình tĩnh điều khiển con tầu chạy trong sông, tuy nhiên tầu cũng hơi hơi chao đảo nhè nhẹ một ít mà thôi. Thế rồi lại một sự yên lặng nghẹt thở kéo dài ít phút. Bỗng nhiên  từ trong miệng hầm, tất cả đồng thanh la lớn vang lên  bằng tiếng Miên, báo cho đài chỉ huy biết không có ai bị thương hay chết cả. Một phen hú hồn, mọi ngừơi từ từ lấy lại bình  tĩnh, một vài cái đầu lấp ló nhú lên cao khỏi miệng hầm tò mò ngó xem trong bờ.

Viên đạn bắn trúng ngay giữa miệng hầm, phá vỡ thanh đà sắt thẳng đứng, chỗ lớp sắt thép dầy nhất ( cỡ 10mm ) có tiết diện chữ H. Sức công phá xé tan, cuốn tròn thanh  đà sắt ngựơc tròn vào phía trong, khoan thủng một lỗ to cỡ trái dưa hấu. Mảnh văng bên ngoài, chém tứ tung miệng hầm thành những vết lủng lởm chởm, có vết chém to cỡ hột mít, vết nhỏ cở hột mảng cầu. Tầu đến bến, tôi đi quan sát, trông rõ mà rùng mình. Thật là một điều may mắn cho mọi người. Viên đạn trúng chỗ thật cứng nhất, nổ ngay tại chổ. Bao nhiêu sức công phá nổ tối đa đựơc dội ngựơc ra bên ngoài, không thiệt hại gì bên trong. Nếu trường hợp viên đạn trúng lớp thép mỏng, xuyên thủng vào bên trong rồi mới nổ, sẽ không thể biết được thiệt hại xảy ra, bao nhiêu nhân mạng sẽ thương vong ?

Lập tức đoàn tầu chiến nhỏ nả đại liên dữ dội vào hai bên bờ, chỗ nào nghi ngờ, động đậy là họ chỉa súng bắng hàng tràng. Đôi lần, họ cũng thụt súng SKZ hay từng loạt Bofor nổ văng khói, bụi đất bay tứ tung, khói bốc lên cao từng cuộn nhỏ.

Tai nghe đủ loại súng bắn vào bờ hàng tràng như pháo ngày Tết, nhưng chỉ có tiếng nổ của đạn Bofor là êm tai nhất, nghe rầm rì, ầm ầm nho nhỏ như tiếng đàn « đại hồ cầm » (contre basse) đập nhịp rất êm tai.

Đoàn convoi vẫn tiếp tục giang hành sau cơn trúng đạn,  lần lũi bửa sóng tiến lên phía trước như không có sự gì xảy ra. Từ đây cho đến khi cặp bến Nam Vang, đoàn tầu không còn bị tấn công gì nữa.

Qua một khúc sông cong, cua quẹo, đã thấy bóng dáng một vài cao ốc của thành phố. Trời cũng đã xâm xẩm tối, ánh đèn điện vàng vọt thấp thoáng mờ mờ nơi chân trời xa xa. Mọi người hân hoan, tầu đã vào đất Nam Vang rồi.

Qua hệ thống truyền tin vô tuyến, mỗi chiếc thương thuyền được phân chia theo thứ tự để cặp cầu, có chiếc không có bến trống phải neo giữa giòng sông chờ đợi.

Tàu chở dầu tiến vào Nam Vang

Cặp bến và xuống hàng tại Nam Vang

Trời đã đổ đêm xuống qua các trụ đèn dọc theo cầu tầu, ánh đèn mờ vàng vọt chiếu xuống, một vài ngừơi đang chờ đợi, tay giơ giơ ngoắc ngoắc chào mừng khi tầu cặp bến. Quan Thuế và  Cảnh Sát lên tầu làm thủ tục. Một thủy thủ Miên, người nhà thân tín của chủ tầu mà tất cả người khác đều kính sợ và coi như là một thứ  « ăng ten » (tên chỉ điểm đáng sợ) có nói với tôi bằng giọng Việt lơ lớ : « Tuy Quan Thuế và Cảnh  Sát lên tầu làm việc khám xét, tất cả đã có dàn xếp từ trước rồi, nên công việc chỉ là hình thức cho qua mà thôi ». Tôi còn nhớ, người này tên là Y Kong, người mảnh nhỏ, ôm ốm nhưng hay báo cáo ngầm cho « Bà Chủ  tầu » mọi sự việc xẩy ra trên tầu trong chuyến đi hay là tình trạng buôn lậu của thủy thủ đoàn. Tên này nói tiếng Việt khá, nhưng cũng vẫn pha giọng Miên, tai nghe nói phát âm ra không đúng những tiếng ngộ nghĩnh, buồn cười.

Một toán lính Miên, súng đạn đầy người leo lên tầu, chúng còn khiêng theo vài thùng lựu đạn loại tấn công MK-3 dùng để áp đảo người nhái địch trường hợp bị đặc công đặt mìn. Công việc làm chưa ra gì thì có đứa vào nhà bềp đòi nấu cơm cho ăn. Anh SQ Đệ tam (dịch ) người Miên phải ra lệnh nhà bếp nấu cho chúng một bữa ăn thịnh soạn, có đ ăn, đồ nhậu và bia đàng hoàng thì chúng mới canh gác đựơc an toàn. Suốt cả đêm, thỉnh thoảng nghe từ mũi đến lái những tiếng vang dội ầm ầm của lựu đạn MK-3 do bọn lính ném xuống. Cả đêm khó ngủ, nhưng tôi cũng cố nhắm mắt để ngày mai tiếp tục làm việc.

Trời còn tối, chưa sáng tỏ đã có toán phu bến tầu xuống làm việc, bốc dỡ gạo. Họ phải làm sớm như vậy là để nhanh chóng xong công việc, tránh cái nóng bức dữ dội, khó chịu của mùa hè xứ Chùa Tháp. Tiếng liệng vứt nắp ván đậy hầm hàng ầm ầm vang lên trên boong, tiếng máy cần câu chạy hơi nước kêu xình xịch, ống dây cáp cần trục kêu ro ro đưa lên xuống các lưới chứa đầy bao gạo mang lên bờ.  Công việc chính của tôi là lo việc bốc giỡ  gạo và kiểm kê hàng hóa. Phu bốc dỡ làm việc đến quá trưa thì nghỉ, buổi chiều không làm.

Các bao gạo được chất thành hàng lối kỹ lưỡng trong hầm tầu tại Saigon, không một bao bố gạo nào bị lủng hay rách. Tại đây, bọn phu cố tình đập phá, tìm đủ mọi cách  để cho bao gạo rách, chảy ròng ròng khi được cần câu  kéo lên bờ. Làm như vậy, bọn phu mới có dịp ăn cắp gạo rơi rớt, ăn chặn mang về nhà.  Mặc dầu giới có thẩm quyền nhận gạo có ngăn cản, cấm đoán nhưng cũng không làm được gì.

Lúc ra về, người phu nào cũng có đeo một bao gạo (cỡ bao cát phòng thủ), nặng nề đem ra khỏi kho thương cảng. Bị Quan Thuế chặn lại tại cổng chính,  bắt mọi người phu phải đổ lại gạo trên một tấm bố lớn, trải rộng trên mặt đất. Họ chỉ đổ ra một nửa cho có lệ rồi được cho phép mang hết số gạo còn lại ra ngoài. Tấm bố trải dưới đất vun cao lên thành một đống gạo lớn. Khi tất cả các phu bốc đã đi ra ngoài hết, phần còn lại Quan Thuế và Cảnh Sát chia nhau ăn số gạo chất đống đó. Hàng viện trợ Mỹ mà, đồ của « Chùa » từ trên trời rơi xuống cứu trợ dân Kam Pu Chia đang ốm đói,  ai nhanh tay, mánh lới cao hốt đựơc thì tự hưởng lấy,  đâu có ai khiếu nại đâu. Rốt cuộc qua bao nhiêu kẽ hở dọc đường, gạo đến tay dân ốm đói thật sự không có đựơc hưởng là bao nhiêu, một xứ nổi tiếng tham nhũng mà.

Thương cảng Nam Vang có một cơ xưởng nhỏ, đủ khả năng để sửa chữa máy móc hư hỏng nhỏ nhẹ hay là hàn gắn, vá víu các chỗ lủng, chỗ rách trên thân tầu. Ông Trưởng Ty Thương Cảng người Miên (Port Master) cứ xuống tầu liên lạc với Thuyền Trưởng đòi sửa chữa, vá víu lại chỗ bị ăn đạn B-40 ở miệng hầm, đòi cho bằng được để sửa chữa, ngõ hầu có thể ăn thêm tiền cò (tiền commission) ăn ké của thương cảng. Nếu không được, ông hăm dọa không cấp giấy phép cho rời cảng. Chủ tầu đành phải chịu thuận theo, tôi không biết tiền sửa chữa tính thành bao nhiêu ?  Đắc hay rẻ ?

Qua bữa đầu xuống hàng, sau cơm trưa, buổi chiều rảnh rỗi không có việc làm, tôi nghĩ đến việc đi bờ, thăm quang cảnh đẹp xứ Chùa Tháp. Tất cả mọi người đều về nhà chỉ trừ người trực ở lại canh gác mà thôi. Lòng lo sợ vì một mình lẻ loi đặt chân đến một xứ xa lạ, tôi cũng cố mạnh dạn đi ra khỏi bến để vào thành phố. Bến tầu ngay sát đường lộ lớn không xa mấy, đi bộ ít phút là vào trung tâm, khu buôn bán sầm uất.

Nam Vang được người Pháp thiết kế, lập nên thành phố xinh đẹp, có nhiều đường  lộ lớn, xe cộ đi lại hai ba lằn xe, hai bên được trồng nhiều cây cao xanh, to lớn tỏa lan ra nhiều bóng râm mát. Đi bộ dưới bóng mát đó lúc trưa hè cảm thấy mát rượi. Hàng phố buôn bán tương tự như khu Lê Lợi, Hàm Nghi ở Saigon. Chủ nhân đa phần là người Hoa. Xe du lịch nhỏ, xe Honda hai bánh có phân khối lớn 90cc, xe lôi kéo chạy ngựơc xuôi đầy trong những khu buôn bán sầm uất. Có ngôi chợ mới xây,  theo kiểu kiến trúc hiện đại, cao ráo với nhiều xập hàng bán đủ loại được đặt tên là XA-THƠ-MÂY. Đa số là hàng cá khô sản xuất tại Biển Hồ, các loại bát đĩa sứ đẹp, bình thủy, quần áo may sẵn chế tạo tại Trung Cộng và các đồ xài linh tinh khác.

Tôi có đi ngang qua Hoàng Thành (cung điện nhà vua) với tường vôi trắng cao bọc xung quanh nhưng không đựơc phép vào. Thăm Bảo Tàng Viện, vào bên trong được thấy nhiều cổ vật quí giá của văn minh Khmer. Các tượng đá hay gỗ khắc cao to cỡ người thường đặt tại khắp các góc tường, một ít đồ dùng, trang sức nhỏ bé đuợc đặt bên trong lồng kính, được đèn điện chiếu sáng trông rõ suốt. Một vài chiếc « Giá Xa » (xe vua đi bên ngoài cung điện) bằng gỗ, chạm trổ tinh vi, một vài cỗ « Long Sàn » (giường vua ngủ) chạm trổ, điêu khắc kỹ lưỡng đẹp đẽ. Nhận định : đa phần các đồ chưng bên trong  to lớn, khó có thể mang đi đựơc như tượng đá, tượng đầu người to lớn, tượng gỗ thì còn tồn tại bên trong rất nhiều và được đặt các nơi. Các đồ quí bé nhỏ dễ di chuyển mang đi tồn tại rất ít, chỉ có vài tủ kính chưng bầy mà thôi. Thầm nghĩ  tự nhủ, các đồ nhỏ dễ mang đi, quí giá đã bị cướp bóc qua những biến chuyển, hỗn loạn to lớn về chính trị hay quân sự.

