Nghe lại bản gốc tuyệt đẹp ‘La Paloma’: Ca khúc vượt qua cả ‘Yesterday’ về kỷ lục thu âm mọi thời đại

Hà Phương Linh

Vào năm 492 trước Công Nguyên, linh hồn của những người thủy thủ ra đi trên một chiến hạm bị đắm trong cơn bão đã hóa thành những chú chim bồ câu bay vào đất liền để báo tin cho người thân, trao gửi những yêu thương cuối cùng… 

Đó là lý do mà bồ câu từ đó đã trở thành biểu tượng của hòa bình và yêu thương. Sự xúc động mãnh liệt từ câu chuyện này đã đem đến một kiệt tác âm nhạc cho nhân loại, một ca khúc dù đã 156 tuổi nhưng chưa hề già đi ở bất cứ góc phố nào trên thế giới: La Paloma.
La Paloma của Andre Rieu cùng dàn nhạc của ông cho đến nay vẫn là một bản La Paloma xuất sắc nhất mọi thời đại

Câu chuyện về những người thủy thủ ra đi vĩnh viễn không trở về.

Ca khúc La Paloma (tên Việt: “Cánh buồm xa xưa”) bắt nguồn từ câu chuyện xưa về cuộc xâm lược xứ Hy Lạp của vua Darius I nước Ba Tư vào năm 492 trước Công nguyên, thời điểm mà chim bồ câu còn chưa được biết đến ở châu Âu. 

Lúc đó, hạm đội Ba Tư do đại tướng Mardonius chỉ huy đã gặp phải một trận bão ngoài khơi đỉnh Athos, nhiều thuyền chiến Ba Tư đã bị đắm trong trận bão này.

Nhiều thuyền chiến Ba Tư đã bị đắm trong trận bão này. (Ảnh minh họa: pixabay.com)

Người Hy Lạp đã nhìn thấy nhiều chú chim bồ câu bay ra khỏi các xác tàu Ba Tư bị đắm, bay qua biển mênh mông. Người ta đặt câu hỏi những chú chim bồ câu trắng này phải chăng là linh hồn của những thủy thủ hóa thân?

Hay những chú chim này mang về đất liền những thông điệp tình yêu cuối cùng của những thủy thủ đã bỏ mình giữa biển cả cho cha mẹ, vợ, con, người yêu?

Mối liên hệ cuối cùng của tình yêu vượt qua cả cái chết và sự chia ly đã được cất lên trong bài “Cánh buồm xa xưa” (bản thân cái tên tiếng Tây Ban Nha “La paloma” có nghĩa là “chim bồ câu”).

Trong khi lời bài hát ở các phiên bản ngoại ngữ có thể không đúng so với nguyên bản, tinh thần đó của bài hát vẫn được bảo tồn sau nhiều lần thu âm, dù dưới dạng nào và bài hát vẫn thể hiện được cao trào của sự chia ly với và đoàn tụ, cái chết và tình yêu vĩnh cửu. (Paloma như một biểu tượng vĩnh cửu về tình yêu vượt qua cái chết)

Bồ câu trắng của hòa bình và tình yêu.

Từ câu chuyện xa xưa đó, chim bồ câu và ca khúc Paloma đã trở thành biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu và ước vọng hòa bình.

Trong các cuộc chiến tranh, chim bồ câu còn được huấn luyện để đưa thư, và có rất nhiều những bức thư tình mà những chú chim bồ câu đã giúp kết nối giữa người ở nhà và người ra chiến trận, những bức thư thông báo kết thúc chiến tranh.

Chính trên bến cảng La Habana, nhạc sĩ người Tây Ban Nha Sebastian Iradier từ cảm hứng của câu chuyện xưa và đàn bồ câu trắng đã sáng tác nên kiệt tác bất hủ này, khi ông đến thăm Cuba vào năm 1861 và bài hát ra đời khoảng vào năm 1863.

Ảnh hưởng của thể loại nhạc Habanera, một kiểu nhạc dance rất phổ biến ở Cuba trong thế kỉ 19 thường đã tạo nên những giai điệu rất khác biệt cho La Paloma, và dù được dịch ra ở thứ tiếng nào, và chơi bằng loại nhạc cụ nào đi nữa thì ai đều cũng có thể cảm nhận được khát khao về tình yêu và hòa bình được truyền tải trong bài hát này.

Chính trên bến cảng La Havana, người nhạc sĩ đã viết nên ca khúc này (Ảnh: pixabay.com)

Khi lời hát du dương cất lên, người ta có cảm giác trái tim như tan chảy…

Một ca khúc trở thành dân ca…

La Paloma được chuyển thể cho rất nhiều phiên bản và nhạc cụ và phổ biến đến mức ở một số nước như Mexico, Tây Ban Nha, Philippines, Đức, Romani…bài hát đã trở thành một dạng nhạc dân ca. Đây là một trong những bài hát được dịch ra nhiều thứ tiếng và có nhiều phiên bản nhất.

Tiếng đàn Guitar Hawaii của Phạm Mạnh Đạt đã khiến người nghe không thể quên giai điệu của La Paloma:

Số lượng thu âm của bài hát này thậm chí còn được cho là nhiều hơn cả bài Yesterday mà sách kỉ lục Guiness công nhận là bài hát có số lượng thu âm kỉ lục nhất mọi thời đại.

Ca khúc này được Elvis Presley thể hiện bằng tiếng Anh với tựa đề “No More” về một ước vọng tình yêu thật dịu dàng êm ái.

Ở Việt Nam, mấy mươi năm về trước, Từ Vũ và Phạm Duy viết lời Việt cho La Paloma và đặt tựa đề là “Cánh Buồm Xa Xưa”.

Dalena, ca sĩ người Mỹ xinh đẹp nhưng hát tiếng Việt chuẩn xác, ngọt ngào, cao vút.

La Paloma của bản gốc tiếng Tây Ban Nha, với chất giọng như nhạc, như nước, như suối chảy của Julio Iglesias, ca sĩ có đĩa bán chạy nhất trong lịch sử trong thể nhạc Latin và cũng là một trong những ca sĩ có đĩa bán nhiều nhất thế giới:

Thuyền ai đang lênh đênh vượt sóng biếc cho tan vơi cơn sầu
Ai đang đắm đuối trên lưng muôn con sóng xanh bạc đầu
Biệt ly sao chua cay làm mắt ướt tóc xanh nay phai màu
Nhớ mãi, nhớ mãi môi em cười khi bến xa con tàu…

Quả thật, kỷ niệm đẹp có thể không phải vì nó vui hay buồn, mà vĩnh viễn không bao giờ trở lại với chúng ta nữa… Hãy vững bước vượt lên mọi nghịch cảnh để mỉm cười.

Hà Phương Linh

Source: https://www.dkn.tv/nghe-thuat/nghe-lai-ban-goc-tuyet-dep-ca-khuc-ngot-ngao-nao-vuot-qua-ca-yesterday-cua-the-beatles-ve-ky-luc-thu-am-moi-thoi-dai.html

Chuyến Hải Hành không tên đi Nha Trang

Chí Hợi

Hè 2008  –  Melbourne – Úc Đại Lợi

Lời mở đầu : Kể từ đầu năm 1975, nhiều biến đổi xáo trộn đột ngột và nhanh chóng về Quân Sự và Chính Trị đã đem đến cho miền Nam nhiều điều không thuận lợi. Mỹ và Đồng Minh đã rút hết khỏi VN từ lâu, để lại một lỗ hổng to lớn trên chiến trường mà QLVNCH phải đảm nhiệm, đồng thời với sự sút giảm viện trợ quân dụng, đạn dựơc, quân ta phải chiến đấu trong tình trạng rất thiếu thốn, ngay cả thuốc men, bông băng, nứơc biển, huyết thanh tại các Quân Y Viện cũng phải dè sẻn, không đủ dùng. Trong khi đó CSBV đựơc sự trợ giúp tối đa về quân sự của khối CS Nga và Tầu, đã tung ra nhiều trận địa chiến lớn với đại pháo và thiết giáp hạng năng. Quân ta phải đơn phương chống trả mãnh liệt, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Một phần nữa, các báo chí đã vi phạm luật thông tin báo chí, những tên phóng viên VC nằm vùng hay thân Cộng tung ra những bản tin không có lợi cho Quân ta, làm cho nhiều người dân hoang mang, lo sợ, không còn biết tin tưởng ở đâu. Giới nhà giầu có đi rút tiền ở nhà băng và đi mua dollar hay vàng lá. Giới hiểu biết nhiều về tình hình chính trị lo thu xếp công việc, nhà cửa chuẩn bị di tản sớm ra ngoại quốc. Giới nghèo và kém hiểu biết hoang mang, ngơ ngác không biết hành động ra sao ?

Tuy nhiên, tình hình tại Saigon vẫn an ninh, trật tự, không có hỗn lọan hay cướp bóc xẩy ra, viêc buôn bán, làm việc, đi lại đều bình thường. Người tinh mắt quan sát nhận thấy có một điều gì bí ẩn tiềm tàng khác thường trong cuộc sống của cư dân Sài Thành, khó ai có thể tiên đoán tương lai đất nước sẽ đi về đâu ?

Các tin tức chiến sự từ miền Trung, việc thất thủ từng giai đoạn các phần đất miền Tây Cao Nguyên, dinh Độc Lập bị ném bom, nhà báo đột lốt đóng tuồng đi ăn mày. Tên ký gỉa Phạm xuân Ẩn được Mỹ thuê làm việc, đi hàng hai, ban đêm tung tin tình báo thâu lượm đựơc trong ngày bá cáo hết cho bọn VC nên Hànội biết rõ các chi tiết hành quân của ta. Các giới trong chính quyền tố cáo lẫn nhau về tham nhũng, và càng ngày càng làm cho tình hình Saigon nóng bỏng, hỗn loạn như dầu sôi trong chảo, thế tất đặng chẳng đừng thì kéo đến sự sụp đổ của miền Nam.

Nhưng than ôi ! Tổng thống Nguyễn văn Thiệu yêu nước thật chân tình, cho dù Ông ta có cố gắng hết sức lực đến đâu đi nữa cũng không thể nào làm gì hơn đựơc, vì định mệnh của VN, một nước nhược tiểu đã được cường quốc đặt lên bàn cờ chính trị làm quân « chốt thí », đưa đẩy con chốt đó đi qua phải hay qua trái, tiến hay lùi, ăn hay thua trong bàn cờ là do bàn tay lông lá của ngoại bang mà thôi !

Mời quý vị đọc thiên hồi ký, tả lại một mảnh nhỏ của cuộc đời qua lăng kính, trong hàng trăm, hàng ngàn mảnh nhỏ khác của cuộc hỗn loạn binh đao đã xẩy ra trên đất nước này hơn ba mươi năm qua mà tôi đã được chứng kiến qua nhãn quan. Người viết xin được tả lại chân thật, không bịa đặt, khoác lác hay phóng đại ra thêm.

M/V Đông Hải cặp cầu Nguyễn Huệ Sài Gòn. Cặp phía bên ngoài là tàu Phú Sĩ, sau ngày 30/4/1975 bị đổi thành Sông Bé 12

Nhận tầu , chuẩn bị chuyến đi

Tôi đi làm Thuyền Phó cho commandant Nguyễn Đình Khôi của chiếc M/V (Motor/ Vessel ) Đồng Nai đuợc khoảng năm, sáu chuyến công tác thì phải trả lại chỗ cho anh Nguyễn Hữu Lễ (cựu Thuyền Phó) để anh này ở bờ một thời gian và đã làm xong thủ tục gia hạn « hoãn dịch », hợp thức hóa cho việc đi làm tầu biển.

Buồn vời vợi vì « nồi cơm nuôi gia đình đang bị bể », nhưng trong lòng vẫn vui vì tôi đã giữ trọn lời hứa trước khi xuống chiếc Đồng Nai làm việc. Lái xe chạy quanh văn phòng các hãng tầu cũ, hỏi xem có chổ trống (vacancy) để xin việc làm. Đi dò la thì được biết có chiếc tầu « Đông Hải » đang bị « cột » ( không đựơc phép chạy ) tại kho thương cảng Khánh Hội và đang được rục rịch, sửa sọan tách bến chạy công tác.

Tầu Đông Hải bị thủy thủ đoàn đình công không cho tháo dây chạy, lý do ông chủ tầu đang bị vỡ nợ ( bankruptcy ), không đủ tiền trả cho thủy thủ đoàn nhiều tháng lương. Để đươc tiếp tục chạy, chủ tầu phải thanh toán hết số tiền nợ cho mọi người.

Tôi mò mẫm chạy vào bên trong kho thương cảng thì được người thủy thủ canh gác tầu kể chuyện như vậy. Mừng rỡ, chạy lại văn phòng hãng, tìm gặp chủ tầu là ông Trần văn Tòng, ông này biết tôi nhiều, vì tôi đã từng làm nhiều tầu cho ông Hồ văn Tư như tầu Anh Tuấn và Nam Việt, một nghiệp chủ và cũng là một bạn thân cùng chung vốn làm ăn với ông Tòng. Ông chấp nhận ngay cho tôi làm Thuyền Trưởng và nói rõ là đang có người muốn thuê tầu chạy miền Trung ; trong một thời gian ngắn nhất, tầu sẽ tách bến.