Trên đường phố, cũng thấy qua lại nhiều quân nhân mặc sắc phục, vai đeo lon và huy chương đầy trước ngực, có các cô gái xinh đẹp, phấn son diêm dúa, mặc xà-rông mầu sặc sỡ đi kề kề bên cạnh, cảnh y như ở đường Nguyễn Huệ, Tự Do ở Saigon vậy. Trời chưa xế bóng chiều, tôi lo sợ nên vội vàng trở về tầu sau khi đã mua đựơc một ít chục chén bát kiểu, ít ký lô  khô cá. Ngừơi bán biết tôi là người Việt, nói tiếng Việt với tôi rành rẽ, nhưng tôi không biết họ là Miên hay Việt.

Trên đường trở về tầu, đi dọc theo bờ tường cao của thương cảng để vào cổng chánh, gặp một nhóm vài ngừơi Miên đang đứng ở đó, mặt mày hầm hầm, ngước nhìn tôi có vẻ khiêu khích, mắt lườm lườm. Tôi hoảng sợ, không dám nhìn lại, chân nhanh bước cho lẹ như chạy để mau về tầu. Sau này hỏi lại, được biết có một số người Miên rất ghét và kỳ thị người Việt, nếu có gặp họ từ xa, nên tránh đừng lại gần để ngừa hậu hoạn.

Hôm sau đi bờ, tôi được một anh Miên dắt di ra  phố nhân lúc trên đường anh về nhà. Đựơc đi xem một ngôi nhà thờ Công Giáo khá to lớn, xây cất kiểu Gotique giống y như ở VN, bên cạnh có núi đá « Đức Mẹ », có sân chơi cho học trò vì trường học ở ngay bên cạnh. Một vài bà nữ tu đang đứng xung quanh, tôi cúi đầu chào rồi tiếp tục đi. Nhiều khu đất rộng rãi được trồng các loại rau cải thành từng luống xanh rì, chạy dài dọc theo bờ sông, đang có ngừơi gánh nước tưới rau. Thành phố Nam Vang còn nhiều đất rộng, người thưa chứ không chật hẹp đông ngừơi, thiếu đất như Saigon. Đi mãi cũng chán vì quang cảnh, dân chúng sinh hoạt, đi lại buôn bán cũng tương tự như ở VN, chỉ có phần khác rất dễ biết, đó là nước da đen đen, ngâm  ngâm dòn của cư dân địa phương rất dễ nhận dạng vì họ thuộc chủng tộc Khmer.

Đi bộ ngang qua trường học của các Sư Huynh Công Giáo (Ecole des Frères Chrétiens) trường mang tên Miche, tường cao, kín cổng, không thấy gì bên trong. Đứng ngoài nhìn vào, tôi thầm nghĩ, có biết bao nhân tài đã đựơc đào tạo và học qua ngôi trường danh tiếng nhất này của Nam Vang (tương đương như trường Tabert ở Saigon). Trở về tầu sớm hơn hôm qua, tôi ghé lại uống nước tại ngay một quán cóc nằm xê xế với cổng chánh thương cảng. Chủ nhân ra đón là một thiếu nữ trạc hai mươi ngoài  trông rất trẻ và đẹp nhưng có nét Tây Phương, tôi đoán lai Pháp, đang nuôi một đứa con nhỏ độ hơn một tuổi. Gọi bia uống, cô mang ra và nói bập bẹ vài câu tiếng Việt. Hỏi tiếng Pháp, cô lắc đầu không trả lời được. 

Đến bây giờ, lúc đang viết bài này, hồi tưởng lại người thiếu nữ duyên dáng xinh đẹp lai Pháp đó,  tôi không biết phương vị hiện tại của  cô ở đâu, sống chết ra sao ? Không biết cô có bị Khmer Rouge sát hại năm 1975 hay không khi bọn khát máu đó tràn ngập thủ đô Phnong Penh. Xin « chào nhớ thương, luyến tiếc » người đẹp trong mộng được gặp một lần đầu và cũng là lần cuối cùng.

Chuẩn bị về

Vài ngày bốc gạo đã qua, tôi rất chán ngán cái xứ Chùa Tháp này rồi, chẳng còn gì để xem cho thỏa chí tò mò. Có ngừơi nói đi xem Đế Thiên, Đế Thích (Angkor Thom, Angkor Wat) hấp dẫn lắm, nhưng ai mà dám đi, ngay cả dân Nam Vang cũng không dám bén mảng lại gần vì sự mất an ninh của chiến tranh và bọn Khmer Rouge. Tôi mong cho chóng lên hết gạo để tầu mau tách bến về Saigon, và đồng thời xin nghỉ việc luôn.

Buổi chiều hôm cuối cất hàng xong hết lên bờ, phu phen đóng nắp hầm hàng thật kỹ lưỡng và ra về hết. Con tầu trở nên thinh lặng, yên tĩnh lạ thừơng. Các máy móc đều tắt hết, không một tiếng động nhỏ vang lên ngoại trừ tiếng xì xì nho nhỏ do hơi nứơc thừa của nồi hơi, có áp xuất thừa xả ra. Đó là lúc tôi nhe nhàng, thở trút gánh nặng nghìn cân trong người.

Mong mau chóng hôm sau khởi hành. Biên bản giao hàng hoàn tất, phần cuối có ghi chú một số lớn gạo thất thoát trong  chuyến đi và trong lúc bốc dỡ,  tôi nhắm mắt ký đại, không cần biết con số thất thoát là bao nhiêu. Hàng Mỹ viện trợ mà, đồ không chủ  còn hay mất  bao nhiêu cũng không cần biết.

Đêm cuối cùng ngủ tại Nam Vang tôi thao thức lạ thường. Bên ngoài, bọn lính canh gác cũng vẫn đều đều liệng lựu đạn xuống nước chống ngừơi nhái phá hoại. Lòng cầu xin cho đựơc mau về nhà và con tầu luôn đựơc « xuất nhập bình an ».

Sáng sớm hôm sau, Hoa tiêu xuống. Giờ khỏi hành bắt đầu, tầu tách bến, quay mũi hạ giòng, rời Nam Vang. Chuyến về này không theo công voa, không có  HQ Miên đi theo hộ tống, tầu tự túc đi về một mình, không hàng hóa, nhẹ tưng nổi lên cao lêu khêu. Nỗi lo sợ bị phục kích không còn vì bọn Miên Cộng thường hay tha cho chuyến về, chỉ phục kích chuyến đi, tầu mang đầy hàng mà thôi.   

Tầu qua Tân Châu, ngừng lại ít phút để thay đổi Hoa tiêu Miên và Việt, tiếp tục đi theo Cửa Tiểu chạy đến Vũng Tầu, cũng dừng lại ít phút để thay Hoa tiêu sông Saigon. Từ đây tầu chạy thẳng một mạch đến bến thương cảng kho 5 Khánh Hội.

Tôi giao lại tất cả giấy tờ cho người ở lại, rời tầu. Quay lại nhìn lên cao ống khói đang phun lên không trung một màng mỏng  khói xanh lợt, tay vẫy ngoác ngoác người ở lại và thầm nói : « Adieu, mon cher MONTE CHRISTO ». Tôi lên văn phòng Đại Lý Agent xin nghỉ việc, đồng thời ký sổ lảnh lương lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng của công ty.

Trở về căn nhà nhỏ xinh xinh, sum họp hạnh phúc với gia đình sau chuyến đi đầy gian nan và nguy hiểm. Tôi hoàn toàn dấu gia  đình, cha mẹ, vợ con câu chuyện thoát nguy vừa qua.          

Đến bây giờ, viết hồi ký, một dịp thuật lại câu chuyện hồi hộp, lâm ly gian nan này. 

Ghi chú :

Chuyến sau, tầu cũng lấy gạo từ Saigon đi Nam Vang, có anh Trần Hồng (lão tướng chống Cộng hăng say, hiện đang sống tại Paris) xuống làm Sĩ Quan truyền tin và tôi thì đã « Farewell M/V Monte Christo ».

Xe vận tải lớn ở Nam Vang có máy chạy Diesel, không cần bình điện ác-quy để phát hành động cơ, họ dùng tay quay (manivelle) gắn vào đầu máy. Đầu tay quay phía ngoài đựơc hàn gắn vào một tambour thắng cũ, loại phế thải. Một sợi dây thừng nhỏ quấn quanh tambour thắng vài ba vòng. Hai, ba ngừơi đứng bên cạnh, hô to tiếng : »  Muôi…Pi….Bây….( một  ..hai…ba)  rồi giựt sợi giây đó, tambour thắng quay vài vòng là động cơ phát hành, nổ máy liền. Tương tự như quay động cơ máy đuôi tôm. Một phát minh hay ho của xứ chậm tiến khi mà chiến tranh xẩy ra, nơi đó các vật cần thiết đều khan hiếm.

Các cơ phận thay thế cho động cơ, máy móc, đều do thương gia Miên hay các ông Ba Tầu qua VN, lên Saigon mua đem về Nam Vang xài.

Nhận xét về giai đọan này, nền Kinh Tế của Nam Vang tràn đầy hàng hóa do Trung Cộng chế tạo gồm đủ mọi mặt hàng, không thiếu một món gì. Món hàng ưa chuộng nhất là chén kiểu ăn cơm,  gọi nôm na là  « chén hạt dưa »,  các loại dĩa kiểu, các bình thủy loại thiệt (rất tốt vì giữ nóng lâu) và quần áo may sẵn đủ lọai.

Các loại rượu quí của Pháp, Anh sản xuất mua tại tiệm lớn ở phố không sợ giả vì toàn là hàng nhập cảng chính hiệu. Đồng hồ Seiko 5, cassette, radio transistor đủ kiểu chưng bán đầy trong tủ kiếng, tất cả bán  khá đắt, cao giá hơn ở Saigon.

Một vài Snack Bars, Dancing to lớn chiếm một gỉai đất rộng bề ngang,  cửa đóng kín mít vì chỉ hoạt động ban đêm,  tọa lạc tại đường  » Hai Mươi »,  vì người Việt tại Nam Vang gọi như vậy. Lý do đường rộng lớn, bề ngang đo đựơc 20 mét.

Khô cá do Biển Hồ sản xuất rất ngon, to lớn, nhiều thịt nạc, tỏa ra mùi thơm phức khi nướng trên lò than, dùng ăn với cơm gạo thơm thật tuyệt vời. Loại dép Nhật  hiệu Cheap Lang do Nam Vang sản xuất rất bền và đẹp.

Tóm lại, kinh tế Kam-Pu-Chia  thuộc loại « Nhập Cảng »  hàng ngoại quốc để xử dụng trong nước và hàng viện trợ Mỹ. Hàng sản xuất tại nội địa rất ít, chỉ có nước ngọt, diêm quẹt, dép cao-su, một số hàng thủ công nghiệp đủ loại. Kinh tế thuộc loại nước « kém mở mang » do tình trạng chiến tranh xẩy ra.

Các bạn có thể xem Vidéo về những chuyến convoi tiếp tế Nam Vang trên Youtube

SYND 04/06/74 A CAMBODIAN GOVERNMENT CONVOY UNDER ATTACK ON THE MEKONG RIVER
SYND 31 5 73 SUPPLY CONVOY ON MEKONG RIVER
UPITN 21 4 73 RELIEF CONVOY OF SHIPS ARRIVE ON MEKONG
SYND 10-4-73 RELIEF SUPPLY CONVOY SAILS TO PHNOM PENH

Tin nội bộ 2019

Tin buồn

Được tin trễ anh Bùi Xuân Đàm đã từ trần ngày 14 tháng 12 năm 2019 tại California. Anh Bùi Xuân Đàm là cựu HQ Đại Úy VNCH, tốt nghiệp bằng Thực Hành Viễn Duyên Thuyền Trưởng năm 1971. Vnhanghaiphap xin cầu chúc hương linh anh được nhẹ nhàng siêu thoát và xin kính gởi lời chia buồn  đến gia đình anh.

Tin buồn

TƯỞNG NHỚ ĐỒNG MÔN, ĐỒNG NGHIỆP VŨ VĂN HỢI
cựu Sinh viên khóa 15 Pont trường Việt Nam Hàng Hải,
niên khóa 1965 – 1967.

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Được tin trễ bạn VŨ VĂN HỢI, cựu Sinh viên khóa 15 Pont trường Việt Nam Hàng Hải, niên khóa 1965 – 1967 đã qua đời ngày 7 tháng 9 năm 2019 lúc 1:00 giờ sáng tại nhà riêng ở San Francisco, California. Hưởng thọ 72 tuổi.

Anh Hợi đã bị đột quỵ cách đây 2 năm. Cuối tháng 11 năm 2017, anh được đưa về chữa trị và săn sóc tại nhà do con trai của anh là cháu Long Vũ và chị Hợi chăm lo.
Cháu Long Vũ có gởi cho chúng tôi một số hình ảnh với cháu và người bạn thân.

– HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM
– KỶ YẾU HÀNG HẢI
– ĐỒNG MÔN PONT và MÁY KHÓA 15 TRƯỜNG VIỆT NAM HÀNG HẢI
thành thật chia buồn cùng chị Hợi và tang quyến.

NGUYỆN CẦU HƯƠNG LINH ANH VŨ VĂN HỢI SỚM VỀ CÕI VĨNH HẰNG.

Tin buồn

TRÂN TRỌNG THÔNG BÁO ĐẾN QUÝ ĐỒNG MÔN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ THÂN HỮU HÀNG HẢI

Anh HÀ HỌC GIAO, cựu sinh viên khóa 13 Ngành Máy trường Việt Nam Hàng Hải vừa qua đời tại Tokyo, Nhật Bản, cách đây 24 tiếng đồng hồ, hưởng thọ 76 tuổi.

PS: Nguồn tin từ anh Bình Hà, em trai của anh Hà Học Giao. Nếu có tin mới KYHH sẽ đưa lên ngay.

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Nhận được tin buồn:
Anh HÀ HỌC GIAO
Đã từ trần ngày 25 tháng 12 năm 2019 tại Nhật Bản
Hưởng thọ 76 tuổi

– HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM
– KỶ YẾU HÀNG HẢI
– ĐỒNG MÔN KHÓA 16 PONT và MÁY TRƯỜNG VIỆT NAM HÀNG HẢI
Xin chia buồn cùng tang quyến trước sự mất mát đau buồn quá lớn nầy.

Nguyện cầu Hương linh anh HÀ HỌC GIAO sớm về cõi Niết Bàn.

Tin buồn

GIA ĐÌNH TRÂN TRỌNG BÁO TIN

Ông TRẦN VĂN BÉ
Cựu Sinh viên khóa 13 Pont Trường Việt Nam Hàng Hải
Cựu Thuyền trưởng các tàu:
– Thống Nhứt
– Nhựt Lệ
– Thái Bình Dương1
– TCS 131 thuộc Thương cảng Saigon
– Phú Quốc

Sinh ngày 04 tháng 02 năm 1941 tại Sa Đéc
Đã mệnh chung lúc 9:03pm PST ngày 16 tháng 12 năm 2019 tại thành phố KENT tiểu bang Washington.
Cáo phó và Chương trình tang lễ sẽ thông báo sau.

ĐỒNG MÔN KHÓA 13 – NGƯỜI CÒN NGƯỜI MẤT

Anh em cựu sinh viên khóa 13 Pont trường Việt Nam Hàng Hải:
Hàng đứng từ trái sang phải: NGUYỄN NGỌC NHƠN, TRẦN VĂN BÉ (vừa mãn phần ngày 16/12/2019), ÔNG NGỌC BẢO, HÀ PHÚ CƯỜNG, HOÀNG THẾ HÙNG, LÊ THANH PHONG, LÊ PHÁT MINH (mất tích sau sự kiện 30-4-75);
Hàng ngồi từ trái sang phải: LÊ CHÂU AN THUẬN, NGUYỄN QUỐC KIỆT, LÊ VĂN PHÚC, NGUYỄN TẤN LỘC (tạ thế tại Hoa Kỳ vì bịnh).

Chúc mừng Sinh Nhật Thầy Phùng Lương Ngọc (17/10)

Thầy Phùng Lương Ngọc và Cô 2019

Chúng em mừng sinh nhật Thầy và kính chúc Thầy và Cô dồi dào sức khỏe, bình an, hạnh phúc. Chúng em hiện đang sống khắp bốn phương trời và luôn luôn nhớ về Thầy và Cô.

Chúng em chân thành tri ân Thầy và Quý Thầy dạy dỗ chúng em; những sinh viên của Thầy đã luôn luôn làm tốt nhũng gì quý Thầy dạy và dẫn dắt, khi còn ở trong nước chúng em có nhiều người đã là Thuyền trưởng, Hạm trưởng, Cơ khí trưởng giỏi trên các Thương thuyền và trên các chiến hạm Hải quân, sau nầy di tản ra nước ngoài chúng em cũng có nhiều người là Thuyền trưởng trên các thương thuyền Pháp, Canada, Panama; phục vụ trong lực lượng phòng vệ duyên hải của nhiều nước và có bạn là giáo sư trường Đại Học Hàng Hải Canada.

Chúng em có trưởng thành trong nghề nghiệp là do công lao của Thầy và Quý Thầy truyền đạt cho chúng em và chúng em không bao giờ quên câu thành ngữ: « Công Cha Nghĩa Mẹ Ơn Thầy ».

Tin buồn

Anh Nguyễn Phú Bá trong ngày lễ Rửa Tội tháng 9 2018


Nhận được tin trễ anh Nguyễn Phú Bá đã từ trần ngày 24/04/2019 tại Melbourne (Australia) sau một thời gian dài lâm trọng bệnh và đã được hỏa thiêu.
Anh sinh ngày 01/06/1940 mang cấp bậc sau cùng HQ Trung Tá HQ VNCH, tốt nghiệp bằng Viễn Duyên Thuyền Trưởng Thực Hành năm 1971 và cũng là Cựu Thuyền Trưởng tàu Tiền Phong.
VN Hàng Hải Pháp xin cầu chúc anh linh anh nhẹ nhàng siêu thoát và cũng xin gởi lời chia buồn đến gia đình anh.

vnhanghaiphap.free.fr

Tin buồn

Từ trái : anh Lê Hữu Tâm, Nguyễn Phước Lộc, Vũ Trí Hưng và Võ Tấn Thụy

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Ông PIERRE LEHOUX LÊ HỮU TÂM
Pháp danh Thiện Tâm
Sinh viên ngành Cơ Khí niên khóa 1957 – 1959 Trường Việt Nam Hàng Hải
Sinh ngày 20-12-1940
Từ trần ngày thứ bảy 20-07-2019 lúc 04H30 tại Créteil, Pháp
Hưởng thọ 78 tuổi.
Lễ hỏa thiêu lúc 14H00 ngày thứ tư 24-07-2019 tại Crématorium de Valenton, Avenue de la Fontaine Saint-Martin – Valenton

HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM và KỶ YẾU HÀNG HẢI
Xin chân thành chia buồn cùng tang quyến và Nguyện cầu hương linh Ông PIERRE LEHOUX LÊ HỮU TÂM sớm siêu thoát về Cõi Niết Bàn.

Tin buồn

Tin buồn

Vô cùng xúc động khi nhận được tin buồn:
Ông ROCCO TRẦN ĐÌNH TRỤ
Cựu HQ Trung Tá khóa 8 Hải Quân Nha Trang
Cựu Hạm Trưởng nhiều chiến hạm
và Cựu Thuyền trưởng thương thuyền Việt Nam Thương Tín mang 1652 người di tản hồi hương từ đảo Guam năm 1975
Đã được Chúa gọi về ngày 16 tháng 7 năm 2019
Hưởng thọ 84 tuổi
Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam và Kỷ Yếu Hàng Hải chân thành chia buồn cùng tang quyến và nguyện cầu Linh hồn Ông ROCCO TRẦN ĐÌNH TRỤ sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa.

Tin buồn

Niên Trưởng Trần Văn Chơn

NIÊN TRƯỞNG ĐÔ ĐỐC TRẦN VĂN CHƠN, CỰU TƯ LỆNH HẢI QUÂN VNCH VỪA TẠ THẾ

Đô Đốc Trần Văn Chơn Cựu Tư Lệnh Hải Quân QLVNCH vừa tạ thế lúc 11 giờ đêm ngày 2 tháng 5 năm 2019 tai San Jose California, hưởng thọ 99 tuổi (sinh nhật thứ 100 vào tháng 9 nầy) sau khi bi xuất huyết não vào ngày 30 tháng 4, 2019.

Niên Trưởng xuất thân trường Việt Nam Hàng Hải khóa 1947-1948, khóa nầy còn có quý Niên Trưởng Tôn Thọ Khương, Đoàn Luyện, Nguyễn Văn Danh, Đào Quan Ngãi, Tôn Thất Tuyên, Chung Tấn Cang, Trần Văn Chơn, Lâm Nguơn Tánh, Trần Văn Phấn, Lê Quang Mỹ, Hồ Đắc Tâm, Đỗ Bá Ngữ, Lê Xuân Long, Võ Bá Nhu, Đoàn Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Hùng Trương, Nguyễn Văn Thiệu, v.v… Có tất cả 20 sinh viên ban Chỉ huy và 20 sinh viên ban Cơ khí.

Sau đó Niên Trưởng được chuyển sang khoá 1 và tốt nghiệp trường Sĩ quan Hải Quân năm 1952; chức vụ sau cùng là Đề Đốc Tư Lịnh Hải Quân VNCH.

Niên Trưởng luôn có nụ cười hiền hậu, thân thiện với anh chị em đến thăm. Tuy tuổi có cao nhưng trí nhớ của Niên Trưởng rất tuyệt vời. Mọi người đến thăm đều tỏ lòng quý mến Niên Trưởng.

Facebook Lê Châu An Thuận

NGUYÊN ĐỀ ĐỐC TƯ LỆNH HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA

TRẦN VĂN CHƠN

– tác giả: ĐIỆP MỸ LINH
– hình ảnh dùng photoshop ghép lại các hình chụp của nhiều nhiếp ảnh gia

Sau khi tìm hiểu, tôi được biết: Năm 1938, ông Trần Văn Chơn nhập học khóa Cơ Khí Hàng Hải thuộc Trường Ecole Rosel – sau đổi tên là Ecole Technique Speciale; rồi lại đổi thành Trường Kỹ Thuật. Năm 1941, Ông tốt nghiệp bằng Kỹ Thuật và tiếp tục học khóa Vô Tuyến Truyền Tin Hàng Hải. Năm 1942 Ông tốt nghiệp khóa Vô Tuyến Truyền Tin Hàng Hải và hành nghề sĩ quan trên các thương thuyền.

Năm 1948, ông Trần Văn Chơn theo học khóa Hàng Hải, thuộc Trường Kỹ Thuật cùng với ông Nguyễn Văn Thiệu, ông Lâm Ngươn Tánh và ông Chung Tấn Cang. Sau khi tốt nghiệp bằng Thuyền Trưởng, ông Nguyễn Văn Thiệu ghi danh vào khóa đầu tiên tại Trường Võ Bị Huế – tiền thân của Trường Võ Bị Dalat – và sau này ông Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng Thống V.N.C.H. Ông Lâm Ngươn Tánh, ông Chung Tấn Cang và ông Trần Văn Chơn hành nghề Hàng Hải Thương Thuyền.

Sau nhiều năm phục vụ trên các thương thuyền, ông Trần Văn Chơn cùng ông Chung Tấn Cang và ông Lâm Ngươn Tánh được tuyển vào khóa I sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Vì Trường xây cất chưa xong cho nên sinh viên khóa I – gồm 9 người – phải tạm trú và học hành trên Hàng Không Mẫu Hạm Arromanches của Hải Quân Pháp.

Ông Trần Văn Chơn đỗ thủ khoa khóa I sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Ông là sĩ quan Hải Quân Việt Nam đầu tiên được du học và tốt nghiệp trường Hải Chiến Hoa Kỳ (Naval War College) ở Newport, Rhode Island.