Một trở ngại rất lớn mà tôi phải giúp chủ tầu giải quyết về vấn đề trả lương cho thuỷ thủ đoàn để tầu có thể tách bến, chấm dứt cuộc đình công. Tiền không có, tôi phải khuyến dụ thũy thủ đoàn đồng ý chấp nhận cho chủ tầu mắc nợ các khỏan lương cũ, đồng thời xin đòi « chủ mới đi thuê tầu » phải trả ứng trước một tháng lương cho mọi người lúc tầu khởi hành sắp tới, và đến khi tầu xong chuyến công tác, chủ tầu nhận đựơc tiền thuê sẽ thanh toán ngay lương cũ cho mọi ngừơi. Tất cả đều thông cảm tình trạng « lỗ nợ » của chủ tầu và đồng ý chấp nhận các điều kiện nêu ra.

Một thủy thủ đoàn mới được tuyển thêm cộng thêm một số cũ đã làm đầy đủ thành viên để tầu có trọn cấp số nhân lực theo luật định và có thể ra khơi đựơc. Ông Xếp Máy Đốt, Máy Nhì Hoàng Trọng Tý tự là « Tý Bồ Cào » và các thợ máy khác (oiler ) đã phải bỏ nhiều công sức, tu bổ lại, cho thêm dầu mỡ, lau chùi kỹ lưỡng toàn bộ máy chánh, máy phát điện và các động cơ phụ khác vì con tầu này đã bị bỏ hoang phế trên boong cũng như máy, không người trông coi hơn nửa năm trời.

Được biết người thuê tầu là bà « Công Tằng Tôn Nữ Từ Uyển », ý định của chuyến đi này là đến Đànẵng để chở về triệt thối một số hàng quí giá của các thương gia giầu có và một ít xe du lịch kiểu mới đắt tiền. Hãng Vishipco Lines của ông Trần Đình Trường đã chở về được một vài chuyến tầu như vậy nên có người bắt chước làm theo trục lợi. Đã có sự dàn xếp trước, tôi chỉ có tiếp xúc trực tiếp với người thuê mà thôi, tức là bà Uyển, ông Tòng không còn liên hệ gì nữa và người thuê phải ứng ra tiền mua dầu, giải quyết thỏa mãn về tiền bạc cũng như lương bổng.

Theo sự yêu cầu của thủy thủ đoàn, tôi xin bà Uyển ứng trứơc tiền một tháng lương cho mọi người. Được gặp bà trong lúc đang có mặt trên tầu, bà Uyển nhăn nhó mặt, đưa ra một quyển tập giấy viết học trò, trong đó ở giữa từng trang một có ghim các tấm vàng lá dát thật mỏng như tờ giấy quyến pelure đánh máy, nhìn xuyên qua có thể trông suốt đựơc ( loại vàng này thuộc loại rất cổ xưa, tôi chưa từng bao giờ thấy, mà chỉ có thấy các khối vàng lá hình chữ nhật hiệu Kim Thành mà thôi ) và nói :

– Ông Thuyền Trưởng ơi ! Đây là vàng xưa của nhà tôi, bây giờ tôi phải đem đi ra cầm bán để lấy tiền mua dầu, ông thông cảm hộ, tôi cũng kẹt quá !.

Tôi bèn trả lời ngay :

– Bà mà kẹt tiền thì cả tầu này ai ai cũng đều kẹt tiền cả ! Tôi làm sao ăn nói với thủy thủ đoàn để họ đồng ý chạy tầu đây ?

Nói xong, bà liền năn nỉ xin cho xuất trước tiền mua đồ ăn, lương thực đem theo chuyến này, còn tiền lương ứng trước xin cho trả một ít thôi để họ mang về nhà cho vợ con lúc ra đi. Tôi đứng giữa trung gian không có quyền hành gì cả mà phải chờ sự đồng ý chấp thuận của đại đa số nhân viên trên tầu. Hai bên cù cưa bàn tính qua lại, rốt cuộc đồng ý theo lời yêu cầu của bà Uyển, mọi ngừơi tự nghĩ rằng có được đồng nào trong tay trước thì nắm lấy còn hơn không có gì. Tầu chuẩn bị khởi hành. Thuyền Phó là anh Hoàng Minh, thiếu « dịch » tức SQ đệ tam, tầu phải đi « thiếu » người ( tức manquant Officier en troisième ), SQ Radio có anh Trần Hồng. Tất cả đều quen biết nhau thân thiết từ lâu vì cùng làm một nghề tầu buôn, nên toàn tầu từ trên xuống dưới đều hợp tác làm việc chung với nhau vui vẻ.

Chiếc Đông Hải đang được cột bất khiển dụng tại chốn tận cùng ở kho phế thải của thương cảng Khánh Hội, nay được rục rịch chuẩn bị máy móc, sẵn sàng. Tầu phải di chuyển qua bến Nguyễn Huệ để nhận dầu, nước, lương thực, nhân viên đầy đủ.

Lúc này, với cương vị một Thuyền Trưởng, tôi mới cảm thấy, nhận thức một sự lo lắng to lớn tràn ngập cho trách nhiệm an toàn con tầu vì nó quá cũ.

Tôi phải kể công lao nhiều nhất của Xếp Máy Đốt ( quên tên full name rồi ), anh Máy Nhì Hoàng trọng Tý và một số thợ máy khác ( gọi theo từ hàng hải là Oiler ) đã bỏ nhiều công sức đầy thiện chí nhiệt tình ra tu bổ, lau chùi bảo trì lại tất cả dàn máy ở dưới hầm cho được hoàn hảo nên chuyến công tác sắp đi không gặp một trở ngại kỹ thuật nào cả.

Tầu quá già, vỏ tầu sét rỉ từng tảng to lòi ra trông thấy rõ. Suốt nơi hông lườn, từ mũi đến lái, đều không đựơc sơn phết cả hơn nửa năm trời, từng tảng sét to lớn hơn bàn tay và dầy hiện ra rõ rệt. Máy móc lại càng tệ hơn, bỏ phế thải không chạy từ lâu, cũ, yếu, mất công xuất vì vòng kín piston bị hở mà chạy lại ăn tốn nhiều dầu. Tôi lo lắng cho chuyến đi sắp tới, chạy đường trường xa, không biết có sự gì bất trắc xẩy ra hay không ? Nếu chết máy dọc đường là một đại họa. Các Thuyền Trưởng khác đều chê con tầu này, tôi lúc này có thể ví như  » điếc không sợ súng  » hay là  » con nghé mới sinh không sợ con cọp  » và  » dê non hay húc càn… » mà.

Thôi, tôi chấp nhận cả. Giao phó cho định mệnh, miễn là có chữ ký chấp nhận cho phép hợp pháp của sở Hàng Hải để tách bến là tôi an lòng. Tuy nhiên tầu cũng vẫn chưa khởi hành ngay được vì còn nhiều vấn đề tuy có vẻ đơn giản nhưng chưa được giải quyết ổn thỏa, còn phải chờ một thời gian nữa mới xong.

Chuẩn bị và chờ đợi

Một buổi sáng, tôi xuống tầu làm việc. Lúc này con tầu đã có đủ nhân viên để thường trực canh gác, bảo vệ, không còn trong tình trạng hoang phế, hiu quạnh như lúc trước nữa. Con tầu sống động vì có người ra vào, lên xuống, trông nhộn nhịp hẳn lên. Cũng vẫn có khách đi qua lại, trông nom, dòm ngó tò mò  » cô nàng Đông Hải  » đang được cột dây tại bến Nguyễn Huệ, còn có vẻ oai nghi, phong độ lắm để hòa nhịp với cảnh sầm uất  » trên bến, dưới thuyền  » của chốn bến tầu.

Mặt trời lên cao lưng chừng chiếu xuống những tia nắng ấm áp của buổi sớm ban mai vào dịp đầu Xuân ( 3/75 ). Tôi đứng trên cao đài chỉ huy, nhìn qua bên kia bờ sông, từng dẫy mái lá, mái tôn của Thủ Thiêm liền san sát nhau. Lúc này nứơc đang ròng, các trụ nhà sàn bằng xi-măng, bằng cừ tràm lòi ra, cao lều khều nâng đỡ những căn nhà nhỏ bé, đựơc xây cất bằng những vật liệu nhẹ, mỏng và rẻ tiền.

Một vài chiếc xuồng ba lá có gắn máy đuôi tôm hoặc chèo tay chạy qua lại. Quay sang phía tay phải, nhà hàng nổi  » Mỹ Cảnh  » như đang im lìm đóng cửa, các dẫy bàn ghế đựơc xếp lại gọn ghẽ, chất chồng đống lên nhau. Phía bên phải là « bến đò phụ Thủ Thiêm » có tiếng người gọi nhau ơi ới khi người nọ bước lên bờ, tay đang nâng cao chiếc xe đạp và người kia đang vội bước xuống ghe đò. Bến đò chính Thủ Thiêm ở phía tay trái đang được đi qua lại một lượt hai chiếc bắc ( bac ) sơn mầu trắng toát, chở nhiều xe hai bánh đủ loại và đầy khách quá giang. Bên kia sông, hãng đóng tầu CARIC của Pháp vang lên những tiếng búa đóng ầm ầm, mỏ hàn điện bắn văng ra những tia sáng lấp lánh làm chói mắt.

Lòng lo lắng, nghi vấn không biết chuyến hải trình sắp tới như thế nào ??? Ngước nhìn lên trời xanh, từng tảng mây trắng bồng bềnh từ từ trôi hay là đang tan loãng từng mảnh nhỏ trên không trung. Nhìn phía xa xa, bến Thương Cảng kho 5 Khánh Hội, một vài chiếc tầu ngoại quốc to lớn thuộc loại Viễn Dương đang nhả lên trời xanh những cụm khói đen xịt, làm ô uế cả một góc trời. Quay nhìn sang phía trái, xa xa thấy dẫy nhà lầu tường vàng của Hạm Đội và Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc, vài ba chiếc chiến hạm sơn mầu xám nhạt bất khiển dụng đang được sửa chữa, cột thành hàng dài cho đến tận cùng cuối Sở Hàng Hà bên Thị Nghè.

Quay lại nhìn phía mũi trước, con tầu vẫn ngoan ngoãn nằm im lìm cạnh cầu. Các sợi dây đõi cột yên lặng, đôi khi hơi lắc lư với nhịp tầu dạt ra, dạt vào thành cầu theo các đợt sóng nhỏ. Chiếc cầu thang coupée đặt từ đất lên hông tầu kẽo kà, kẽo kẹt, phát ra những âm thanh do sự ma sát nghe như tiếng võng đu đưa êm tai. Máy treuil, máy kéo neo sét rỉ trơ gan cùng tuế nguyệt đang nằm im lìm ở trên phía trước, được che đậy bởi các tấm bố bạt ( bache ) rách nát, vá víu chắp nối nhiều chỗ, trông như chiếc áo rách của kẻ ăn mày .

Tấm bố to lớn che đậy miệng hầm ( cargo hatch ) cũng chung một số phận, từng ô vuông lớn hơn gang bàn tay cũng đựơc vá chắp nối với các mầu xanh, vàng, đen khác nhau giống như technicolor phủ bằng phẳng trên mặt tầu. Lòng hoang mang, bối rối muốn tìm một việc gì làm. Quay vào bên trong đài chỉ huy, một làn không khí nóng bức bao trùm lấy tôi vì lúc đó đã gần trưa và xung quanh phòng, các cửa kính đều kéo lên cao kín hết. Tiến lại bàn giám lộ, hai tay kéo hộc ngăn tủ trên cùng, một tấm hải đồ của chuyến hải trình trước còn để nguyên y như cũ lộ ra. Nét viết chì ghi định vị trí con tầu chưa được tẩy xóa. Cúi xuống tìm cục gôm để tẩy xóa, tôi chà tới, chà lui cho thật nhẹ tay vì tấm hải đồ đã quá cũ, có nhiều chỗ như muốn bị lủng, mòn nát khắp các nơi.

Bất chợt tìm được một khung kính ảnh nhỏ cỡ gang bàn tay, lòng mừng không xiết như bắt được vàng thỏi. Đó là tấm bảng biểu đồ độ sai la bàn từ (Table de Déviations), không có vật quý này, tôi rất khó hải hành an toàn cho con tầu được. Trong khung kính có ghi rõ hai đường SIN đánh dấu hai mầu xanh, đỏ khác nhau. Đó là hai đường Déviations của hai la bàn chính ( compas étalon ) ở trên nóc đài chỉ huy và la bàn tại phòng lái. Mở tiếp các hộc tủ khác, kiểm kê lại các bản đồ, thấy cũng còn đầy đủ, mặc dầu đều cũ và rách nát. Đồng hồ Chronomètre và Sextant biến mất đâu, không tìm thấy, có lẽ đã bị mất cắp hay là chủ tầu cất giữ, tôi không rõ, để xin hỏi lại chủ tầu sau. Kiểm soát lại la-bàn từ, tất cả còn trong tình trạng tốt, đựơc bao che bởi một tấm bao bố trắng, phủ kín cẩn thận, ràng buộc bởi các sợi dây thừng nhỏ như chưa có người táy máy, sờ mó làm hư hại.