Trong thời gian là Tư Lệnh Hải Quân, Đề Đốc Trần Văn Chơn đã có sáng kiến và đôn đốc việc xây Tượng Đài Đức Thánh Tổ Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng, Saigon. Công trình xây dựng Tượng Thánh Tổ cũng được sự yểm trợ của Hội Thánh Trần Hưng Đạo. Tượng do điêu khắc gia Pham Thông thiết kế và thực hiện.

Tháng Tư năm 1975, vì lòng hiếu đạo đối với Cha Mẹ, Cựu Đề Đốc Trần Văn Chơn đã không di tản – dù Ông đã được Hoa Kỳ thông báo là sẽ cấp phương tiện hàng không để Ông cùng gia đình ra đi. Không bao giờ Ông ân hận, mà ngược lại, Ông rất vui lòng về quyết định không di tản để thể hiện lòng hiếu thảo của Ông đối với Song Thân; dù sau đó Ông bị Cộng Sản Việt Nam cầm tù gần 13 năm!

Sau khi mãn tù Cộng Sản, Ông định cư tại Mỹ, California. Để trau dồi kiến thức, Ông trở lại học đường với số tuổi ngoài 70! Ông tốt nghiệp ngành Interdisciplinary Studies tại San Jose/Evergreen Community College và chuyển qua San Jose State University, học về Political Science.

Ngoài ra, Ông cũng tham dự hầu như tất cả mọi sinh hoạt trong cộng đồng và các hội đoàn Quân, Cán, Chính thuộc Thành phố San Jose và Quận Santa Clara.

Năm 2014, Ông được bà Cindy Chavez – Supervisor of Santa Clara County – trao tặng Certificate of Recommendation.

Năm 2015, Ông nhận được Certificate of Special Congressional Recognition của U.S. House of Representatives do bà Zoe Lofgren trao tặng.

Đề Đốc Trần Văn Chơn và Đô Đốc Elmo Zumwalt cùng sánh vai chiến đấu trong đầu thập niên 1960. Ông là Cựu Tư Lệnh Hải Quân V.N.C.H. được Hải Quân Hoa Kỳ mời tham dự buổi lễ đặt tên cho Khu Trục Hạm tối tân USS Zumwalt, ngày 19 tháng 10 năm 2013, tại Bath Iron Work, tiểu bang Maine.

Khu trục hạm Zumwalt (DDG – 1000) do Tư Lệnh Hải Quân thứ 19 của Hải Quân Hoa Kỳ – Đô Đốc Elmo Zumwalt – thiết kế. Đô Đốc Elmo Zumwalt nguyên là cố vấn của Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

Được biết Cự Tư Lệnh Trần Văn Chơn là một trong những thành viên danh dự trong BOARD OF ADVISORS, gồm những nhân vật nổi tiếng như Bộ Trưởng Hải Quân William le Ball III, Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ Gary Roughead, TNS John S. McCain III… cuả Tuần Dương Hạm tối tân và tốn kém nhất thế kỷ USS Zumwalt DDG 1000, lấy tên cuả người bạn chí thân cuả ông, sau này là Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ, đã giúp ông thiết kế một hạm đội H.Q.V.N. đứng hàng thứ 9 trên thế giới.

Cựu Đề Đốc Trần Văn Chơn và người bạn cùng khóa I sĩ quan Hải Quân – Cố Đô Đốc Chung Tấn Cang – là 2 vị sĩ quan được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Hải Quân hai lần.
Trong thời gian tại chức, cả hai vị Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn và Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang, mỗi vị đều lưu dấu rất đặc biệt vào Quân Sử Hải Quân V.N.C.H. cũng như lịch sử Việt Nam cận đại.

Phân Ưu

vnhanghaiphap xin cầu chúc hương linh Niên Trưởng TRẦN VĂN CHƠN được siêu thoát. Thành kính gởi lời chia buồn đến gia đình của N/T

Hình ảnh tháng Tư đen 1975

https://www.fold3.com/image/1/304723123

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157708217921694

Tàu Trường Thành chở dân di tản năm 1975

Tàu Việt Nam Thương Tín I và tàu dầu Anh Tuấn trên đường di tản năm 1975

MS Việt Nam Thương Tín 1 trên đường trở về Việt Nam ngày 16/10/1975 – Photo courtesy of BGen James A. Herbert

Tàu dầu Anh Tuấn di tản tháng 4 năm 1975 (ở phía ngoài cùng)

Tàu dầu Hòa Bình của Công ty Vishipco Lines chở người tị nạn 1975

Source: https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157708395264625

MỪNG SINH NHẬT NIÊN TRƯỞNG BÙI NGỌC HƯƠNG

Niên trưởng sinh ngày 6 tháng 3 năm 1931 tại làng Trung An-Mỹ Tho. Học trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền khóa 2, niên khóa 1951-1952, đổ các bằng Lý thuyết Cận Duyên và Viễn Duyên Hàng Hải; đổ bằng Viễn Duyên Hàng Hải, phần Thực hành Năm 1958. Năm 1961, nhập ngũ khóa 12 Thủ Đức theo lệnh động viên.Năm 1964-1965, biệt phái về làm Thuyền trưởng trên các thương thuyền Tiền Phong, Thống Nhứt, Trường Sơn, Nhựt; cuối năm 1965, giải ngũ, làm Thuyền trưởng các thương thuyền Wing Lien, Sao Mai và Khánh Hòa.
Năm 1969, gia nhập Đoàn Hoa Tiêu Sông Saigon.
Năm 1978, vượt biên cùng gia đình trên chiếc tàu đánh cá VT 404 với 255 người. Đây là chuyến hải hành cuối cùng sau 26 năm hải nghiệp và ngày 25-8-1978, tàu VT 404 cập bến ở đảo Poulo Tengah, ở miền Đông Nam của Mã Lai Á. Ngày 14-2-1979, N/T đến định cư ở Vùng Bắc Tiểu bang Virginia cho đến ngày hôm nay.

Niên trưởng có nhiều bài viết về trường Việt Nam Hàng Hải, về hoạt động các thương thuyền miền Nam, về Hội Hoa Tiêu Sông Saigon và thường xuyên khuyến khích và trả lời các câu hỏi của đồng nghiệp, đồng môn trường Hàng Hải.

Nhân dịp Sinh nhật của Niên trưởng:
Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam,
Kỹ Yếu Hàng Hải và Đồng Nghiệp, Đồng Môn trưởng Việt Nam Hàng Hải chúc Niên Trưởng thân tâm an lạc, khỏe mạnh vui tươi, bách niên giai lão.

ANH CHỊ EM THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN ĐẾN THĂM NIÊN TRƯỞNG TRẦN VĂN CHƠN 19 Fev
Source: Huỳnh Ngọc Trí, Modesto – California (người đứng bìa bên phải)

Anh chị em Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam đã ghé thăm Niên Trưởng Trần Văn Chơn, Niên Trưởng xuất thân trường Việt Nam Hàng Hải khóa 1947-1948, khóa nầy còn có quý Niên Trưởng Tôn Thọ Khương, Đoàn Luyện, Nguyễn Văn Danh, Đào Quan Ngãi, Tôn Thất Tuyên, Chung Tấn Cang, Trần Văn Chơn, Lâm Nguơn Tánh, Trần Văn Phấn, Lê Quang Mỹ, Hồ Đắc Tâm, Đỗ Bá Ngữ, Lê Xuân Long, Võ Bá Nhu, Đoàn Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Hùng Trương, Nguyễn Văn Thiệu, v.v… Có tất cả 20 sinh viên ban Chỉ huy và 20 sinh viên ban Cơ khí.
Sau đó Niên Trưởng được chuyển sang khoá 1 và tốt nghiệp trường Sĩ quan Hải Quân năm 1952; cấp chức sau cùng là Phó Đề Đốc Tư Lịnh Hải Quân VNCH.
Năm nay tuy đã 99 tuổi nhưng Niên Trưởng với nụ cười hiền hậu, thân thiện với anh chị em đến thăm. Tuy tuổi có cao nhưng trí nhớ của Niên Trưởng rất tuyệt vời. Mọi người đến thăm đều tỏ lòng quý mến Niên Trưởng.
Chúc Niên Trưởng Phúc như Đông Hải, Thọ Tỷ Nam Sơn.

PHÂN ƯU

SBTN: Phỏng vấn Ông Tất Ngưu ngày 18/01/2019

MỘT TRONG 2 SĨ QUAN HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM THAM GIA TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA NGÀY 19/01/1974

Anh Tất Ngưu, cựu sinh viên trường Việt Nam Hàng Hải, tốt nghiệp khóa 20 ngành Máy và khóa 1 OCS là một trong hai Sĩ Quan Hàng hải Thương Thuyền tham gia trận hải chiến Hoàng Sa, ngoài anh còn có anh Huỳnh Duy Thạch, khóa 13 Máy hy sinh trong trận chiến nầy.
Mời quý bạn cùng theo dõi cuộc phỏng vấn anh Tất Ngưu của phỏng viên đài SBTN – DC.

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Được một Thân Hữu tại Saigon, anh Nguyễn Trọng Dân, Hoa tiêu sông Saigon cho biết cháu Mai Lan, con Niên trưởng Tôn Thọ Khương, cố Hoa tiêu sông Saigon, báo tin Niên trưởng ĐÀO QUANG NGÃI đã mất lúc 7:50AM ngày 28/01/2019 tại Melbourne, Úc Châu;
Lể tẩn liệm và phát tang vào lúc 16 giờ ngày 29/01/2019;
Lể viếng từ 19 giờ đến 21 giờ 30 ngày 29/01/2019;
Lế di quan và hỏa táng vào ngày 31/01/2019 khoảng 9:30AM.
Xin trân trọng thông báo đến quý đồng nghiệp, đồng môn được rõ, nhất là quý anh đang sinh sống tại Melbourne.

HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM
và KỶ YẾU HÀNG HẢI
xin chân thành chia buồn cùng gia đình tang quyến.
Nguyện cầu hương linh Niên trưởng ĐÀO QUANG NGÃI sớm về cõi Vĩnh Hằng.

PS: Đây là bức hình duy nhất của gia đình Niên trưởng Đào Quang Ngãi chúng tôi hiện có do anh Nguyễn Trọng Dân gởi tặng trước đây với lời ghi chú:
« Vợ chồng ông Đào Quang Ngãi (năm nay 93 tuổi, cựu hoa tiêu sông SG), hiện định cư tại Úc. Ảnh chụp nhân dịp tôi ghé thăm ông bà vào tháng 09/2016. Người đứng bên trái (ngoài cùng) là con gái của anh Khương-hiện cũng sống tại Úc ».
Một lần nữa Kỷ Yếu Hàng Hải cảm ơn anh Nguyễn Trọng Dân và cháu Mai Lan rất nhiều.

Giới thiệu Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN ĐÀI TRUYỀN HÌNH abtv Houston 55.4

Đại diện anh em Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam, hai anh Đinh Văn Thạnh và Lê Châu An Thuận đã dự buổi phỏng vấn của đài truyền hình địa phương thành phố Houston để đồng hương được biết thêm về ngành Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam trước 30-4-1975.
Xin mời quý đồng môn và đồng nghiệp cùng thân hữu xem lại buổi phỏng vấn đó. Phần 1  &  Phần 2  &  Phần 3  &  Phần 4

Trường Việt Nam Hàng Hải 2018, ai còn, ai mất

Trường Việt Nam Hàng Hải 2018, ai còn, ai mất

Albatros

Trường Việt Nam Hàng Hải nằm trong khuôn viên Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ đã tan hàng sau năm 1975 và các sinh viên của trường cũng đi tản mác khắp các quốc gia trên thế giới. Những cánh chim hải âu già yếu đã lần lượt bay xa ngút ngàn và những cánh chim non trẻ của ngôi trường thân yêu ngày nào cũng đang trong lứa tuổi 60.

Đầu năm 2018 ngày 01 tháng 01, anh Võ Bá Thuận K16 Cơ Khí đã vĩnh viễn ra đi tại Canada, thọ 74 tuổi. Qua đến ngày 14 tháng 01, đến phiên bạn Lê Quang Cảnh K19 Pont cũng chấp cánh nối gót theo sau, thọ 68 tuổi. Tôi với Cảnh là bạn học chung lớp Nhứt ở Gò Công nhưng sau đó Cảnh lên Sài Gòn theo học trường Pháp nên sau đó không có dịp gặp lại cho đến khi trúng tuyển vào trường VNHH mới được tái ngộ bạn cũ. Cảnh là dân « công tử », gia đình khá giả nên giao thiệp, quen biết nhiều với giới thượng lưu Sài Gòn lúc bấy giờ, tôi cũng không dám đến chơi vì hoàn cảnh hai người khác xa. Cảnh có gương mặt điển trai lại cao ráo và tập thể dục thẩm mỹ nên có thân mình nở nang, lúc nào cũng chưng diện quần áo thời trang dân hippy và có lẽ vì thế nên được mời đóng một vai phụ với nữ tài tử Thanh Nga trong phim Xa Lộ Không Đèn.

Lê quang Canh và Thanh Nga 2
Lê Quang Cảnh đóng chung với nữ diễn viên Thanh Nga trong phim Xa Lộ Không Đèn

Gia đình Cảnh khai thác tiệm kem nổi tiếng Phương Lan nằm trên đại lộ Lê Lợi, cách café Pôle Nord vài bước và cách tiệm nước mía Viễn Đông vài căn, bạn quen đến chơi thì « cậu » mời lên lầu ăn kem, nhìn xuống đường phố Bonard xem tài tử giai nhân dạo phố. Phải nói thêm, tuy gọi là tiệm nước mía Viễn Đông, nhưng thực ra, đó chỉ là một khoảng không gian nhỏ xây thụt vào trong bức tường với tấm bạt che mưa bên ngoài và không bảng hiệu, dân uống nước mía đặt tên Viễn Đông cho dễ nhớ.

Đường-Lê-Lợi-Pasteur-Saigon-1973-74-Kem-Phương-Lan
Tiệm kem Phương Lan bên phải cột đèn

Dân tỉnh nhỏ mới lên Sài Gòn ở trọ đi học còn ngỡ ngàng, chưa quen đời sống thủ đô, được cậu chủ chiếu cố, mời vào tiệm kem thì ngại ngùng lắm, cảm thấy mình giống như nhân vật Tư Ếch đi Sài Gòn trong một bài ca cải lương. « Cậu » Cảnh đi chiếc xe Lambretta màu trắng đỏ, dựng trước cửa tiệm, tối ngày đi nhông nhông bát phố, đúng là nhà giàu sướng thiệt, chẳng lo lắng chi cả. Tôi nghĩ « cậu » đi học trường VNHH thì chỉ muốn kiếm cái bằng lấy le cho oai thôi chứ cậu đâu có màng cái nghề đi biển cực khổ nầy. Cảnh sau nầy về hưu sống ở Mũi Né – Phan Thiết với bà vợ sau cho đến lúc qua đời ở Việt Nam, kể ra cuộc đời cậu cũng nhàn nhã không nhiều sóng gió như những người khác. Tôi viết hơi dông dài về bạn Cảnh vì là bạn cũ lâu quá không gặp lại từ ngày ra trường và cũng là gương mặt quen thuộc của giới trẻ ăn chơi đình đám của Sài Gòn thuở nào.

Ngày 11 tháng 2, cựu Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh qua đời ở tiểu bang Virginia – USA thọ 90 tuổi, Ông là một Niên Trưởng kỳ cựu cùng lớp với những N/T như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Chơn, Chung Tấn Cang, Võ Bá Nhu, Nguyễn Văn Ba … Qua đến ngày 22 tháng 4, đến lượt N/T Võ Bá Nhu vĩnh viễn ra đi ở Houston thọ 94 tuổi, N/T là thân phụ của đương kiêm Dân biểu Hubert Võ của tiểu bang Texas.

Khoảng tuần lễ sau đó, N/T Nguyễn Đình Quảng nối gót theo các bạn già, tạ thế ngày 30 tháng 4 thọ 90 tuổi tại tiểu bang Illinois. Ngoài ra, KYHH cũng nhận được tin Đồng môn Trần Hoàng Dũng K21 Cơ Khí qua đời ở Việt Nam nhưng không biết ngày giờ và chi tiết.

Tháng 8, trong khi Hội HHTT ở Houston đang chuẩn bị Đại Hội HHTT ở Houston thì nhận được tin Đồng môn Đặng Thanh Cần vĩnh viễn ra đi vào ngày 22/08 tại Basel – Suisse hưởng thọ 72 tuổi. Anh Đặng Thanh Cần đã ghi danh tham dự Đại Hội HHTT và chuyến du hành trên biển cùng các đồng môn nhưng trước khi mất khoảng vài tháng, anh Cần cho biết sẽ không đi dự Đại Hội như dự trù vì sẽ vào bệnh viện. Tuy bệnh tình lúc đó cho thấy không có gì nguy hiểm, nhưng sau đó, tình trạng sức khỏe đột ngột suy sụp nhanh chóng và anh qua đời. Cơn bệnh đã đem anh Cần ra đi bất ngờ, để lại bao thương mến cho bạn bè và đồng nghiệp. Ngoài ra cũng phải kể thêm N/T Trương Hạo không thể đến tham dự ĐH vì lý do sức khỏe mặc dù rất mong muốn và bạn Nguyễn Huy Luận ở Tây Đức cũng không thể đến cũng vì lý do sức khỏe.

Ngày 06 tháng 10, Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền 2018 được khai mạc tại Houston, tiểu bang Texas với trên 100 người tham dự, gồm những hải âu và gia đình cùng các thân hữu. Đại Hội HHTT 2018 được thành công mỹ mãn cũng do sự đóng góp công sức của những anh em vùng Houston. Tuy nhiên, Đại Hội năm nay vắng bóng những « Trưởng lão », những N/T tuổi già sức yếu không thể đến tham dự, không như những năm trước và chỉ có mỗi « Trưởng lão » Lê Văn Được hiện diện và không biết những Đại Hội năm sau có còn được tổ chức hay không. Đại Hội được tiếp nối với chuyến du hành trên biển trên du thuyền Liberty of the Sea với một số anh em để lại những kỷ niệm đáng ghi nhớ.

Đầu tháng Mười, bạn Thái Hồng Thanh từ Melbourne đến Hoa Kỳ và chu du một vòng ghé thăm các bạn hữu K 19 như Hồ Thúc Ngọc, Nguyễn Thanh Sơn, Bùi Khắc Thạch, Huỳnh Ngọc Trí, Lê Thanh Tân, Hùng Lương… bạn cũ mấy chục năm mới gặp nhau cũng vui. Thái Hồng Thanh lúc vừa ra trường VNHH năm 1971 đã rời Việt Nam cuối năm đó, lên đường du học tự túc ở Nhật và sau đó trở thành công dân xứ mặt trời mọc. Thái Hồng Thanh sau đó qua Úc định cư và cũng chưa từng gặp lại bạn cũ nào cho đến trở lại Mỹ năm 2018.

Thai Hong Thanh
Thái Hông Thanh đứng giửa, bên phải là Huỳnh Ngọc Trí, trái là Hùng Lương 2018

Trong tháng 11, tình cờ đọc một truyện ngắn trên internet (1), tác giả cho biết một chi tiết là ngay trước năm 1975, Hàng Không VN đã dự trù xây cất một khách sạn Năm sao sáu tầng với 2000 phòng trên phần đất của Bộ Giao Thông và Vận Tải (trong đó bao gồm Sở Hàng Hải), tọa lạc giửa đường Pasteur và đường Công Lý, trong đó sẽ được đặt bộ chỉ huy của HKVN và sẽ có những cửa hàng bán lẽ, nhà hàng. Về phần Bộ Giao Thông và Vận Tải sẽ được di dời qua chổ khác để có thể phát triển lớn hơn, như vậyvà nếu Sài Gòn không bị thất thủ thì mỗi lần đi trình Rôle d’Equipage ở Sở Hàng Hải, phải đến địa chỉ mới và như vậy sẽ không còn dịp ghé qua tiệm Thanh Xuân làm một tô hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng nằm trên đường Tôn Thất Thiệp gần đó.

Duong Tôn thât Thiêp-Hu tiêu Thanh Xuân
Tiệm hủ tiếu Thanh Xuân, phía xa tấm hình là cổng vào Sở Hàng Hải đường Pasteur

Đường Pasteur - cổng vào Sở Hàng Hải
Cổng vào Sở Hàng Hải nằm cuối mái ngói đỏ đường Pasteur, lề đường bên trái là nước mía Viễn Đông

Tháng 11, ngày 22, cựu Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng qua đời ở Fairfax, Virginia thọ 87 tuổi, Niên Trưởng là cựu Sinh viên Trường Việt Nam Hàng Hải, Khóa 2 cùng với N/T Bùi Ngọc Hương.

Cuộc đời là vậy, sinh lão bệnh tử là chuyện thường tình, nhưng những chia ly, mất mát vẫn để lại những bùi ngùi, thương nhớ cho những người còn ở lại.

Trong tháng 12, anh Đinh văn Thạnh về Việt Nam gặp bạn bè cũ và nhân tiện ghé thăm Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ ngày xưa và chụp một số hình ảnh những trường cũ. Những trường Cao Đẳng Điện, Hóa Học, Công Chánh không thay đổi bao nhiêu, riêng ngôi trường Hàng Hải và Công Nghệ được đổi tên lại là trường Cơ Khí và xây thêm 4 tầng, như vậy ngôi trường xưa bây giờ có đến 5 tầng ; mặt tiền cũng được tân trang lại hoàn toàn, cầu thang bên trong lúc trước được thiết kế hai bên bây giờ được xây lại ở chính giửa, nhìn không ra ngôi trường cũ (xem chi tiết trong mục Tin tức nội bộ 2018).

Con đường vào TTKTPT từ cổng chính
Con đường chính từ cổng TTKT Phú Thọ, ngã rẽ bên phải dẫn vào trường Cao Đẳng Hóa Học, bên trái là trường Hàng Hải và trường Công Nghệ

Trường Công Nghệ và Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí 2018
Trường Cơ Khí được xây cất trên khu đất của trường VNHH khi xưa

Dân ở Sài Gòn lâu năm như anh Vũ Công Thạnh khi vào Đại Học Bách Khoa để chụp ảnh trường VNHH cũ nhưng cũng ngẩn ngơ không biết ngôi trường xưa bây giờ ở đâu ? Viết đến đây, nhân khi nói chuyện với anh Hà Văn Tài qua điện thoại về tin tức của trường cũ, anh thông báo một chi tiết là em của anh tốt nghiệp trường Cơ Khí (trường VNHH cũ) đã cho anh biết ngôi trường Hàng Hải và Công Nghệ xưa đã bị phá hủy hoàn toàn và được xây lại bằng một tòa nhà hoàn toàn mới 5 tầng ngay trên vị trí nầy là trường Cơ Khí bây giờ. Điều nầy có lẽ hợp lý vì tôi quan sát tấm hình của tòa nhà mới nhận thấy nó không mang một dấu vết nào của kiến trúc cũ. Như vậy thì ngôi trường VNHH thân thương của chúng ta khi xưa chỉ còn trong kỷ niệm và không còn lưu lại dấu vết nào bây giờ !

Cổng vào TT KT PT 3
Cổng vào Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ sau 1975, phía trước là đường Nguyễn văn Thoại. Hình chụp từ Cư Xá Lữ Gia

Cổng vào Đại Học Bách Khoa
Cổng vào Trung Tâm Kỹ Thuật sau 1975

Một năm mới 2019 bắt đầu, Việt Nam Hàng Hải Pháp cầu chúc quí cựu Giáo Sư, Niên Trưởng và các bạn đồng môn một năm mới an bình và nhiều sức khỏe và nước Việt Nam thay đổi vận mạng sớm được qua cơn thống khổ triền miên từ hàng chục năm qua dưới ách thống trị của bạo quyền cộng sản.