Một  » cái bánh xe quay nước mía  » to lớn đặt sau la bàn, đó là tay lái chính của con tầu, tay lái điều khiển bằng rỏ rẻ (poulie ) kéo dây cáp nên to lớn bằng gần một sãi tay, cỡ đừơng kính 1m50. Tôi mừng thầm, tay lái này không bao gìơ hư hỏng vì chẳng có dùng một tí gì về thủy động lực ( hydrolique ) hay là điện, duy chỉ trừ khi bị đứt dây cáp mà thôi. Tuy nhiên phải quay nhiều vòng để bánh lái quay 5 -10 độ và hơi nặng nề cho thủy thủ lái. Máy do áp lực không khí ( Baromètre ) và nhiệt kế (Thermometre ) vẫn yên lặng làm việc đúng, không hư hỏng. Mỗi khi  » bánh xe nứơc mía  » ( tay lái ) được quay, nó phát ra những tiếng  » kẹt…kẹt…kẹt ….. » nghe rất êm tai, chứng tỏ nó đang làm việc tốt, …như thì thầm :  » Ông Quan Tầu ơi ! Cứ yên tâm, tôi đang làm tốt đây, yên chí đi, đừng có lo ……. ». Yên tâm, tôi tự nhủ đây là giang sơn tung hoành, đất dụng võ của tôi, nơi mà tôi phải vận dụng tất cả tài năng và kinh nghiệm để dắt đưa con tầu đi và về  » Xuất Nhập Bình An  » đến bến.

Không khí bứt rứt, nóng nực vì lúc ấy mặt trời đã trên đỉnh đầu. Tay sờ lên trần sơn trắng thấp tè tè của đài chỉ huy, cảm thấy nóng bỏng. Chiếc đồng hồ vỏ đồng đánh bóng treo ở tường, chết đứng từ bao giờ, tôi quay lại tìm chiếc chìa khóa máng ờ phía sau từ từ, nhè nhẹ, chậm chạp quay từng vòng lên giây, khai sinh lại cho nó họat động. Nhìn đồng hồ đeo tay, kim chỉ đúng 12 giờ.

Nhìn mũi tầu một lần nữa trước khi rời đài chỉ huy, thấy cửa kho hầm vận chuyển mở toang. Nhưng chợt nhớ có lần tôi đã vào bên trong quan sát, chẳng còn gì quí giá để bị ăn cắp cả, chỉ còn trơ lại vài đoạn xích rỉ sét, vài cuộn dây đỏi cột tầu cũ rích chất đống mà thôi. Sơn, cọ quét, dụng cụ chữa hỏa không còn một cái gì nữa.

Đi về phía lái, nơi có người thủy thủ gác, đang nằm võng đu đưa, miệng ca câu vọng cổ cải lương thật mùi mẫn. Đến gần, anh thủy thủ ngồi nhỏm dậy, tôi lớn tiếng :

– Tôi về nhà ăn cơm trưa, chiều không trở về tầu. Nếu có gì quan trọng, anh cho ngừơi chạy Honda lại nhà báo cho tôi hay nghe !

Anh thủy thủ đáp lại :

– Quan tầu cứ yên trí về nhà đi ! Tầu này còn lâu mới chạy, chỉ khi nào trả đủ tiền cho chúng tôi, tầu mới  » mở đỏi chạy được « .

Nhoẻn miệng cười, tôi giơ cao tay chào và bước xuống cầu thang.

Lù lù từ phía đường lớn, chạy thẳng vào cầu thang, một chiếc xe nhà đẹp lộng lẫy, kiểu mới đậu thắng ngay trứơc mặt tôi. Tài xế xuống xe, mở cửa sau phía tay phải để một ngưòi đàn bà gọn gàng và duyên dáng trong chiếc áo dài bứơc ra. Đó là bà Uyển, người vừa ký hợp đồng thuê mướn chiếc tầu vời ông Tòng, chủ tầu, để chạy một chuyến SG/ Đànẵng / SG.

Tay dỡ cặp mắt kiếng râm xuống, bà Uyển chợt kêu :

– Kìa Quan tầu !……

Tôi vội đáp ngay :

– Chào bà chủ, chắc có tin mừng, tầu sắp chạy rồi phải không ?

Bà trả lời với giọng Huế rặt, giọng ấm, khoan thai dịu dàng của các cô gái lá ngọc cành vàng đài các, « danh gia vọng tộc » bên trong thành nội, nghe nhè nhẹ thật êm tai :

– Còn vài bữa nữa mới được, chờ tôi liên lạc đựơc với Đànẵng xong xuôi đâu đó, tầu sẽ chạy liền ….

Tại phía xe, nơi cửa trước bên phải, một người đàn ông đầu chải tóc, trên mình mặc chiếc áo tràng dài mầu nâu xậm, đi vòng phía sau, tiến đến gần bà Uyển. Tôi đoán đây cũng là một nhân vật quan trọng trong phía chủ thuê, và vội cúi đầu chào xã giao. Ông kia cũng đáp lễ lại. Bà Uyển nhanh nhẹn lên tiếng giới thiệu :

– Đây là Thầy Cúng, tôi thỉnh thầy tới đây làm  » Lễ Cầu An  » cho chuyến đi sắp tới. Cầu mong  » Trời Phật Gia Độ  » bình an cho công việc làm ăn cho chuyến đi sắp tới.

Người thủy thủ gác đang nằm võng, chợt im bặt nghêu ngao tiếng ca cải lương, ngồi nhỏm dậy, tò mò xuống khỏi tầu, chạy lại phía tôi để nghe ngóng chuyện. Anh tài xế mở cốp sau xe, bà Uyển nói ngay :

– Thuyền Trưởng cho ai mang lên tầu các đồ cúng này dùm tôi.

Sẵn ngừơi thủy thủ gác đúng bên cạnh, anh nhanh nhẩu lại phía sau xe, vác lên vai một con heo sữa nhỏ còn nóng hổi đựng trên một cái mâm gỗ sơn đỏ. Phần còn lại là hoa, quả, nhang, đèn nến, giấy cúng, tiền âm phủ đựng trong hai giỏ ny-lông lớn được anh tài xế xách theo sau.

Tôi nhường bước cho bà Uyển theo sau người thủy thủ vác con heo sữa và anh tài xế. Tiếp theo bà là thầy cúng, tay thầy có cầm một chai rựơu đựơc bọc bên ngòai lớp giấy mầu đỏ in hình hoa hồng. Sau này tôi biết đó là chai rượu sâm banh chính hiệu Made in France . Tôi lên cầu thang cuối cùng, tất cả mọi người đi dần về phía mũi tầu, nơi đây sẽ xấp đặt lễ cúng cầu an.

Anh thủy thủ nhanh nhẹn, vui mừng như sắp được ăn một bữa cỗ, vội vàng vác mâm gỗ đặt ngay lên boong, trên ổ máy kéo neo. Hoa quả, bánh trái, vàng giấy, tiền âm phủ đựơc đặt xung quanh. Hiểu ý như cuộc lễ sắp bắt đầu, một anh chạy lại phía kho mũi tìm kiếm một cái xô sắt múc nước, sẵn sàng để đốt hàng mã và tiền giấy.

Riêng tôi là người Công giáo, cũng đã chứng kiến nhiều lần lễ cầu an của từng chuyến hải hành do chủ tầu đề xướng. Đạo Công giáo cũng có quan niệm cầu khẩn các đẳng linh hồn mồ côi phù hộ cầu bầu cho các người còn sống trên dương trần được thoát khỏi các hiểm nghèo, tai ương trong cuộc sống. Phần tâm linh, quan niệm ý nghĩa có điểm giống nhau, nhưng hình thức nghi lễ có đôi chút bất đồng. Tất cả đều có ý nghĩa thiêng liêng đáng tôn trọng nên tôi cũng nghiêm trang, chắp tay xá lạy như tất cả mọi người.

Thầy cúng tay cầm chuông nhỏ gõ coong coong xen lẫn tiếng tụng niệm. Khói hương nghi ngút, dầy đặc tỏa lên không gian. Tiếp theo là tiếng gõ mõ cóc cóc nghe thật đều đặn, nhịp nhàng thầy đứng lên qùy xuống, khấn vái nhiều lần. Lễ xong, tiếp đến việc đốt vàng, giấy. Cơn gió lộng thổi từ phía bờ bên kia qua, làm tro tàn quyện với khói nhang bay cao, lung tung tản mát lên không gian. Thầm cầu mong cho chuyến hải hành sắp tới đựơc  » Xuất Nhập Bình An « , đó là ý nguyện thâm sâu nhất của tôi, vì tôi rất sợ các tai nạn bất trắc có thể xẩy ra lúc nào, một phần nữa rất quan trọng là do tình hình chung sôi bỏng của miền Nam thay đổi luôn từng giờ, từng phút, ảnh hưởng rất nhiều.

Thầy cúng cởi áo tràng và tất cả mọi ngừơi theo thầy đi xuống, rời khỏi mũi tầu đi về hướng chân cầu thang. Tại đây, thầy xé giấy bọc đỏ của chai rựơu xâm-banh, đưa cho bà Uyển và nói :

– Đây là phần Bà, Bà sẽ đập chai rựơu này vào mũi tầu để cầu hên, bọt của chai rựơu này hòa cùng bọt của sóng biển, sẽ đưa con tầu đi và về bến BÌNH AN.

Tôi vội ngoác tay, ra hiệu cho ngừơi thủy thủ trực lấy ở kho mũi sợi dây liệng mồi ( dây lance amare ) để bà Uyển làm lễ HẠ THỦY cho chuyến tới.

Nhanh nhẹn, một sợi dây nhỏ đựơc liệng từ mũi tầu lên bờ, thầy cúng vội chạy lại phía trước, bắt ngay sơi dây và cột vào cổ chai rựơu. Thầy cầm chai rựơu, đưa cao lên trán, lâm râm đọc ít câu tụng niệm, rồi sau đó đưa chuyền qua cho bà Uyển, thầy nói :

– Bà giơ lên cao, lấy trớn rồi liệng chai rựơu này đúng chỗ mũi tầu, nếu trúng cái neo thì càng tốt.

Bà Uyển giơ cao tay, lấy trớn, dùng hết sức mạnh liệng, chai rựơu va vào neo tầu. Một tiếng « boooaaang » ngắn, chát chúa vang lên, chai rượu bể tung, tan nát, bọt rượu trắng xóa bám lên mỏ neo, các mảng vụn chai bắn ra xa, rơi tỏm xuống nước. Chỉ còn lại riêng cái đầu cổ chai cùng với cái nút và giấy bạc mầu trắng bao bọc còn đeo tòng teng, lủng lẳng, lắc qua lắc lại nơi mũi tầu. Tất cả mọi người xung quanh vỗ tay hoan hô. Bà Uyển và thầy cúng cùng nhau nhoẻn một nụ cười thông cảm rồi đồng tiến lại phía xe ra về. Tai nghe thầy to tiếng với bà :

– Thánh đã nhận lời rồi đó, chuyến đi này có hậu vận tốt lắm. Bà yên chí đi.

Tiễn xong bà chủ, xe khuất bóng, tôi quay về tầu ngoắc gọi người thủy thủ gác :

– Đợi một chút xíu cho tàn hết nhang, chờ cho các cô hồn ăn xong đồ cúng, tôi giao lại hết cho anh, gọi tất cả các người khác trong tầu lại làm một bữa cho vui, rồi chuẩn bị ít hôm nữa ra khơi !

Anh thủy thủ cám ơn rối rít, tỏ ý hơi hối tiếc chai rựơu xâm-banh kia bị bể tan tành, không để cho ăn nhậu. Anh còn khẩn khoản mời ở lại nhậu chung, nhưng tôi từ chối và nói phải về nhà ngay vì đã quá trưa rồi.

Thầm nghĩ chắc giờ này, vợ con đang chờ ăn trưa bên mâm cơm đã nguội ngắt vì về nhà quá trễ. Tôi luôn nghĩ bữa cơm bên gia đình bao giờ cũng quí hóa, hiếm có mặc cho dù đạm bạc rau dưa. Thời gian ở bờ quá ngắn và ít so với thời gian đi biển, cho nên tôi phải tận hưởng những giây phút vàng son, êm đềm thật thân thương đó.

Hôm sau, một chiếc xe camion-citerne (loại xe bồn chở dầu ) chạy lại cầu tầu, bơm dầu đầy đủ cho chuyến tới. Chiếc xà-lan chở nước cũng lại cặp, bơm chuyền lên tầu nước chứa tràn ngập các ballasts. Tiền được giao ứng trước một số nhỏ cho thủy thủ đem về nhà cho vợ con cũng được cấp phát, nhà bếp nhận đủ tiền đi chợ mua thức ăn, lương thực khô cũng như tươi đầy đủ. Một chiếc xe Lam chở đầy cây nước đá dùng ướp lạnh đồ ăn đang được từ từ chuyển lên kho lương thực vì máy lạnh bị hỏng. Trên boong cũng như máy, tất cả chuẩn bị hoàn hảo, sẵn sàng lên đường.

Lên đường

Lệnh ra từ đài chỉ huy tuần tự theo trứơc sau, các dây đỏi lần lựơt được tháo ra, kéo an toàn về, thân tầu từ từ, nhẹ nhàng , chậm chạp rời xa bến, trở đầu, mũi hướng hạ giòng, trực chỉ thẳng ra cửa biển.

Vài người trên bờ vung khăn tay, giơ cao vẫy vẫy, trong đó tôi thấy có bà Uyển, các người nhà và ông Tòng cũng vẫy theo. Trên mặt hầm tầu được đóng kín bởi các tấm bố, khoang bên trong trống rỗng không hàng, tầu nhẹ nổi tung lên cao sau khi đã đựơc dằn ballasts.

Sau ít giây phút tập trung cao độ của trí óc để vận chuyển con tầu an toàn tách bến, có điều làm tôi bối rối lo lắng nhất là đám ghe bầu gỗ từ lục tỉnh chở gạo lên Saigon vẫn còn đậu xếp hàng bốn, hàng năm quanh tầu tôi. Họ tháo dây, dạt ra chừa lối cho tầu tách bến. Chỉ một sơ hở nhỏ, một va chạm táng nhẹ là đám ghe bầu gỗ kia trở thành ván vụn, trôi nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng, sảng khoái, tâm hồn và thể xác thư thả như bớt được gánh nặng thoát khỏi con người, đồng thời gió tứ phía từ các nơi thổi qua đài chỉ huy làm tôi rất dễ chịu, vui sướng. Tầu từ từ tăng tốc độ theo nhịp nóng đều của máy chánh, bửa sóng tiến nhanh phía trước. Nhìn vào bờ, xe cộ đủ loại chạy xuôi ngựơc như mắc cửi, lại một lần nữa, xin tạm biệt Saigon, tạm biệt mà thôi nhé, hẹn ngày đẹp trời nào đó trở lại.

Lòng tự nhiên lại đâm phân vân, nổi lên một mối lo lắng không an tâm khác thường. Tôi đã từng tách cái bến thân thương này nhiều lần, nhưng lần này quá lạ lùng và thật đặc biệt. Con tầu đã đựơc chuẩn bị chu đáo đầy đủ, máy cũng như boong, không còn gì lo lắng nữa, nhưng cái linh tính khác thừơng đã đến, không giống như các chuyến đi trước. Tình hình chiến sự thay đổi từng giờ, từng ngày. Quân ta quần thảo với địch tranh lại nhau từng tấc đất, thiệt hại hai bên đều nặng nề mà phần  » phi pháo  » yểm trợ bị giảm sút, quân ta chiến đấu trong tình trạng rất chật vật, khó khăn về tiếp liệu. Lệnh rút quân vùng Tây Nguyên làm bao người hoang mang, bối rối.

Phần chính trị cũng xáo trộn không kém, nào hội nghị Ba-Lê bế tắc, Mỹ áp lực TT Thiệu nhiều điều phải chấp thuận rất phi lý mà Ông không đồng ý. Nào thành phần thứ BA, nào da cọp, da beo, xôi đậu, lấn dất dành dân v.v… Lại còn phần ký giả đối lập phá thối, Linh Mục hốt rác tố cáo tham những tùm lum, các nhật báo tung những tin rất bất lợi cho phe ta, làm cho nhiều ngừơi hoang mang. Tại bờ tôi hay mua báo theo dõi tin tức hằng ngày. Tầu tách bến, một chiếc radio transistor loại thật tốt hiệu Zenith mua được ở chợ Cồn (chợ trời), tại Đà-Nẵng có nhiều băng SW bắt đựơc đài xa đem mang theo, lắp piles mới thật mạnh để có thể theo dõi các đài VOA hay BBC.

Tầu vẫn đều đều giang hành chạy ở giữa sông, ra phía của bể Vũng Tầu. Nhân viên lái tầu thuộc loại kỳ cựu, lành nghề lâu năm ( HHTH gọi người lái tầu là Timonier hay là helmsman), họ lái rất điêu luyện, vững chắc trong sông nên Thuyền Trưởng chỉ việc trông chừng, định vị trí lại trên bản đồ, ít khi phải ra lệnh lại để chỉ huy, mặc cho họ lái để tầu ở vị trí giữa sông, chỉ liếc mắt xem chừng mà thôi.

Đi theo lộ trình thường xuyên quá quen thuộc, tầu ra khỏi khu « Rừng Sác », qua Gành Hào, đèn hải đăng Cap St Jacques, ra đến phao hiệu cuối cùng của con lạch (channel ), quẹo trái, đâm lên phía Bắc đi miền Trung. Qua mũi Kỳ Vân, núi TA KOU trông thấy rõ lúc ban ngày và ban đêm trên đỉnh của nó có đài kiểm báo của Mỹ được thắp đèn sáng trưng rất dễ nhận diện, qua Long Hải rồi đến Phan Thiết với ngọn đèn hải đăng  » Kê Gà « , vịnh Phan Rí, Phan Rang v.v… Rồi tiếp đến trông thấy hòn Iles des Pêcheurs là thấy hòn Dung ( Ile Pyramide ) có hình dáng như một tam giác đều cạnh. Ngay lúc đó anh Trần Hồng, SQ Truyền Tin ( giới báo chí vinh danh, tặng anh này tước hiệu là “Lão Tướng Trần Hồng  » vì anh đã tự tay lái xe ủi đất cán xập cánh cổng chánh tòa Đại Sứ VC tại Paris cách đây nhiều năm ) đưa tôi một công điện khẩn mới nhận đựơc, ra lệnh cho cặp bến Cầu Đá, Nha Trang để nhận hàng. Lý do Đà-Nẵng không thể đến được vì đã bị tràn ngập.

Hải trình đựơc đổi để quay vào Nha Trang. Lúc này cũng đã qúa trưa, độ ba giờ chiều của ngày hôm sau khởi hành ( tức là đã đi được khỏang 30 giờ ).

Cầu Đá lộ ra trông rõ và càng lúc càng gần, tôi đặt ống dòm quan sát, tìm cầu trống để gọi điên thoại vô tuyến với bờ xin cặp bến.

Tầu không cặp đựơc vì không có chỗ trống, đã có một chiếc tầu  » Bà « , tầu do Hỏa Xa VN điều hành, không nhớ rõ tên và chiếc tầu dầu M/T ( Motor/Tanker ) Cypréa của hãng Shell VN đang ở bến. Giải pháp thông thường là phải neo, nằm chờ mà thôi.

Tầu neo nhưng không cách xa bến, chỉ độ trăm mét. Một lúc sau, trên cột cờ cao của chiếc Cypréa kéo cờ chữ P ( Partant hay là Papa ), báo hiệu sắp khởi hành tách bến. Mừng rỡ vì sẽ có chỗ trống, tầu có thể vào cặp đựơc. Khi chiếc Cypréa vừa ra khỏi (lúc này anh Bùi Xuân Đàm tức Chuẩn Tướng Đàm làm Thuyền Trưởng ) bất ngờ từ xa có chiếc tầu kéo to lớn, sơn tòan vàng ở phần trên, toàn đen ở dưới lườn đang tiến tới. Trên ống khói có gắn hiệu  » Mặt mọi da đỏ, gắn lông gà ở trên đầu  » của hãng Alaska Barge đang trờ tới.

Đó là chiếc tầu của Mỹ đang kéo còi inh ỏi, đồng thời đánh đèn đòi xin tranh cặp cầu, đằng sau còn kéo thêm một xà-lan chứa đầy ngừơi tỵ nạn. Tôi đành phải nhường để họ vào cặp. Tầu kéo Mỹ cặp chiếc xà-lan, từ từ tắp nhẹ nhàng vào cầu. Khi các dây đỏi cột chặt xong xuôi, tầu kéo liền bỏ xà-lan lại, tách bến, tăng tốc độ thật lẹ, chạy vút ra khơi. Đặt ống nhòm nhìn, trên chiếc xà-lan đầy người. Nào đàn bà, con nít, đàn ông, lính tráng đủ loại đang ngổn ngang, lò bò, trèo leo để vươt thành cao của xà lan lên bờ, vì xung quanh có nhiều bao cát và lưới hàn chống B-40 làm cản trở.

Theo lệ thông thường, tầu đến bến cho dù là tầu đang neo hay cặp cầu, người của hãng Đại Lý tức Shipping Agent phải liên lạc liền với Thuyền Trưởng để làm ngay mọi thủ tục giấy tờ. Tôi đợi mãi mà chẳng thấy gì, vì không có ai để tiếp xúc, sốt ruột, bèn ngoắc chiếc ghe đánh cá nhỏ, thuê bao chở vào bờ. Tại đây, một ngạc nhiên to lớn đập vào mắt tôi. Toán dân tỵ nạn trên xà-lan thật đáng thương tâm. Họ ngổn ngang, lúc nhúc, đông lắm, không đoán được bao nhiêu. Tất cả như muốn lả ra, nằm la liệt trên cầu tầu hay hãy còn một số ở dưới xà-lan, nhăn nhó chịu đựng dưới cái nóng bức của trưa hè, mặt trời chiếu dọi thẳng xuống đỉnh đầu.

Nhận thấy một ông già, mình mặc bộ bà ba trắng nằm ngửa mặt lên trời, con cháu xung quanh, tay lấy nón lá hay dù che cho ông, kẻ la, người khóc. Không biết ông ta sống chết ra sao ? Nhưng không lại gần vì tôi còn lo đi tìm người của Đại Lý.

Một số quân nhân khác rủ nhau vác súng đi nhanh lên bờ, biến mất sau đường dốc cao của Cầu Đá. Một số thanh niên có mang xuống đựơc xe đạp hay xe Honda, vội chạy lái lên bờ, thoát chốc đã biến đi đâu mất hút. Chỉ còn lại một số lớn đàn bà con nít đang bơ vơ, bỡ ngỡ không biết làm gì giữa trời nóng bức. Họ đang khát, đói vì lâu không có gì được ăn hay uống. Quang cảnh hỗn độn nhưng có vẻ trật tự, không có hiện tượng cướp bóc, giựt của xẩy ra. Một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến đi trong một chiếc xe tải quân đội to lớn đến đậu ở dốc đường dẫn xuống Hải Học Viện. Họ xuống xe, tản mát ra nhiều nơi canh giữ trật tự, nhưng không hành động gì.

Đợi mãi không thấy bóng dáng đại diện của hãng Đại Lý ở đâu và lúc này trời cũng về chiều, sắp tối, tôi lo vội tìm ghe trở về tầu.

Cơm chiều xong, như thường lệ, radio được mở để nghe đài BBC, hết chương trình liền đổi tần số sang nghe đài VOA, rồi sau đó nghe tiếp vận đài Saigon hay các đài địa phương, theo dõi tin tức thời sự.

Âm thanh đựơc vặn lớn, mọi ngừơi trong tầu đều lắng nghe chăm chú.Tin tức nhận được không mấy an lòng vì có chiều bất lợi cho phía miền Nam, tin chán rồi nghe nhạc cho đỡ căng thẳng.

Đứng trên cương vị Thuyền Trưởng, tôi có trách nhiệm to lớn cho sự an toàn của con tầu. Học được kinh nghiệm trong HQ, để đề phòng đặc công VC đặt mìn phá chìm tầu. Ban đêm không neo ở bến mà thường hay đi tuần trong vịnh, để sáng hôm sau trở lại cặp bến. Tầu buôn không làm điều này vì thường hay gặp rắc rối đủ điều. Tôi bèn tập họp mọi người, cắt nghĩa cho biết ý định của tôi như vậy trong lúc ở HQ. Cả tầu hân hoan đồng ý vì sự an toàn cho mọi người và con tầu.

Tầu kéo neo, tiến thật chậm, từ từ ra phía  » Hòn Dung  » ( Ile Pyramide ) để chạy ra khơi trong suốt đêm với một tốc độ chậm nhất. Sáng sớm hôm sau, lúc trời chưa sáng tỏ, đã trở về neo lại vị trí cũ.

Chiếc xà-lan đang cặp bến đầy ngừơi hôm qua, nay hoang vắng, trơ trọi, chỉ còn lại ngổn ngang một đống bao cát và lưới kẽm chống B-40. Dân tỵ nạn biến dâu mất, cầu tầu vắng vẻ trong cái mát lạnh, trong sáng của ban mai. Tôi muốn cặp cầu, nhưng xét lại neo có lợi hơn vì lúc gặp khi hữu sự sẽ dễ dàng  » dzông chạy « .