(1) https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/204-ngu-i-an-may-me-lang-thien-phong

Tin nội bộ 2018

Tin nội bộ 2018

HỘI NGỘ TRONG MÙA GIÁNG SINH

Ngày 23.12.2018 tại Nhà hàng Đông Đô Eden, Saigon các đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải có buổi gặp mặt với anh chị Đinh Văn Thạnh từ California về thăm nhà và thăm anh em đồng môn.
Chúc tất cả anh chị em có những ngày gặp mặt hàn huyên thân mật vui vẻ.

Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 2Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 3Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 4Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 5Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 1

ships-wheel-2154587_960_720

Trường Việt Nam Hàng Hải trước và sau 1975

TIN MỚI NHẤT VÀ ĐÚNG NHẤT VỀ MÁI TRƯỜNG XƯA

Anh Đinh Văn Thạnh đang ở Saigon, có ghé thăm trường cách đây ba ngày, hình của anh Vũ Công Thạnh gởi cho anh em chúng ta trước đây đó là trường Công Chánh ngày xưa, bây giờ là khoa Xây Dựng.

Anh Đinh Văn Thạnh có gặp một vị giáo sư lớn tuổi ở trường Bách Khoa cho biết thông tin sau đây, tất cả buildings ở Phú Thọ vẫn còn nguyên chỉ sơn lại, duy chỉ có building thứ hai bên trái từ ngoài cổng đi vào đối diện trường Hoá Học bên tay phải là trường Hàng Hải và Công Nghệ ngày xưa bây giờ là khoa Cơ Khí, vì có nhiều ban công nghệ cơ khí khác nhau và thêm ban cao học (thạc sĩ, Master) số sinh viên theo học đông nên building này được sửa sang lại cầu thang xuống để có chổ làm thang máy vì trường đã cất thêm 4 tầng lầu nữa vị chi là 5 tầng lầu, mặt tiền cũng được sửa lại .
1. Building trường Hàng Hải và Kỷ sư Công Nghệ bây giờ, cây bên tay phải có chiếc xe nhỏ màu xanh là nơi các thầy thường hay đậu xe;
2. Cầu thang đi xuống được sữa chữa để có chổ làm cầu thang bên tay trái;
3. Building đầu tiên trường Cao đẳng Điện bên tay trái vẫn còn như xưa, giờ là khoa Điện;
4. Đối diện trường Điện là khoa Điện tử;
5. Đối diện trường Hàng Hải / Công nghệ là trường Cao Đẵng Hoá Học, giờ là khoa Hóa;
Sân cỏ chính giửa hai trường vẫn còn, xưa chúng ta hay chơi volley ball giờ là sân soccer;
6. Building thứ ba bên tay trái sau building trường chúng ta nằm thụt vào một chút, xưa là trường Cao đẳng Công Chánh 3 tầng , giờ vẫn như vậy là khoa Xây dựng . Đây là bức hình anh Thạnh lầm tưởng là building trường Hàng Hải;
7. Thư viện ngày xưa mà khoá 20 cơ khí có tấm hình chụp với thầy Oánh trong ngày tốt nghiệp;
8. Các anh nào ở ký túc xá sv, có quán nước phía sau trường mình. Đây là hình bây giờ;
9. Lớp học ngày xưa trên lầu trường mình;
10. Phòng các thầy giám đốc;
11. Trên lầu nhìn qua trường Hoá Học.

Đinh Văn Thạnh 12/2018

Xin phép đại diện anh em đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải, Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ chân thành cảm ơn anh Thạnh.

Truong-Viet-Nam-Hàng-Hai
Trường Việt Nam Hàng Hải trước 1975

Trường Công Nghệ 2
Trường Việt Nam Hàng Hải trong thập niên 1980

Trường Công Nghệ và Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí 2018
Trường Cơ Khí bây giờ được xây trên phần đất của trường Việt Nam Hàng Hải cũ

Trường Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí- Cầu thang được xây lại 2018
Mặt tiền trường Cơ Khí (trường VNHH cũ)

Trường Hóa Học nhìn từ lầu Trường VNHH cũ 2018
Trường Cao Đẳng Hóa Học vẫn còn và sân cỏ ngày xưa chúng ta hay chơi volley ball giờ là sân soccer

Thư viện TT KT PT
Thư viện Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ sau năm 1975

Thư viện Trung Tâm bây giờ
Thư viện TTKT bây giờ 2018

Trường Cao Đẳng Điện 2018
Trường Cao Đẳng Điện – 2018

Trường Cao Đẳng Công Chánh bây giờ là Trường Xây Dựng
Trường Cao Đẳng Công Chánh bây giờ là Trường Xây Dựng – 2018

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn N/T Đinh Mạnh Hùng

Dinh Manh Hung

Chúng tôi vừa nhận được tin:
Đồng môn Khoá 2 1951-1952, trường Việt Nam Hàng Hải:

N/T ĐINH MẠNH HÙNG
(cựu phó Đề Đốc Hải Quân VNCH)
Pháp Danh: Nguyên Tuế
Vừa thất lộc vào ngày 22 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày 15 tháng 10 năm Mậu-Tuất) tại Fairfax, Virginia.
Hưởng thọ 87 tuổi

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam &  Kỷ Yếu Hàng Hải thành kính chia buồn cùng toàn thể gia quyến và nguyện cầu hương linh N/T ĐINH MẠNH HÙNG được sớm phiêu diêu về miền Lạc Cảnh.

N/T Đinh Mạnh Hùng là cựu sinh viên khóa 2 trường Việt Nam Hàng Hải cùng khóa với N/T Hương. 

ships-wheel-2154587_960_720

Hình ảnh Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền tại Houston 2018

Dai-hoi-Hang-Hai-2018

HÌNH KỶ NIỆM

Để in ra và giữ làm kỷ niệm những tấm ảnh mà mình yêu thićh, mời quý bạn vào link dưới đây:
https://photos.shutterfly.com/…/ff51ffd7-56a1-…/90234119392…

Link nầy cũng do anh chị Hoàng và Dung thực hiện và gởi tặng.
KYHH chân thành cảm tạ hai anh chị.

* Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền  tại Houston 2018 trên Youtube

ships-wheel-2154587_960_720

Hình ảnh tàu Việt Nam Thương Tín 1 tại Guam 1975

MS Viet Nam Thuong Tin 1 -4 (2)MS Viet Nam Thuong Tin 1 -3MS Viet Nam Thuong Tin 1MS Viet Nam Thuong Tin 1 -2

Source: http://themsonha.blogspot.com/2016/07/

Hình ảnh tàu Sông Bé 12 tiến vào hải phận Úc

December 1977

Song Be 12 -5Song Be 12 -1

ships-wheel-2154587_960_720

TANG LỄ ANH ĐẶNG VĂN CẦN ngày 31.08.2018 tại

BASEL – SUISSE

Bài viết của Đồng môn Luận Nguyễn, Germany

Thân chào các đồng môn, hôm thứ sáu ngày 31-08-2018 tôi đến Basel / Thụy sĩ dự đám tang, tiển đưa Anh Đặng thanh Cần một người bạn, một đồng môn về cõi vĩnh hằng.
Thi hài đả được hỏa táng vào ngày thứ tư và tro hài cốt được cho vào lọ (urn), đến thứ sáu được đưa xuống tàu MS Lällekönig. Đúng 13:30 giờ tàu rời giang cảng Dreilaendereck (ngã ba tam biên Thụy Sĩ / Đức / Pháp) đến trạm kế tiếp đón thêm các thân hữu tham dự tang lễ và tiếp tục chạy trên sông Rhin.
Tàu MS Lällekönig (giang thuyền chở du khách trên sông) hạ thủy năm 1980 và vài năm sau thủy thủ Đặng thanh Cần làm việc trên tàu nầy nhiều năm trước khi chuyển qua các tàu khác, cấp bậc cuối cùng là Captain trước khi về hưu năm 2011.
15:00 tang lễ cử hành và sau đó tro hài cốt được chị Phương vợ của Anh Cần rải xuống sông Rhin cùng những đóa hoa trắng tôi theo giòng nước về hạ nguồn (Pháp, Đức, Hòa Lan), tang lễ chấm dứt lúc 16:00.
Chuyến tàu đưa tro hài cốt Anh Cần theo giòng sông Rhin chảy ra cửa biển Amsterdam và đi vào lòng Đại Tâv Dương, chuyến nầy là chuyến cuôi cùng của tàu MS Lällekönig sau 38 năm ngang dọc trên sông.

Gia đình anh Cần nhờ chuyển lời cảm tạ tất cả các đồng môn, bạn bè và thân hữu trong Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam đã gởi lời chia buồn đến gia đình.

Tang le Dang Thanh Can 1.jpg

Tang le Dang Thanh Can 4.jpg

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam,
Kỷ Yếu Hàng Hải,
Đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải khóa 17
chân thành chia buồn cùng Gia đình anh:
ĐẶNG THANH CẦN
Cựu sinh viên khóa 17 trường Việt Nam Hàng Hải
Đã qua đời lúc 0 giờ 14 phút sáng ngày 22 tháng 8 năm 2018 tại Basel, Switzerland sau môt thời gian bị bạo bệnh, hưởng thọ 72 tuổi

Cầu chúc hương linh đồng môn, đồng nghiệp ĐẶNG THANH CẦN sớm về cõi vĩnh hằng.
Chúng tôi sẽ mãi nhớ về bạn.

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Đồng Môn Trần Hoàng Dũng

Đồng Môn Trần Hoàng Dũng

Cơ Khí Khóa 21 Trường Việt Nam Hàng Hải

Đã mãn phần tại Việt Nam

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Niên Trưởng Nguyễn Đình Quảng

Nguyen Dinh Quang.JPG

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Niên Trưởng Võ Bá Nhu

Vo Ba Nhu 2

ships-wheel-2154587_960_720

Đề Đốc Việt Nam Cộng Hòa Lâm Ngươn Tánh qua đời ở Virginia, hưởng thọ 90 tuổi

Huy Lam / SBTN

LamNguonTanh-01-BBC
Ảnh: BBC

Đề đốc Việt Nam Cộng Hòa Lâm Nguơn Tánh, người chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa, vừa qua đời hôm 11 tháng 2 tại nhà riêng ở thành phố Fredericksburg, tiểu bang Virginia, hưởng thọ 90 tuổi.

Một thông báo do gia đình và Đảng Dân Tộc Việt Nam, mà ông Lâm Nguơn Tánh là Phó Tổng Bí Thư, cho hay như vậy. Đề đốc Lâm Ngươn Tánh là Tư Lệnh Hải Quân cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 17 tháng 1 1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh trong vai trò Tư lệnh phó Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bay ra Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải tại Đà Nẵng để chỉ huy lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa.

Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1928 tại Lai Vung, Sa Đéc. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trúng tuyển và theo học trường Hàng Hải Thương Thuyền của Pháp tại Sài Gòn vào năm 1948. Ông tốt nghiệp cấp Thuyền Trưởng và phục vụ trong ngành hàng hải cho đến ngày gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1952. Cuối năm 1954, ông được thăng cấp Hải Quân Đại Úy, chuyển sang làm hạm trưởng giang pháo hạm HQ-330. Sau đó, ông được cử làm chỉ huy trưởng Giang Lực Miền Đông trong thời kỳ đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa. Tháng 10 năm 1956, ông được bộ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng Hải Lực, trách nhiệm toàn bộ Hạm Đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 11 năm 1974, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Hải Quân thay thế Đề đốc Thiếu tướng Trần Văn Chơn.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vợ chồng Đề đốc Lâm Ngươn Tánh lên chiến hạm HQ Trần Hưng Đạo di tản sau khi không còn con đường nào khác.

https://www.sbtn.tv/de-doc-viet-nam-cong-hoa-lam-nguon-tanh-qua-doi-o-virginia-huong-tho-90-tuoi/

ships-wheel-2154587_960_720

Tin Buồn Đề Đốc LÂM NGƯƠN TÁNH ĐÃ QUA ĐỜI

Kỷ Yếu Hàng Hải

LamNguonTanh

Niên Trưởng sinh ngày 18 tháng 10 năm 1928 tại Sa Đéc, Việt Nam.
Qua đời ngày 11 tháng 2 năm 2018 tại Fredericksburg, bang Virginia, Mỹ. Hưởng thọ 90 tuổi.