Anh Trần Hồng, SQ Truyền Tin đưa cho công điện từ Saigon cho biết :  » Bà chủ thuê tầu, tức bà Uyển sẽ ra Nha Trang bằng máy bay « , nhưng không cho biết chuyến bay và ngày giờ đến. Phân vân lo ngại, Đại Lý Agent không liên lạc được, tôi chỉ có cách đi tìm đón bà Uyển tại phi trường để lấy chỉ thị và nhận hàng.

Đón ghe bước lên bờ sau khi đã dặn rõ cho tất cả mọi ngừơi đừng đi đâu cả. Có thể tầu sẽ khởi hành ngay lập tức khi tôi trở về.

Vẫy một chiếc xe ôm tại Cầu Đá đi chạy lại ngay phi trường Nha Trang để tìm bà chủ Uyển. Tại phòng chờ đợi của phi trường, một cảnh náo nhiệt, hổn độn bất thường xẩy ra. Hành khách nhao nhao, xô lấn nhau bên cạnh chiếc cửa sắt đã kéo kín, không cho ai ra hay vào. Có ngừơi lớn tiếng la lối phản đối, rồi sau dó văng lời chửi thề tục tiễu. Lý do : một chuyến máy bay về Saigon bị hủy bỏ.

Lúc này Hàng Không VN rất bận rộn vì số hành khách từ miền Trung gia tăng đột ngột quá nhanh nên phải mướn thêm phi cơ của Đài Loan để tăng thêm chuyến bay. Một chiếc phi cơ mướn loại Viscount, chong chóng bán phản lực ( prop jet ) thuê bao, chở không từ Saigon ra Nha Trang đón đầy khách về Saigon. Lúc đáp xuống phi đạo và trở đầu ( taxing ) để vào nhà ga đón khách, phi công không quen phi đạo ngắn và chật của Nha Trang, nên bánh trước phi cơ ( front landing gears ) bị lọt xuống sân cỏ.

Phi công phải vận dụng hết khả năng để đưa chiếc bánh đó trở về sân cứng xi-măng. Lúc qua khỏi được chỗ sân cỏ, Phi công trưởng tuyên bố không an toàn, cần phải kiểm soát lại kỹ lưỡng do chuyên viên kỹ thuật làm nên máy bay chẳng chở ai, không lấy hành khách về Saigon. Báo hại làm cho mấy chục người đang chờ trong niềm hy vọng to lớn bị tan nát, không đi được.

Phi cơ rồ máy phát ra những tiếng ầm ầm, tiến chạy nhanh trên phi đạo rồi cất cánh bay bổng, lao vút trên trời xanh, mất hút trong đám mây trắng.

Kẻ ở lại lo ó, chửi rủa thậm tệ, nhân viên hãng hàng không phải một phen kinh hoảng, sợ sốt vó.

Ngoắc « xe ôm » đi ra Nha Trang, lại hãng đại diện tầu ( Shipping Agent ).Tại đây văn phòng đóng kín cửa, gỏ đập nhiều lần mà không ai trả lời. Chán nản, tôi nói anh lái xe ôm chở cho đi một tua xem tình hình thành phố ra sao ? … Anh này hơi ngần ngại không muốn lái, tôi bèn đưa trứơc một số tiến lớn. Anh vui vẻ chấp nhận, đưa đi mọi nơi trong thành phố.

Thành phố vẫn yên lành, an ninh, tuy nhiên rất vắng vẻ ít xe cộ, trông có vẻ hơi khác thường không như mọi ngày vì có sự hiện diện của nhiều lính tác chiến đủ mọi đơn vị đang lang thang, tay xách súng đi lại trên đường phố. Ghé lại một trường tiểu học ( có lẽ là công lập ) một ít phút quan sát. Anh tài xế xe ôm cho biết một số lính và vợ con họ đang sống ở trong trường, đã từ Quy Nhơn chạy về và vào trú lánh tại đây. Hỏi rõ ra, anh này cũng là lính cùng đon vị trên, hết tiền, chạy xe ôm kiếm ăn, vợ con anh cũng có ở trong đó. Họ chụm đấu nhau hai ba chiếc bàn học sinh làm giường, trên đó ngổn ngang chăn, màn , gối và vài ba đứa nhỏ đang nằm ngủ say sưa. Bên ngoài sân trừơng, các bà đang tìm củi, gom lá dương khô rớt dưới đất về chụm lửa, nấu cơm, khói xanh bay làm cay mắt bay tủa khắp nơi.

Anh xe ôm chở đi một vòng quanh bờ biển. Nước biển vẫn xanh, yên lặng với sóng vỗ nhẹ rì rào. Cố nhìn về hướng Cầu Đá, tìm xem con tầu thân thương của tôi ở đâu, nhưng bị vướng tầm nhìn bởi nhà nghỉ mát của Bảo Đại và Hải HọcViện tại Cầu Đá che khuất, không trông thấy đựơc.

Các quán nước im lìm dưới bóng dừa, đóng cửa kín mít, bàn và ghế xếp lại gọn ghẽ, chất một đống bên nhau. Một vài chiếc xe be làm rừng chở gỗ súc, chỉ có thân bánh sau và đầu máy mà thôi, máy nổ to lớn ầm ầm chạy ngang qua. Tôi ngạc nhiên hỏi anh xe ôm. Anh này cho biết, số xe be làm rừng đó từ Plei Ku và Ban Mê Thuột về, dọc đường bị VC chận lại, khám xét và biết họ đều là dân sự làm rừng nên cho đi nhưng bắt tài xế phải tháo hết các ống bô hãm thanh, để cho máy nổ ầm ầm, to lớn chạy về thành phố làm cho quân ta khiếp sợ. Một đôi chiếc xe be vứt bỏ lại cái rờ-mọc ( remorque, xe móc hậu ) loại có hai bánh đôi gắn chung một trục cầu xe, phía trứơc có một cần gỗ dài to bằng bắp đùi, dùng làm móc gắn vào thân sau xe vận tải để kéo đi khi không có gổ súc để chở. Chiếc rờ-mọc xe be bỏ lăn lóc dọc dài theo bờ biển, gọng chỉa lên trời như khẩu súng phòng không.

Sau này, tôi có dịp đựơc tranh cãi với một SQ phòng nhì KQ/VN khi anh đưa cho coi một số không ảnh chụp sau ngày Nha Trang thất thủ. Cả Phòng Nhì kết luận là súng phòng không của CSBV xâm nhập vào thành phố, tôi xác định, đó là càng gỗ rờ-mọc xe be đuợc vứt bỏ, chổng gọng lên trời, không phải là súng phòng không. Không ảnh thấy hình rất nhỏ và mờ vì máy bay chụp ở cao, không dám bay xuống thấp.

Trở về Cầu Đá lúc trời xâm xẩm tối, được gặp Đại Tá Quân Trấn Trưởng Nha Trang đi đến cùng một vài Cảnh Sát Dã Chiến, ông ra lệnh trưng dụng tầu tôi và không cho phép tách bến. Trong lòng tôi rất bực tức và tự nói nhất quyết không tuân lệnh này.

Tình cờ gặp lại được đứa cháu họ, con của bà chị họ, đang thụ huấn khóa 27 SVSQ/HQ. Lúc này TTHL/HQ Cam Ranh đã di tản vào Nha Trang, mạnh ai nấy chạy tháo thân, một số vào trình diện TTHL/HQ Nha Trang xin tá túc.

Tình thế lộn xộn, phức tạp, SVSQ của Quân Trường Nha Trang và các khóa sinh khác được phân tán từng toán nhỏ canh gác các địa điểm xung quanh quân trường.

Hắn tên Hoàng Gia Lộc, hai cậu cháu nó chuyện, bàn qua lại tình hình. Tất cả đều hoang mang vì không có nguồn tin chính thức nào và lệnh thống nhất của cấp chỉ huy. Nhìn về phía con tầu Đông Hải, các ghe nhỏ đánh cá được một số người thuê, lần lượt từng chuyến chở ra phía tầu tôi, leo đại lên mà không ai có thể ngăn cản được, giống như nước vỡ bờ. Rồi lần lượt một số ghe Hải Thuyền, một số PCF cũng chở nhiều đợt dân tỵ nạn cặp nhào đại vào tầu. Tình trạng càng lúc càng hỗn độn vì số người càng lúc càng gia tăng, trong đó cũng thấy quân nhân đủ binh chủng và một số quân nhân HQ.

Tôi liền đề nghị với cháu Lộc đi di tản theo tầu về Sai Gon. Hắn lưỡng lự, phân vân không biết quyết định ra sao, nhưng cuối cùng hắn nghĩ vì tinh thần kỷ luật còn cao, phải chờ lệnh cấp trên, không dám đơn phương trốn khỏi đơn vị khi không có lệnh. Cuối cùng hắn quyết định ở lại, không theo tầu về Sài Gòn. Từ đó gián đoạn không liên lạc gì với cháu Lộc được. Bẵng đi đến năm 1998, tôi có dịp qua Texas – Houston, gặp đươc lại hắn trong tình cảnh hết sức ngạc nhiên bỡ ngỡ. Bố mẹ hắn cũng không biết hắn thất lạc nơi đâu, nhưng rốt cuộc cũng đoàn tụ tại Mỹ.

Buổi chiều hôm đó, lúc đi xe ôm ngang qua  » nhà thờ Đá Nha Trang « , tôi có ghé vào nhà thờ đọc ít kinh, xin Chúa ban sự bình an cho chuyến về, cầu xin Ơn Trên phù hộ cho tất cả mọi người trong con tầu. Nhà thờ đang làm nghi thức  » Chúa chịu nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh  » (Good Friday). Tôi muốn nán lại ở lâu, nhưng không đựơc vì phải cấp tốc về tầu, trời cũng sắp tối.

Tại Cầu Đá sau khi nói chuyện với cháu Lộc và khuyên nhủ hắn đi theo, nhưng biết hắn nhất định ở lại theo Quân Trường và các khóa sinh khác, tôi chia tay và theo ghe nhỏ trở về tầu, đi Saigon.Về đến tầu đúng lúc đài BBC bắt đầu phát thanh, tin nóng hổi loan ra cho biết Nha Trang đã thất thủ vào tay VC. Mọi ngừơi nghe đều bất mãn vì tin truyền đi đều hòan tòan thất thiệt, chỉ có lợi cho bọn VC. Nha Trang vẫn còn vững, quân ta đang làm chủ, chưa có giao tranh lớn mà đã loan tin sai, gây hoang mang làm lợi cho địch. Tiếp đến hết chương trình, vặn qua đài VOA, các tin nhận đựơc không mấy phấn khởi, ai nấy cũng nản lòng mong cho tầu chóng chạy để thoát thân.

Về bến cũ

Mỗi lúc, tầu nhận thêm từng loạt dân tỵ nạn do các ghe nhỏ đánh cá bao thuê chở ra. Đồng thời HQ cũng làm như vậy, một số quân nhân và gia đình tới tấp cặp vào bên hông tầu. Tôi nghĩ đây cũng là dịp tốt để cứu giúp đồng bào ta, tầu nán đợi thêm ít lâu nữa để nhận thêm người. Đến nửa đêm, số lượng ước tính khỏang 1000 ngừơi, chật hết cả boong tầu, cảm thấy không an toàn nữa nếu lấy thêm người, nên lệnh kéo neo khởi hành được ban ra.

Một vài chiếc tầu nhỏ HQ cố chạy đuổi theo và cũng đưa đựơc thêm môt số ngừơi lên. Tầu trực chỉ ra khơi, mắt nhìn về phía Cầu Đá, lòng tôi đau quặn vì còn nhiều người đang vẫy tay xin theo qúa giang nhưng tầu không đủ khả năng lấy thêm nữa. Trên bến còn nhiều người đang xót xa thất vọng, giơ cao tay ngoắc ngoác xin đi.

Bên trên cao, bầu trời đen tối đầy tinh tú nhấp nháy, bên dứơi biển rất êm, con tầu không lắc lư mà vững như bàn thạch. Vì số ngừơi trên boong quá đông, mọi người được các thủy thủ dìu xuống hầm tầu, sâu ở phía dưới để tránh sóng, gió có thể bất ngờ đến lúc nào. Đa phần đều có chuẩn bị trước nên họ có mang theo một ít đồ ăn như bánh mì, bánh tét, sữa, đồ hộp cho chuyến hải trình này.

Trời chưa sáng tỏ mà mỏm núi đá Padaran (mũi DINH) đã mờ mờ nhận dạng, đứng sừng sững bên cánh phải mũi tầu. Tầu không có radar và đi với tốc độ con RÙA biển 7-8 hải lý giờ. Gặp đợt sóng ngang, tầu chao đảo, lắc lư làm nhiều người say sóng, ói mửa. May mắn thay, quãng độ hơn vài tiếng đồng hồ, tầu qua khỏi đợt sóng ngang đó khi tôi đổi hướng đi lại cho con tầu bớt lắc lư, ai nấy cảm thấy dễ chịu hơn.

Trời sáng tỏ, con tầu bằng phẳng lần lũi tiến lên phía trước trông có vẻ oai hùng. Nó hãnh diện lắm vì đang làm một công việc đầy lòng nhân ái và phước thiện, trên mình đang có bao nhiêu con người đã trốn thóat đựơc ách nạn Cộng Sản.

Mọi ngừơi hân hoan thức dậy, đón nhận ánh bình minh mới đang chiếu xuống những tia sáng ấm áp. Gió mát nhẹ hiu hiu thổi, vuốt ve khuôn mặt và mái tóc bay bay bồng bềnh của các cô, các bà hành khách đang đứng trên mặt hầm tầu. Ai nấy đều thơi thới, vui tươi, nhoẻn nụ cười chào nhau qua một đêm chập chờn mất ngủ.

Trời thật chiều lòng người, không một đợt sóng lớn nào va vào con tầu cho đến khi tới bến. Quãng đường đi còn thật dài, phải vựơt qua Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết rồi thì mới thấy mỏm núi đá Kê Gà với ngọn hải đăng hình cột trụ sơn trắng toát rất dễ nhận dạng. Qua tiếp đó là mỏm núi Kỳ Vân, Long Hải, bóng dáng ngọn núi lớn Vũng Tầu mờ mờ hiện ra cuối đường chân trời, với tòa nhà hải đăng cùng mầu sơn trắng toát trên đỉnh đồi.

Một vài vị khách lên tận đài chỉ huy, nằm la liệt đầy trên sàn làm cản trở việc hải hành, lái tầu. Nhưng đối với tôi không sao, không thành vấn đề miễn là không có chuyện tai nạn xẩy ra thôi. Đặc biệt trong những vị khách qúy bên cạnh tôi trong đài chỉ huy, có cha SƠN thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang, dắt theo một số thầy tập sinh ( tu tập thành linh mục ), cha này cũng đã có dậy dỗ, giáo dục tôi lúc còn nhỏ. Đựơc tình cờ gặp lại ngài, tôi mừng lắm, tình  » Phụ Tử  » thắm thiết trò chuyện không dứt. Bà dì ruột của vợ tôi cũng bỏ tất cả nhà cửa, của cải, dắt con cái chạy thóat thân theo tầu về chuyến này.

Trời yên, bể lặng cho đến qua sáng sớm hôm sau, lúc hừng đông đã đi vào được cửa bể Vũng Tầu.

Qua điện thọai vô tuyến, đựơc lệnh của Quốc Vụ Khanh tại Sai gon, tầu phải neo tại vịnh để mọi hành khách lên bờ và về Saigon bằng đường bộ.

Mọi người phải vào bờ. Tôi không thể nào làm hơn là thi hành lệnh từ trên đưa xuống. Đồng thời bên cạnh tầu, neo phía xa xa nhưng có thể thấy rõ bằng mắt thường, một chiếc tầu buôn (không nhớ rõ tên, ai biết tên xin nhắc hộ ) thật to lớn, loại xuyên Đại Dưong của Mỹ, đang cho đi xuống mọi hành khách bằng tầu nhỏ HQ, để mọi người lần lựơt lên bờ như lệnh đã được ban hành.

Chuyện kể rằng :  » Đa phần khách trên tầu đều là quân nhân tác chiến, di tản từ miền Trung về. Thuyền Trưởng được lệnh phải chở đổ bộ tại Phú Quốc. Tất cả mọi người đều phản đối, đòi xin chở về Saigon. Họ hăm dọa nếu đòi hỏi không đựơc thỏa mãn, sẽ cho MÌN nổ tung con tầu và cảnh hỗn loạn bắt đầu nỗi lên. Thuyền Trưởng và thủy thủ đoàn phải đóng kín hết các cửa sắt bên trong, không cho thông thương với toán hành khách đang làm loạn trên tầu. Điện về Hoa Thịnh Đốn và Saigon, cuối cùng đựơc chấp thuận cho trở về Vũng Tầu, nhưng phải đổ bộ mọi người lên bờ « .

Tôi được chứng kiến tận mắt việc Quân Cảnh Việt và Mỹ đứng trên tầu nhỏ của HQ/VN tịch thu tất cả vũ khí của tóan lính di tản trứơc lúc lên bờ. Súng chất thành núi như đống củi trên tầu nhỏ, và mọi người tuần tự lần lượt bước lên đất liền. Vậy mà cũng có một vài quân nhân lén đem đựơc vài trái lựu đạn, lận dấu trong người và mang vào bờ. Toán quân nhân vô kỷ luật này đã làm nhiều vụ cướp bóc trong thành phố Vũng Tầu, nhưng rốt cuộc cũng bị Quân Cảnh chế ngự và bắt cầm tù.

Sau khi mọi người rời tầu, chiếc Đông Hải nhẹ nhàng, nổi tưng, lần lũi, lẻ loi lững thững đi vào Saigon qua sông Lòng Tào và cặp bến cầu Nguyễn Huệ an lành. Trên bến được sự chào đón của các người thân yêu, ông Tòng và bà Uyển.

Chuyến  » đi & về  » này không đem lợi lộc gì cho chủ tầu cũng như người thuê, nhưng ai nấy cũng vui vì đã làm một chuyện « Phứơc Thiện » mà do sự tình cờ đem đến.

Thủy thủ lại nêu ra vấn đề tiền lương và tiền thiếu nợ. Tôi đóng vai đầu,  » đứng mũi chịu sào « , bắt buộc phải hành động để bảo vệ quyền lợi cho thủy thủ đoàn. Đi lại văn phòng hãng tầu, gặp chủ tầu Tòng, ông trả lời:

– Không có đựơc một đồng xu nào do người thuê đem trả cho tôi! Anh lại liên lạc bà Uyển, may ra có thể đòi lại ít tiền hứa lúc trước!

Xong rồi ông đưa cho địa chỉ nhà bà Uyển để liên lạc.

Đi tìm lại nhà bà Uyển đôi ba lần. Đó là căn nhà đẹp xinh xắn tại trung tâm  » cư xá Đô Thành  » thuộc giới trung lưu cao cấp cư ngụ, trong phòng khách có bộ đàn piano mầu nâu, gỗ đánh bóng loáng. Lần nào cũng không gặp bà, người nhà nói bà đi công chuyện, không biết bao giờ về. Một lần đựơc một  » Bà MỆ  » già tiếp đón, cụ là hình ảnh của các bà già quí phái của giới trung lưu trưởng giả HUẾ, người nhỏ bé, lưng hơi còm còm, mặc bộ đồ bà ba lụa trắng, tóc dài búi thành củ hành nhỏ ở phía sau. Cụ tươi cười tiếp đón tôi, tay cầm chiếc quạt nan tre, phe phẩy đuổi cái nóng trưa hè :

– Mạ nọ đi mô mà không biết chi cạ, đi cạ ngày, chừ chiều túi mợi về.

Nói xong cụ lại nưng niu đúa con trai độ 5-6 tuổi mà tôi không biết cụ là bà Nội hay bà Ngoại của nó. Cụ ôm hôn nó, hôn xong nó phụng phịu, lấy tay phủi phủi cái má, tỏ ý như không bằng lòng.

Cụ lên tiếng :

Tao hung (hôn) mi, cưng mi mà mi làm như tao dớp (dơ ) lắm, lấy tay phụi phụi ( phủi phủi ) cái mạ …

Xong rồi cụ cười, tỏ ý vui vì con nít chẳng biết chi. Ôi! Tình bà cháu thắm thiết làm sao? Tôi chào bà xin ra về vì thấy không có ích gì khi nán ở lại thêm.

Trở lại văn phòng ông Tòng, lúc này ông đang tiếp chuyện với một bà tuổi trung niên, mà giới dân đi làm tầu đều quen biết và gọi tên bà là  » Bà Tầu Thủy « . Sở dĩ có cái tên ngộ nghĩnh như vậy là vì bà làm chủ một chiếc xà-lan, sống bằng nghề chuyên cung cấp, tiếp tế nước ngọt cho các tầu buôn tại bến tầu. Bà Tầu Thủy lại văn phòng đòi tiền nước đã cung cấp chuyến đi vừa qua. Cảnh « tréo cẳng ngỗng » lại xẩy ra tại chính văn phòng, ông Tòng xuống nước năn nỉ trả lời:

– Chủ cho thuê tầu mà không đựơc một đồng tiền dính túi do người thuê mang lại, làm sao tôi có tiền đưa cho Bà ? Hai bên dằng co qua lại, tôi bèn rút lui vì ông Tòng đang mắc phải một nghịch cảnh thật khó khăn.

Tình trạng như vậy kéo dài nhiều ngày, chiếc Đông Hải vẫn bị « cột » tại bến, thủy thủ không tiền lương nhưng vẫn chia nhau canh gác con tầu, không cho ai lại gần, dòm ngó hay có ý muốn  » Chạy tầu « ( cướp ). Thỉnh thỏang tôi vẫn lái xe, chạy tạt qua xem tình hình như thế nào, nhưng tất cả đều y như cũ, tiền lương vẫn còn nợ, thủy thủ vẫn dài cổ trông chờ, chưa có đồng nào thanh toán.

Rồi đến qũang khỏang tuần lễ cuối cùng tháng 4/75 , Cảnh Sát Thương Cảng phái một « Phú-Lít Giang Cảnh » lái chiếc « ho-bo » ( hors-bord ) lại cặp phía lái tầu, họ thay phiên nhau canh gác 24/24, không cho tầu rời bến theo « lệnh trưng dụng » của cấp trên. Bực mình vì có sự hiện diện của Cảnh Sát trên tầu mà không có lợi ích gì, tôi lại gần và nói thẳng với anh ta :

– Anh về nhà lo dọn đồ, tìm đường đem vợ con di tản đi, đã bao ngừơi làm rồi, họ đã đi máy bay hết, các ông lớn đi trước từ lâu sao anh còn gác vô ích như thế !

Anh Cảnh Sát nghe tôi nói như chẳng hiểu biết về tình hình chính trị đang diễn ra là gì cả, anh vẫn thản nhiên giăng võng đu đưa qua lại, miệng tiếp tục vài câu ca vớ vẩn.

Tối đêm 28/04/75, ông Tòng lái xe, đem đến bến tầu vài ba người khách lạ. Mọi người xuống xe và đem xuống tầu một số va-li, rương hòm chất chứa ở phía kho trước mũi. Kho được đóng khóa kỹ lưỡng và giao cho tên « Mười Áo » được mướn canh giữ. Tên Mười Áo này chuyên đứng bến, tay anh chị trong làng « dao búa » thứ thiệt (một loại giống như Security Guard không chính thức hành nghề). Nếu được giao cho tên này mướn canh giữ với một số tiền « Chịu Chơi » cho hắn, hàng hóa bảo đảm không bao giờ bị mất cắp hay hư hỏng. Không có tên du đãng nào dám bén mảng tới ăn cắp, vì nếu tới kiếm ăn, sẽ bị tên Mười Áo này xin tí huyết.

Thủy thủ đoàn cho biết, ông Tòng đang dự định một chuyến di tản khác, một vài người thủy thủ thân tín đã được ông hứa trả tiền để đi với ông khi ông kiếm thêm được nhiều « hành khách di tản » chạy ra nước ngoài.

Nhưng than ôi ! Biến cố 30/04/75 đến quá đột ngột và nhanh chóng, nhiều người không có thì giờ trở tay hành động kịp.

Sáng sớm, lúc tan giờ giới nghiêm ngày lịch sử đó, tôi chạy xe xuống bến tầu, chiếc Đông Hải vẫn còn ngoan ngoãn nằm im lìm nơi bến đậu. Xuống tầu ghé xem sự tình trong đêm qua thế nào, mọi sự vẫn tốt lành, yên tĩnh, an ninh. Không có cướp bóc hay phá hoại xẩy ra trong đêm, nói chuyện một ba câu với thủy thủ gác, xong rồi tôi về nhà vì sợ bị lạc đạn. Bên tai vẫn còn nghe lác đác từ xa tiếng súng lớn nhỏ vọng lại phía Hàng Xanh, xa Lộ………….

Quãng trưa, tiếng súng hơi êm, đôi lúc im bặt nên tôi mạnh dạn dắt xe ra khỏi nhà. Lúc này ông Dương Văn Minh và Phan Khắc Sửu đã lên tiếng kêu gọi binh sĩ của QLVNCH buông súng đầu hàng. Súng ống, đạn dược, máy truyền tin, quân xa, quân phục vứt đầy đường, hè phố, nhiều nhất là khu Lăng Cha Cả, cổng Trại Phi Long Không Quân, Bộ Tổng Tham Mưu, đường Chi Lăng, Tổng Y Viện Cộng Hòa Gò Vấp.

Chạy lại thăm cô nàng Đông Hải, thì hỡi ôi ! Cô nàng không cánh mà bay đi phương trời nào rồi. Hỏi thăm bà già bán xe bia, nước ngọt bên cạnh bến tầu, được biết HQ và TQLC đã nhẩy lên, cưỡng chiếm, bắt Đông Hải di tản rồi, tha phương nơi chốn nào không rõ ! Nhìn phía xa xa, nơi bến cầu đừơng Tự Do, một chiếc LCM 8 to lớn, mới tinh của Quân Vận, không biết ai phóng hỏa, đang bốc lửa lên cao cháy dữ dội mà không có người dám lại gần, sợ đạn cháy nổ văng miểng.