Niên Trưởng Nguyễn Văn Ba, hiện đang sinh sống tại Houston Texas có viết về các đồng môn cùng khóa của ông như sau: « Lúc tôi học lớp Machine gồm có vài anh như là Đỗ Bá Ngôn (anh Đỗ Bá Ngữ học Pont), Nguyễn Xuân Kim, Nguyễn Văn Thành.., ở nội trú Bùi Văn Nghiêm, Huỳnh Văn Lãm.
Lớp Pont gồm có các anh Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Chơn, Chung Tấn Cang, Lâm Nguơn Tánh, Đoàn Luyện, Võ Bá Như, Đỗ Bá Ngữ, Tôn Thọ Khương, Nguyễn Văn Trương, Đào Quang Ngải, Tôn Thất Tuyên … Ra trường năm 1949 kẻ thì đi tàu, người đi Tây ít dịp gặp lại nhau ».

 HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM
 KỶ YẾU HÀNG HẢI
ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

ships-wheel-2154587_960_720

KỶ YẾU HÀNG HẢI TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU SÁCH CỦA PHẠM TẤN QUỐC, ĐỒNG MÔN TRƯỜNG VIỆT NAM HÀNG HẢI :

THE WORLD LOOKED AWAY [Thế Giới Ngoảnh Mặt]
VIETNAM AFTER THE WAR [Việt Nam Thời Hậu Chiến]
QUOC PHAM’S STORY
by
DAVE BUSHY

Quý Niên Trưởng,
Quý Đồng Môn,

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào ngày 30 tháng 4, năm 1975. Hàng triệu người trong cả hai phía bị mất mạng. Gần 60 ngàn người Mỹ tử trận. Mới đây bạn đã xem hoặc nghe về cuộc chiến trong phiên bản dài của Ken Burns “Chiến Tranh Việt Nam”. Nhưng những gì đã xảy ra cho miền Nam Việt Nam khi mất nước? Những gì đã xảy ra cho những cựu sĩ quan và lính của họ, cho gia đình và cả cho đất nước?. Cuốn sách mới được phát hành “Thế Giới Ngoảnh Mặt – Việt Nam Thời Hậu Chiến – Câu chuyện của Phạm Tấn Quốc” cố gắng kể lại chuyện đó.

Cuốn sách là ký sự của một người cựu sĩ quan và người vợ tranh đấu để sống sót sau năm năm trong trại tù cải tạo, bị đày khu Kinh Tế Mới, và ngay cả đi xâm mìn ở biên giới Kampuchea. Câu chuyện sống qua cuộc vượt biên trong bão tố với 55 người trên chiếc thuyền bé nhỏ mỏng manh trên biển Đông. Tuy là một người đọc nhiều sách lịch sử tôi biết rất ít về thời gian này. Tôi rất vinh dự được cùng với Quốc tìm hiểu về câu chuyện của ông và viết ra.

Mời quý vị vào website: theworldlookedaway.com

The-World-Looked-away.jpg
ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn về bạn Lê Quang Cảnh K 19

Lê quang Canh

Lê quang Canh - cáo phó 2.JPG

LQC-4
Kem-Phuong-Lan-2

Lê-quang-Canh-và-THanh-Nga-trong-phim-Xa-lô-không-dèn
Lê quang Canh và Thanh Nga 4

ships-wheel-2154587_960_720
Tin buồn Niên Trưởng Võ Bá Thuận K 16 M

Võ Bá Thuận 2

Võ Bá Thuận 3Võ Bá Thuận

Tin nội bộ 2010

Tin nội bộ 2010

Tin buồn Niên Trưởng Hoàng Trọng Tý

Hoàng trọng Tý 1
Di ảnh Niên Trưởng Hoàng Trọng Tý

NHẬN ĐƯỢC TIN BUỒN

Ông HOÀNG TRỌNG TÝ

Pháp Danh Quảng-Trọng tạ thế lúc 01:00 AM

ngày 26 tháng11 năm 2009 tại San Jose (California) thọ 86 tuổi

Sẽ hỏa táng lúc 10:30 ngày 30 tháng 11 năm 2009.

Thành thật chia buồn cùng Bà Hoàng Trọng Tý và gia quyến.

Xin nguyện cầu hương linh Ông HOÀNG TRỌNG TÝ

được SIÊU THĂNG TỊNH ĐỘ về MIỀN CỰC LẠC.

Nhóm HH TT Miền Đông Bắc Mỹ

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Hội Hoa Tiêu sông Mékong và sông Sài Gòn

Xin thông báo đến các bạn hữu tin buồn :
Anh
Dương Văn Lê , cựu Hoa Tiêu sông Mékong & Sài Gòn vừa qua đời ngày hôm nay 14/3/2010 lúc 22giờ , hưởng thọ 92 tuổi .
THSao .

Tin nội bộ 2009

Tin nội bộ 2009

CHUYẾN VIẾNG THĂM THẦY ĐẶNG VĂN CHÂU NGÀY 24 THÁNG 8 NĂM 2009

Sáng nay, ngày 24 tháng 8 năm 2009, anh chị Nguyễn Ngọc Nhơn (cựu sinh viên khóa 13 Pont) và bà bạn của anh chị, và là người cùng quê với Thầy Đặng Văn Châu đã rời Saint Maximin để đi thăm thầy Châu đang ở một nhà dưỡng lão tại thành phố Grenoble. Lái xe trên 4 tiếng thì cả đoàn đã đến nhà dưởng lão và đã gặp lại Thầy, vừa mừng vừa buồn, mừng vì đã quá lâu không gặp được Thầy, buồn vì thấy sức khỏe của Thầy có phần sa sút so với trước đây. Khi gặp lại Thầy, anh Nhơn cho biết là do lớn tuổi, sức khỏe của Thầy không còn được như xưa, đầu óc còn rất minh mẩn nhưng có khó khăn trong phần phát âm. Chị Nhơn và bà bạn của chị mang các thức ăn mà Thầy thích như bún nem nướng chan nước mắm, xôi chấm muối mè-đậu phộng-đường, vì dùng thức ăn của nhà dưởng lão lâu ngày nên Thầy ăn uống rất ngon miệng. Trong thời gian các anh chị thăm Thầy thì Cô Châu có gọi đến, hôm nay Cô không đến được vì bác sĩ không cho Cô ngồi lâu quá 15 phút. Như chúng ta trông thấy trong các bức ảnh trên đây, các chị chu đáo mang theo cả đủa, trái cây tráng miệng, nước uống…

Những giờ phút vui bên Thầy qua mau, các anh chị còn phải về trên chặng đường đèo núi hiểm trở, anh Nhơn đã đẩy xe đưa Thầy trở lại phòng riêng. 

Vợ chồng anh Nhơn và bà bạn cũng như toàn thể cựu sinh viên trường Việt Nam Hàng Hải kính chúc Thầy mau hồi phục, an lành.

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn anh Ngô Minh Chí

Bạn NGÔ MINH CHÍ đã ra đi

ngày Chúa Nhật 22 tháng 11 năm 2009

tại Toronto Canada, hưởng thọ 63 tuổi.

Toàn thể gia đình cựu Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền

thành thật chia buồn cùng:

Chị Ngô Minh Chí, nhũ danh Cao Thu-Thảo, và các cháu

Ngô Minh Tâm & Lisa, Ngô Anh Kiệt & Winnie

Nguyện cầu Hương Linh bạn NGÔ MINH CHÍ

sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc.

Các bạn: Bùi Văn Bạch, Đặng Ngọc Đệ, Dương Văn Thới, Hà Học Giao, Lê Bá Tòng, Ma Thanh Tâm, Mạch Thiếu Dân, Nguyễn Phương Khanh, Pham Ngọc Chi, chị Pham Minh Hoàng, Trần Ngọc Danh, Trần Công Minh, Trần Văn Tính, Võ Tấn Ngọc, Võ Văn Tiềm, Võ Bá Thuận, Nguyễn Văn Kiệm, Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Trọng Thanh, Nguyễn Xuân Tùng, Phùng Văn Thành, Lê Châu An Thuận….

và Ban Chấp Hành Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Thầy Đặng Văn Châu

XIN TRÂN TRỌNG THÔNG BÁO ĐẾN QUÝ THẦY, QUÝ NIÊN TRƯỞNG VÀ TẤT CẢ ANH EM

Anh Nguyễn Ngọc Nhơn, đang sinh sống tại Saint Maximin, Pháp,
cựu sinh viên khóa 13 Pont vừa cho chúng tôi biết:

Thầy ĐẶNG VĂN CHÂU
Sinh năm 1925
Cựu Giám Đốc Trường Việt Nam Hàng Hải
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ – Việt Nam
vừa tạ thế lúc 18:30 PM ngày 25 tháng 12 năm 2009 tại Viện Dưởng Lão ở Grenoble, Pháp. Hưởng thọ 84 tuổi.
Chúng tôi xin thành thật chia buồn cùng tang quyến và xin nguyện cầu hương linh
Thầy ĐẶNG VĂN CHÂU
sớm về cõi vĩnh hằng
Ban Biên Tập Kỷ Yếu Hàng Hải
PS: Có tin tức mới chúng tôi sẽ thông báo đến Quý Vị ngay.

Chi tiết đám tang Thầy ĐẶNG VĂN CHÂU 25 Dec 2009 tại Grenoble

Điếu Văn :
Kính thưa Quí Vị,
Tôi xin được tự giới thiệu, tôi là Nguyễn Ngọc Nhơn, học trò của Thầy Đặng Văn Châu cách đây 47 năm ở trường Việt Nam Hàng Hải.
Được sự chỉ định của Thầy Phùng Lương Ngọc, cựu Giám Đốc trường Hàng Hải và Quí Vị Niên Trưởng trong nghề cùng thời với Thầy, sự giao phó của anh em bạn học, đồng nghiệp xa gần, rải rác khắp 5 châu, hôm nay tôi xin phép thay mặt tất cả, nói vài lời cuối cùng với Thầy Cô, trước khi tiển đưa Thầy về cõi vĩnh hằng.
Thưa Thầy, Thưa Cô và các em thương mến,
Ngày vô học trường Việt Nam Hàng Hải, con gặp Thầy lần đầu vào năm 1963 đã xa xưa lắm nhưng hình ảnh đó mãi mãi là dấu ấn trong đời con. Dáng dấp khỏe mạnh, bước đi nhanh nhẹn, khi nói chuyện Thầy chăm chú nhìn thẳng mặt con,nét bộc trực, quyết định lộ ra trong ánh mắt. Con tìm thấy được nơi đó, một chuẩn mực cho đời con mai sau. Năm 1981, con gặp lại Thầy ở Paris. Lúc đó, con đã từng nói với em Thanh: “Em có phước vì có một người Cha như Thầy”.
Thầy dạy môn Carte Marine, chỉ dẩn căn bản rành rẻ đến độ 17 năm sau, dù qua bao thăng trầm, mà khi vào trường Hàng Hải Marseille, các Giáo Sư ở đây vẫn khen ngợi trình độ của trường Việt Nam Hàng Hải. Đó là nhờ công ơn của tất cả quí Thầy đã rèn luyện nghề nghiệp vững vàng cho đám học trò tụi con.
Từ ngày đến Pháp, hình như con là đứa học trò gần gủi Thầy Cô nhiều nhất. Thầy không phải đơn thuần dạy nghề hàng hải. Con học được nơi Thầy, cách sống, cư xử ở đời, rõ ràng minh bạch. Thầy là Sư phụ của con theo đúng ý nghỉa của nó. Phần con vẫn giử đúng tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo, truyền thống Việt Nam. Cho nên, Thầy thường giới thiệu con cho các bạn bè người Pháp rằng con là học trò của Thầy, một học trò tốt, thuộc thế hệ xưa
Cách đây đúng 4 tháng, vào ngày 24/8/2009 tụi con có lên đây thăm Thầy, cùng ăn cơm chung ngoài sân Viện Dưỡng Lão. Suốt buổi, Thầy không nói được gì. Sau đó, vợ chồng con đưa Thầy trở về phòng cho Thầy nằm nghỉ. Thầy nắm tay hai đứa mà không nói được nên lời. Mắt Thầy rưng rưng. Hình ảnh đó, ám ảnh con cho đến bây giờ. Trên đường về, vợ con khóc: Mới ngày nào đây, Thầy Cô còn đến tiệm ăn, chung vui với đám trẻ bạn bè con, nói cười vui vẻ. Bây giờ, gặp mặt chỉ còn nhìn nhau thôi.
Chuyện gì phải đến, sớm muộn cũng sẽ đến. Vẫn bíết sinh ký tử qui, sống gởi thác về, nhưng chuyện ra đi của Thầy làm sửng sốt, bàng hoàng cả giới Hàng hải Việt Nam nói chung và gia đình bạn hữu của riêng con. Thầy vẫn còn đó, vẫn hiện hữu trong tâm tưởng của mọi người quen biết Thầy, mang ơn Thầy, thương mến và kính trọng Thầy. Giọng nói của Thầy vẫn còn vang vọng đâu đây, chính xác, rõ ràng như ngày nào. Tên của Thầy vẫn còn đậm nét trong những câu chuyện của dân Hàng Hải Việt Nam.
Thôi, chuyến xe đã đến rồi! Thầy ra đi để lại thương tiếc cho bao người ở lại. Con cầu xin cho linh hồn Thầy được lên chốn nghỉ ngơi. Ở đó sẽ không còn những vướng bận, lụy phiền của cỏi đời trần tục này nữa.
Thưa Cô, nói chữ  chia buồn thì quá hạn hẹp, xa rời so với sự mất mát to lớn mà Cô và các Em gánh chịu. Dù ngôn từ có hoa mỹ, văn chương, cũng không lột tả hết ý nghĩa đó. Con muốn thưa với Cô điều này: Tất cả trong giới hàng hải Việt Nam khắp 5 châu, từ bậc trưởng thượng như Thầy Phùng Lương Ngoc, các Quí Niên Trưởng cho đến đám học trò tụi con, ai ai cũng thương tiếc Thầy và cùng chung niềm đau với Cô và các em.
Trước khi dứt lời, con xin cám ơn Cô đã cho con dịp bày tỏ tình cảm và sự ngưỡng mộ của giới hàng hải Việt Nam đối với gia đình Thầy Cô.
Xin trân trọng cám ơn tất cả quí vị có mặt nơi đây để tiển đưa vị thầy đáng kính của chúng tôi về chốn vĩnh hằng.
Con kính chào Cô và kính chào quí vị.