Lòng bùi ngùi, lái xe trở về nhà cho mau chóng, trên đường thì thầm khẩn cầu đừng có chuyện bất trắc xẩy ra vì tôi có thấy xác chết một vài quân nhân nằm trơ trọi, lạnh lẽo, ngừơi cứng còng trên đường Chi Lăng dẫn đến gần phi trường Tân Sơn Nhất.

Viết đến đây, tôi vẫn nhớ ơn ông Tòng, tình « chủ tớ » vẫn luôn thắm thiết cho dù ông mang hoạn nạn trên đường thương nghiệp, ông vẫn luôn chơi đẹp với  » đàn em  » và đã giúp đỡ tôi rất nhiều về tài chánh nhất là lúc tôi đi tù cải tạo về. Đối với bà Uyển cho dù bà có thất bại lỗ vốn làm ăn, vẫn luôn mong có ngày  » tái ngộ trùng phùng  » để mà vuì vẻ gặp lại nhau … đó là ý nguyện chân thành của tôi.

Chị Uyển ơi! Trái đất tròn, mong có ngày đẹp trời nào đó ……….hữu duyên thiên lý năng tương ngộ……để đựơc vui vẻ gặp lại chị!… có phải thế không chị !

Ai biết chuyện kể từ lúc cô nàng Đông Hải bị cưỡng bức di tản rời khỏi VN, xin kể tiếp, mua vui cho mọi người. Nghe đâu, « cát bụi lại trở về cát bụi », cô nàng Đông Hải sét rỉ đã không thoát khỏi cái « Kiếp Luân Hồi » để rồi « thân sắt lại trở về thân sắt » không thoát khỏi kiếp « Scrap Metal Recycle », đã thành « ve chai, đồng nát vụn » rồi.

Các bạn HQ hay các bạn đồng hành khác, ai có di tản trong chuyến từ Nha Trang về như tả ở trên, nếu có dịp tốt, xin cùng tìm nhau, gặp lại chung vui với tôi qua chén rượu « hội ngộ tương phùng », cho trọn câu :

« Một chuyến đi nên NGHĨA…..…Một chuyến về nên ÂN » ……….

Đất nước, con người đều có định mệnh, đôi khi gắn bó ràng buộc chặt chẽ với nhau đi đến suốt cuộc đời. Định mệnh đã an bài, không ai chối cãi được.

Tôi là người kém hiểu biết về thời cuộc, mặc dù vẫn hàng ngày theo dõi tin tức chính trị, quân sự qua báo chí, radio và các đài ngoại quốc, và chẳng biết ai là các bậc « ANH MINH, CAO TRÍ  » để được xin thỉnh giáo, vấn kế chỉ dẫn. Rốt cuộc cũng không hành động được một cách khôn ngoan khi các biến cố dồn dập xẩy đến trong những ngày cuối « tháng TƯ ĐEN ». Mặc dù có phương tiện di chuyển (cô nàng Đông Hải) cầm chắc trong tay, cũng chỉ vì quá chậm chạp trong việc quyết định hành động nhanh chóng trong lúc cấp bách, nguy hiểm đang dồn dập tới….. để rồi chịu chung số phận « Học Tập Cải Tạo », đã bóc hai tấm lịch rưỡi như nhiều người …………..Thôi xin chịu vậy :

              » Nhìn xem CON TẠO xoay vần đến đâu…………. »  ( Nguyễn Du )

« Để ghi nhớ lại ngày Quốc Hận 30/04/75………. »

Chí Hợi Australia

Ghi Chú :

1- Con tầu Đông Hải, lúc ban sáng còn đang bị cột đỏi tại cầu tầu Nguyễn Huệ. Đến quãng trưa thì biến mất, để lại bến tầu một quang cảnh cô đơn, hiu quạnh. Có người nói rằng, cô nàng Đông Hải đã bị cưỡng ép di tản trưa hôm đó cùng với một số hành khách và thủy thủ đòan bất đắc dĩ. Ai biết rõ sự chuyện hay là cùng ở trong cảnh di tản đó, xin cùng nhau kể lại cho vui,viết thành hồi ký nhân ngày kỷ niệm Quốc Hận 30/04.

2- Các thủy thủ làm trên tầu buôn VN thường đều lớn tuổi, đa phần đếu đáo tuổi hưu trí, nhưng họ cũng vẫn phải đi làm. Lý do cũng vì kế sinh nhai, cuộc sống vật chất khó khăn để nuôi gia đình, vợ con, đôi khi phải nuôi cả cháu của họ nữ. Điểm lợi là họ không vướng mắc gì về phần quân dịch, hơn nữa họ còn khỏe mạnh, đều làm lâu năm nghề này nên rất sành sỏi mọi công việc, không cần phải chỉ huy hay theo dõi việc họ làm. Nhiều người nổi tiếng được các chủ tầu qúy mến, luôn luôn thâu tuyển, mời mọc họ làm việc mỗi khi tầu thiếu người. Có ngừơi làm từ thời còn Pháp thuộc cho các hãng Messageries Maritimes, Chargeurs Réunis, Denis Frères v.v… Đặc biệt họ nói tiếng Pháp rất hay theo kiểu của họ, đôi khi phát ra nhiều chuyện phì cười rất ngộ nghĩnh, thế mà các Quan Tầu Pháp đều thấu hiểu hết.

Theo luật, phải có sáu (06) ngừơi lái tầu timoniers cho 3 chi đội đi quart, mỗi quart 2 người. Sáu người đó tự động cặp đôi với nhau để đi quart, tùy theo sở thích của họ. TT hay TP chẳng phải nhọc công phân chia quart như trong HQ. Quart hải hành được chia cố định, không bao giờ thay đổi. SQ Dịch đi quart sớm số 1 ( HQ gọi là quart Cách Mạng ) từ 0000- 0400 và từ 1200-1600 TP đi quart trưa số 2 từ 0400-0800 và từ 1600-2000, TT đi quart ngày số 3 từ 0800-1200 và từ 2000-2400. Trường hợp tầu lớn, cấp số bắt phải có 2 SQ Dịch, TP đi quart ban ngày, còn hai 2 quart kia chia cho 2 dịch, TT không đi quart, nhưng trông nom, canh chừng mọi chuyện hải hành.

HQ có thông lệ đi quart xoay vòng, không cố định, phân chia như sau : 0000-0400, 0400-0800, 0800-1200, 1200-1500, 1500-1800, 1800-2000, 2000-2400, như vậy tổng cộng trong ngày là 7 quarts, con số lẻ, nên hôm nay ai đi quart nào thì qua ngày hôm sau thụt lui lại một quart, cứ như vậy xoay vòng cho đến khi hết hải hành.

Bàn về chuyện lành nghề của các thủy thủ già, kỳ cựu lâu năm đi biển, họ rất giỏi công việc chuyên môn, mặc dù chẳng được xuất thân, huấn luyện từ một trường chuyên nghiệp nào, tất cả đều là do « nghề dậy nghề », học đươc từ hồi còn nhỏ. Các công việc dựng cần câu kéo hàng, việc này rất nguy hiểm nếu không có kinh nghiệm, dễ bị cần câu xập, gây chết người, họ thoăn thoắt làm rất nhanh nhẹn, chớp nhoáng. Việc kiểm soát hầm hàng, đóng chốt, cài bù-loong, đậy bố che miệng hầm cho kín nước để bảo vệ hàng hóa, họ làm thật đầy lương tâm nghề nghiệp, dưới sự chỉ huy nhẹ nhàng của cai boong. Lúc cặp hay tách bến, họ hiểu ý Thuyền Trưởng để kéo về tầu dây đỏi nào trước, dây đỏi nào sau. Sự hiểu biết đồng bộ ( tâm đầu ý hợp ) với TT, làm cho công việc ma-nớp (manoeuvre ) vận chuyển thật nhẹ nhàng, nhanh chóng.

Lúc hải hành, một ngừơi lái và thay phiên nhau xoay vòng trong một tiếng đồng hồ và còn ngừơi kia đứng quan sát, báo cáo mọi việc bất thường xung quanh tầu cho SQ đương phiên. Trường hợp biển êm lúc ban ngày, người không lái có thể đựơc chỉ định xuống boong tầu, phụ giúp cùng cai boong và thợ mộc ( charpentier ) tu bổ con tầu như gõ sét hay sơn tầu. Ngoài ra còn có pointers ( người kiểm soát hàng hóa ) cho mỗi miệng hầm. Công việc của các người này rất quan trọng và đầy trách nhiệm cho việc kiểm soát mất hay còn của hàng hóa. Tầu tại bến, các người này bận vô cùng, đôi khi làm không có giờ nghỉ ngơi lúc đang lên hay xuống hàng. Tầu hải hành, họ không làm một việc gì cả, ngoài việc tính lại sổ sách số hàng đã chất lên tầu mà thôi .

Phần cơ khí, máy chánh là chủ chốt kiếm ra tiền lợi nhuận cho chủ nên lúc nào cũng đựơc o bế một cách đặc biệt. Động cơ không bao giờ hư hỏng bất thường vì luôn đựơc tu bổ, thay thế các cơ phận mòn, hư hỏng thường xuyên.

Cổ lệ từ lâu đời để lại, chủ tầu thường hay thưởng cho toàn thuỷ thủ đoàn một món tiền, thường được gọi là  » tiền thưởng chuyến  » sau khi chuyến thứ 2 được hoàn tất trong tháng, nếu trong tháng còn làm thêm chuyến nào thì cũng đựơc thưởng theo cũng như vậy.

TT, thuỷ thủ đoàn thường vui sống trong cảnh  » trên thuận, dưới hòa  » trong suốt các cuộc hải hành cũng như trong lúc ở bến, rất hiếm khi xẩy ra những chuyện bất bình. Nhưng họa chăng, nếu có thì sẽ được cùng nhau giảng hòa ngay lập tức, qua đôi ba ly chén rượu nồng, thế là mọi chuyện qua đi và quên hết mọi sự.

Sài Gòn xưa: Chú Hỷ – Ông vua tàu thủy

Sài Gòn xưa: Chú Hỷ – Ông vua tàu thủy

Thượng Hồng

Sài Gòn xưa: Chú Hỷ - Ông vua tàu thủy

Sài Gòn cách đây một thế kỷ không đông người và không có các phương tiện đi lại như ngày nay. Giao thông chủ yếu dựa vào đường thủy. Do đó, khi người Pháp muốn kinh doanh ngành giao thông, họ đã lập ra những công ty vận tải đường sông (Compagnie des messageries fluviales), sắm những chiếc tàu đóng từ châu Âu đem sang. Có thể nói, vào thời ấy, ngoài người Pháp, chưa ai dám nghĩ đến chuyện đứng ra cạnh tranh trong lĩnh vực này. Song, có một người phá được cái lệ đó. Người ta không rõ ông tên họ thật là gì, chỉ quen gọi biệt danh “chú Hỷ”.

Hỷ, có lẽ phát âm từ một cái tên tiếng Hoa, nhưng cũng có thể là cách gọi của người Việt để chỉ một người may mắn. Ông này sống cùng thời với Hui Bon Hoa (chú Hỏa) và cũng từ tay trắng làm nên sự nghiệp, nên những gì được kể lại về cá nhân ông sau này, đều đượm tính huyền thoại. Tuy nhiên, không một ai ở Sài Gòn thời trước lại không nghe danh về con người mà họ xem là tấm gương nỗ lực làm giàu.

Câu hát ví: “Đi tàu chú Hỷ, ở nhà chú Hỏa”, đủ nói lên mức giàu có của chú Hỷ. Nhưng làm cách nào mà một con người khố rách áo ôm lại có thể ngoi lên địa vị đối đầu ngang ngửa với các tay trùm tư bản người Pháp vốn có ưu thế về nhiều mặt trong lĩnh vực kinh doanh tàu thủy? Điều này nhắc ta nhớ đến một khía cạnh đặc thù của người Hoa: tính cần cù, nhẫn nại và có máu liều. Chú Hỷ có thừa những điều đó. Ngày ấy, ở miền Bắc thì có ông Bạch Thái Bưởi, người đã thành công lớn trong ngành vận tải sông biển, nên có người cho rằng chú Hỷ đã bắt chước ông Bưởi khi bước vào ngành tàu thủy. Tuy nhiên, khi rà lại thời gian, thì nhận thấy rằng chú Hỷ lớn tuổi hơn Bạch Thái Bưởi và công cuộc kinh doanh tàu thủy của chú Hỷ cũng diễn ra sớm hơn ông Bưởi vài chục năm. Như vậy, có thể nói rằng người đầu tiên “làm vua” ngành tàu thủy ở Việt Nam chính là chú Hỷ (không kể các tay tư bản người Pháp).