Nguyễn Ngọc Nhơn

 Bức thư của Thầy Đặng Văn Châu

dang van chau 4

Tin nội bộ 2012

Tin nội bộ 2012

Tin buồn Thầy Jean Ducasse

À Madame Elisabeth Duong,

Nous avons appris avec une vive douleur la perte de votre père,

Monsieur JEAN DUCASSE, notre Professeur à l’école

de Navigation Maritime à Phú Thọ, Saigon -Viet Nam.

Nous tenons à vous adresser nos sincères condoléances. Sachez que nous nous

joignons à vous, et vous invitons à croire en notre affectueux soutien.

KỶ YẾU HÀNG HẢI

Anh LÂM CHÍ HIẾU, Pont khóa 12, đã thay mặt các Cựu Sinh Viên Trường Việt Nam Hàng Hải gửi email chia buồn đến gia đình Thầy:

Nos sincères condoléances pour la Perte de Votre Père, notre Bien-Aimé Professeur Jean Ducasse … au nom de ses anciens élèves de l ‘ Ecole de Navigation Maritime de Phu Tho../.

Lâm chí Hiếu, promotion 1962

et les autres disciples de l ‘école où Votre respectable Père a formé…/. 

Kỷ Yếu Hàng Hải

xin trân trọng báo tin cùng với

quý Thầy, quý Niên Trưởng

và quý Đồng Môn:

Thầy JEAN DUCASSE

đã mãn phần vào chiều thứ Sáu
14 tháng 9 năm 2012 tại bịnh viện.

Xin đính kèm bức thư của con của Thầy

gửi đến anh Hoàng Mộng Giới hiện đang ở Paris .

Anh Hoàng Mộng Giới có đến thăm Thầy Jean Ducasse

vào ngày Thứ Tư 5 tháng 9 năm 2012

và anh sẽ ở lại để dự tang lễ Thầy vào ngày Thứ Sáu tới đây.

CONDOLÉANCES

Sunday, September 23, 2012 10:40 AM

From: This sender is DomainKeys verified « Philip Phung » Add sender to
Contacts To: « E.Duong@wanadoo.fr » E.Duong@wanadoo.fr
Cc: « Thuan Le »

Chere Elisabeth,

C’est avec une grande tristesse que j’ai appris le deces de votre pere, l’incomparable Professeur Jean Ducasse de L’Ecole de la Marine Marchande du Vietnam. Je tiens a vous faire savoir que votre pere etait un modele de professeur, bien respecte et aime par ses collegues et ses eleves. Il etait aussi un grand ami du Vietnam et j’avais le privilege d’etre son confrere long-courrier et un de ses vieux amis pendant mon temps comme Directeur de l’Ecole. Je partage votre douleur et vous prie d’accepter mes sincères condoléances.

Phung Luong Ngoc, CLC’62

Thành Kính Phân Ưu

Chúng tôi rất đau lòng trước sự ra đi của Thầy Jean Ducasse, vị Thầy đáng Kính của tất cả cựu sinh viên trường Việt Nam Hàng Hải.

Quá xa thầy, chúng tôi chỉ biết im lặng tưởng nhớ Thầy và xin Thương Kính gạt nước mắt tiễn Thầy trong chuyến hải hành lần cuối của Thầy.

Xin thắp nén hương tưởng niệm vị Thầy yêu quý đã vĩnh viễn ra đi và chúng tôi cùng gia đình cầu xin cho linh hồn Thầy mãi được An Vui nơi cõi Vĩnh Hằng

Khóa 16 Pont Trường Việt Nam Hàng Hải

NOS SINCÈRES CONDOLÉANCES
Friday, September 21, 2012 6:30 AM

From: This sender is DomainKeys verified « Nguyen van Kiem » Add sender to Contacts

To: « E.Duong@wanadoo.fr » Cc: « Anh Thuan »

Chère Madame Elisabeth Duong,

Tout d’abord, permettez nous de nous présenter : nous sommes des anciens élèves du Professeur Jean Ducasse.Il y a de cela des années et des années, malgré le temps qui s’est passé, malgré les changements dans nos vies, nous n’oublions jamais les bonnes éducations que le professeur nous a donné et surtout, qu’il avait abandonné son amour pour la mer pour nous guider.C’est avec une immense tristesse que nous avons appris le décès du Professeur le 14/9/2012.Dans le chagrin, nous ne pouvons pas en empêcher les larmes en vous écrivant ces quelques mots pour présenter Chère Madame Duong, nos sincères condoléances.

Respectueusement

Nguyễn văn Kiệm,

Nguyễn xuân Tùng,

Phùng văn Thành,

Đoàn thế Vinh,

Vũ trọng Thanh,

Phạm thanh Tùng.

Promo 1968

HE WILL ALWAYS LIVE ON IN OUR HEARTS

Dear Elisabeth Duong,

We are deeply saddened to hear about the sudden demise of our Professor JEAN DUCASSE.
We had the honor to be his students and had the greatest respect for him.
Please pass on our sincere condolences to your family members.

Lê Châu An Thuận

Promo 1963

Tin buồn Thầy Hồ Đắc Tâm

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Chúng tôi vừa nhận được tin trễ

Thầy HỒ ĐẮC TÂM

cựu Hoa Tiêu Sông Saigon và cựu Giáo Sư

Trường Việt Nam Hàng Hải

đã tạ thế

vào ngày 22 tháng 2 năm 2012

sau một thời gian nằm bệnh tại tư gia ở Toulon.

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam

&

Kỷ Yếu Hàng Hải

xin chân thành chia buồn cùng Cô Tâm và gia quyến

Nguyện cầu hương linh Thầy Hồ Đắc Tâm sớm vãng sinh nơi miền Cực Lạc.

ships-wheel-2154587_960_720

Tin vui

Pham-tan-Quoc-thiep-moi

Kỷ Yếu Hàng Hải vừa nhận được thiệp mời (đính kèm).
Chúc mừng cô dâu Duong Thuy Thi Nguyen và chú rể Quoc Tan Pham trăm năm hạnh phúc.

Thân mời các Anh Chị trong gia đình Hàng Hải đến chia vui cùng gia đình chúng tôi.

Jan -07-2012

10:00 AM nhà thờ St Barbara (góc McFadden Ave & Euclid)

06:00 PM nhà hàng Seafood Palace (góc Golden West & Westminster.

Thiệp mời đính kèm.

Thân,

Thùy Dương & Tan Quốc

Tin buồn Niên Trưởng Đổ Bá Ngữ

Lại thêm một hoa biển nửa vừa biến mất trên Đại Dương.

Được tin trễ Cựu Thuyền Trưởng, Hoa Tiêu sông Saigon ĐỖ BÁ NGỮ
vừa tạ thế tại Sacramento ( California )
ngày 25 tháng 11 năm 2012
Hưởng thọ 86 tuổi.

Huynh đệ Hàng Hải Thương Thuyền thành kính phân ưu cùng tang quyến
và nguyện cầu hương linh anh ĐỖ BÁ NGỮ được an nghỉ trong vòng tay của Chúa.

Lê Văn Được

NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ XẾP ĐÚNG TẠI NHÀ DƯỠNG LÃO

Hom nay Chu Nhat , toi lai vao tham XEP luc 6:00 Gap ba Dung va co con gai. Co HA da cham soc cho Ba rat chu dao . Rua mat , danh rang va dua do an cho Bạ Xep tuoi tinh han len . Sau do tap di bo bam thao hanh lang . Cuoi cung ra phong khach noi chuyen voi toi . Rat vui ve va nhac cac anh em nhieu . Toi cung da goi dien thoai tham anh TUOI . Mot ngay dep troi , toi se di tham va gui hinh anh de cac anh em tuong tan .

Thân chào 

ships-wheel-2154587_960_720

KỶ NIỆM 30 NĂM THÀNH HÔN CỦA HAI BẠN HOÀNG – DUNG

Kỷ Yếu Hàng Hải nhận được tin mừng là hai bạn HOÀNG – DUNG đã tổ chức kỷ niệm 30 năm thành hôn với sự tham gia đông đảo của các bạn đồng nghiệp và Thầy Cô Phùng Lương Ngọc có đến chung vui với hai anh chị.

Kỷ Yếu Hàng Hải xin chia vui cùng anh chị HOÀNG DUNG và chúc anh chị có nhiều sức khỏe & hạnh phúc bên nhau.

Tin buồn Bà Quả Phụ Đặng Văn Châu

Chúng tôi vô cùng xúc động được tin buồn

Bà Quả Phụ ĐẶNG VĂN CHÂU
Nhũ danh NGUYỄN THỊ TRƯỜNG YÊN

Quy tiên ngày thứ năm 29 tháng 11 năm 2012
tại Grenoble, Pháp Quốc
Hưởng thọ 78 tuổi
Lễ di quan và hỏa táng vào ngày thứ sáu 7 tháng 12 năm 2012

Chúng tôi xin thành kính chia buồn cùng tang quyến và
Nguyện cầu linh hồn Bà NGUYỄN THỊ TRƯỜNG YÊN
Sớm an hưởng miền Tây Phương Cực Lạc

Kỷ Yếu Hàng Hải

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

ships-wheel-2154587_960_720

NIÊN TRƯỞNG NGUYỄN NGỌC KIẾN

My father, Mr. Nguyễn Ngọc Kiến, graduated from Collège Technique in 1943,

was one of the two first Vietnamese officer who were promoted to be

the Second Captain of the French ships belonged to Denis Freres company

in 1952. I am very proud of you Dad !

Quan Pierre Nguyen

Kỷ Yếu Hàng Hải cảm ơn anh Quan nhiều lắm.