Theo một tài liệu riêng, chúng tôi thu thập được từ vài gia đình người Hoa ở Chợ Lớn thì, chú Hỷ là một người Hoa gốc Quảng Đông (Trung Quốc), lánh nạn Mãn Thanh vào giữa thế kỷ XIX. Ông đến và định cư ở vùng Đề Ngạn (Chợ Lớn) với nghề buôn bán “hàng xén” trên sông. Cửa hiệu hàng xén của cậu trai 17 tuổi chỉ có chiếc xuồng con, một ít hàng tiêu dùng rẻ tiền, nhưng thiết thực cho đời sống như ống chỉ, kim may, muối, đường, tiêu, tỏi… Một loại tiệm “chạp phô” thu nhỏ. Vùng hoạt động của cậu ta là các kênh rạch chằng chịt của thành phố Chợ Lớn thời đó, song đôi khi cũng xa hơn, ra tận Kinh Đôi, Nhà Bè để mua hoặc trao đổi hàng hóa. Những cuộc đi lại này đã hun đúc trong lòng chú Hỷ cái mộng “làm vua” sông nước.

Sài Gòn xưa: Chú Hỷ - Ông vua tàu thủy

Một hôm, nhân cập xuồng bên hông một chiếc tàu khách thuộc Công ty vận tải đường sông của người Pháp, chú Hỷ lần đầu tiên được bước chân lên chiếc tàu to gấp trăm lần chiếc thuyền con của mình. Thấy chú dạn dĩ, lanh lẹ, viên tài công người Pháp đã hỏi đùa: “Mày có muốn đi tàu không?”. Chú gật đầu, mà không ngờ đó là cái gật đầu định mệnh. Bởi vì, chỉ sau đó vài hôm, qua sự giới thiệu của viên tài công, chủ tàu người Pháp đã đồng ý nhận cậu trai người Hoa đó vào làm chân hỏa đầu vụ trên tàu.

Trong ba năm đi khắp các miền sông nước Nam Kỳ, đôi khi còn lên tận Nam Vang (Phnom Pênh), chú Hỷ đã được mở tầm mắt, được thấy một tương lai khác rộng lớn hơn là nghề bán hàng xén trên sông của mình nhiều. Và cũng chính trong những ngày này, đã hình thành một giấc mơ trong đầu chú Hỷ: được làm chủ những chiếc tàu xuôi ngược khắp nơi. Thời đó (1883-1884), sở hữu các đội tàu thủy ở Nam Kỳ là Công ty Messageries fluviales (tàu chạy sông). Về sau đổi tên là Compagnie saigonnaise de navigation, do một người Pháp nhiều thế lực là Jules Rueff làm chủ. Đội tàu của Công ty này chạy khắp Nam Kỳ lục tỉnh (Nam Bộ) và Nam Vang, do các tài công được thuê từ Pháp sang. Bọn này tuy lái tàu giỏi, nhưng thường được trả lương rất thấp, nên sinh ra chán nản, phục vụ khách không tận tình. Có người lại nói rằng, do phải kiếm ăn thêm ngoài đồng lương chết đói, nên bọn tài công và em út thường hay vận chuyển lén lút các hàng quốc cấm như thuốc phiện đem từ Cambodge về tiêu thụ ở Sài Gòn. Nhận biết điều ấy, chú Hỷ nảy ra ý nghĩ: tại sao người mình (chú tự coi mình là người bản xứ, người Việt) không đứng ra cạnh tranh ngành này ?

Với một ít vốn dành dụm được, cộng thêm tiền vay mượn, quyên góp từ đồng hương, đầu tiên chú Hỷ xin mua một chiếc tàu sắp đến ngày “trồng hành” (tàu cũ, dùng các tàu này chứa phân trồng rau, trồng hành) của Công ty mà chú đang phục vụ. Người Pháp thấy chú có ý định đó thì cho rằng chú điên, nên đồng ý bán cho với giá rẻ mạt, thâm ý muốn làm cho chú hết vốn, sáng mắt ra! Tuy nhiên, khi người Hoa muốn làm ăn, thì một mảnh giẻ rách cũng có thể biến thành một bức gấm hoa. Khi mua được chiếc tàu cũ, chú Hỷ xin nghỉ việc, để “làm gì đó chưa ai biết”. Một năm sau, tại Sở đăng kiểm tàu chở khách, người ta thấy tên chú Hỷ, đăng ký tàu sông, chở khách đi khắp Nam Kỳ lục tỉnh! Lão chủ tàu người Pháp Jules Rueff phì cười, tuyên bố với thuộc hạ: “Cho nó chết nhăn răng!”. Vì lão ta nghĩ, trong lĩnh vực tàu thủy, không ai có thể cạnh tranh với người Pháp.

Nhưng, thật bất ngờ, chỉ sau khi hạ thủy vài tháng, chiếc tàu khách mang tên Nam Long (Rồng Nam) của chủ Hỷ luôn đầy khách, hơn hẳn lượng khách của tàu Tây! Điều gì đang xảy ra vậy? Đó là câu hỏi mà Jules Rueff đang muốn được trả lời. Thì ra, rất đơn giản: khách Việt đi tàu Nam Long được tự do, thoải mái hơn và nhất là giá cả rẻ hơn!

Hỏi tại sao dám cạnh tranh kiểu đó, chú Hỷ đáp: sở phí của mình thấp, khách của mình lại bình dân, nên phải lấy giá thấp thôi.

Còn hơn thế nữa, khách đi tàu của chú Hỷ sẽ được chăm sóc kỹ hơn, ăn uống hợp khẩu vị hơn, đặc biệt là được ghé bến theo yêu cầu của khách (tàu Tây chỉ ghé bến chính, không ghé bến dọc đường, mà người Việt mình thì lại thích được lên, xuống theo nhu cầu). Từ thành công ban đầu đó, một năm sau nữa, chủ Hỷ có thêm chiếc tàu Nam Hưng (Việt Nam hưng thịnh), được mua từ Singapore mang về. Và sau năm năm, đội tàu của chú Hỷ đã lên tới 20 chiếc. Khách đi tàu đã đổ xô đi tàu “ta”, vì những cái lợi như trên. Ngoài ra, còn một điều thuận tiện khác mà khách ta rất khoái, đó là vừa đi vừa chở được hàng hóa cồng kềnh, điều mà với tàu Tây, họ không được phép.

Với cung cách làm ăn như vậy, nên chỉ vài năm, đội tàu của chú Hỷ đã trở thành đối thủ đáng gờm của tàu Tây. Lúc đầu, chú Hỷ còn khiêm nhường, luôn tránh đụng độ với lộ trình của hãng tàu Pháp, song dần dần, do thấy đã đủ lực, chú Hỷ “chơi tới bến” luôn, chẳng cần kiêng dè gì nữa. Hễ nơi nào có tàu Pháp chạy, thì có tàu Nam Long, Nam Hưng… Từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Đốc, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Nam Vang… đâu đâu cũng có tiếng “súp lê” (còi báo) của tàu chú Hỷ. Cuộc cạnh tranh đã ngang ngửa…

Và thật bất ngờ, ngoạn mục, cho đến những năm cuối thế kỷ XIX, tàu của Compagnie saigonnaise de Navigation đã phải né tàu của chú Hỷ, để tránh cảnh “xách tàu không mà chạy”. “Ta” đã thắng “Tây” một keo quá đã, như nhiều người Nam Bộ lúc đó nghĩ vậy. Chú Hỷ trở thành ông vua tàu thủy một cách chắc chắn.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, tại khu “phố Wall” của Sài Gòn (tức tập trung nhiều ngân hàng, gồm tứ giác Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Hàm Nghi – Pasteur – Bến Chương Dương ngày nay) đã hình thành một “thị trường chứng khoán” không văn tự, không quy ước chính thức, nhưng các tay mại bản hàng đầu, gồm người Pháp, người Việt, người Hoa, đã mặc nhiên công nhận Công ty tàu thủy của chú Hỷ là một trong bốn Công ty hàng đầu của Sài Gòn thời ấy (ba Công ty còn lại đều là của người Pháp). Nghe nói, đã có vài tay môi giới chứng khoán từ Hồng Kông sang, có ý định mua cổ phần của Công ty chú Hỷ. Nhưng “ông vua” này đã thẳng thừng từ chối với lời khẳng định: “Tôi đã tạo ra được nó, tất phải giữ được nó bằng sức của mình”.

Giới tư bản Pháp lủc ấy cũng không vui gì khi thấy cái gai trong mắt mình. Họ cố bành trướng trong lĩnh vực tàu thủy, nhằm chèn ép thế lực của chú Hỷ, nhưng vẫn không sao thực hiện được trọn vẹn ý đồ.

Cho đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), ở Nam Kỳ vẫn còn ưa chuộng phương tiện đi lại bằng tàu thủy của chú Hỷ. Chỉ đến khi Sài Gòn và các tỉnh có đường giao thông bộ như ô-tô, tàu hỏa, thì ảnh hưởng của tàu thủy mới giảm dần. Chú Hỷ qua đời vào đầu thế kỷ XX, sau đó con cháu ông tiếp tục nối nghiệp, và nghe nói phải tới thời điểm sau này thì việc cổ phần hóa Công ty tàu thủy của chủ Hỷ mới được thực hiện. Nhưng nghe đâu, bởi cung cách làm ăn chia năm, xẻ bảy, nên dần dần sự phát đạt không còn cao nữa.

Tuy vậy, tiếng tăm của chú Hỷ vẫn còn nguyên. Người dân Sài Gòn, Chợ Lớn mỗi khi nhắc đến tàu thủy, thảy đều nhớ đến chú Hỷ. Thậm chí, ở nước ngoài cũng có người biết tên chú Hỷ. Năm 1961, một tờ báo ở Singapore, khi viết về vận tải thủy ở Đông Nam Á, đã có nhắc đến một ông vua tàu thủy ở Chợ Lớn, mà họ gọi là Hsui, phong ông ngang hàng với nhiều “vua sông nước” khác ở châu Á.

Thượng Hồng
Trích từ cuốn “Hảo hán Sài Gòn Dân chơi Bến Nghé”

Nguồn: https://trithucvn.net/van-hoa/sai-gon-xua-chu-hy-ong-vua-tau-thuy.html

Giang Ðoàn 26 Xung Phong Tại Chiến Trường Tân Châu – Hồng Ngự (1973)

Trần Ðỗ Cẩm
https://i0.wp.com/doanket.orgfree.com/dkpict/gd26xp3.jpg

I. Bối Cảnh Lịch Sử

Vào năm 1973, tuy hiệp định ngưng bắn Paris đã được ký kết nhưng những trận đánh giữa hai phe Quốc – Cộng để dành quyền chủ động tại chiến trường miền Nam Việt Nam mỗi lúc một trở nên khốc liệt. Trong lúc quân lực Hoa Kỳ coi như đã “rút lui trong danh dự” không còn tham chiến, Cộng quân được “bật đèn xanh” công khai xua quân xâm chiếm miền Nam. Hình thức chiến tranh chuyển từ du kích chiến sang trận địa chiến bằng những trận đánh dữ dội với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn chủ lực có những vũ khí nặng như chiến xa, đại pháo hỗ trợ.

Nhìn chung, chiến trường sôi động nhất tại các vùng giới tuyến và biên giới Lào – Việt tại miền Trung và Miên – Việt tại miền Nam. Cộng quân từ vùng phi quân sự hay từ các căn cứ địa an toàn bên Lào, Cam Bốt ngang nhiên tràn qua lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, trong lúc phe Quốc Gia vì không còn đủ sức tấn công dành quyền chủ động nên chỉ có thể dùng toàn lực ngăn chặn trong tư thế phòng thủ.

Trong lúc các quân binh chủng bạn như Không Quân, Bộ Binh, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v… tung hết lực lượng để đối đầu với địch quân, thì phần đóng góp của các đơn vị Hải Quân trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này cũng không phải là nhỏ. Tại Vùng I và Vùng II Chiến Thuật nơi các trận đánh thường xảy ra dọc theo duyên hải, các chiến hạm ngày đêm tuần tiễu ngoài khơi cũng như yểm trợ hải pháo. Trong lúc đó, các Duyên Ðoàn phối trí tại các điểm chiến lược quan trọng dọc bờ biển cũng sát cánh với các đơn vị bạn trong các cuộc hành quân thủy bộ.

Riêng tại Vùng III Chiến Thuật với thủ đô Sài Gòn và Vùng IV Chiến Thuật là vựa lúa nuôi sống Miền Nam, vai trò của các đơn vị Hải Quân lại càng quan trọng. Ngoài phần lãnh hải cần được tuần phòng nghiêm ngặt, còn phải chận đứng mọi di chuyển và xâm nhập của địch quân qua các sông ngòi chằng chịt. Việc yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót ven sông cũng cần thiết không kém. Hơn nữa, cường độ chiến tranh bên quốc gia láng giềng Cam Bốt cũng đang gia tăng dữ dội. Cộng quân đã phong tỏa và cắt đứt những đường bộ tiếp vận về Nam Vang nên thủy lộ sông Cửu Long từ Tân Châu – Hồng Ngự qua bến phà Neak Luoeng lên đến thủ đô Cam Bốt trở thành mạch máu chính nuôi sống chính quyền Lon Nol thân Hoa Kỳ.

Ðể đáp ứng nhu cầu chiến trường, hoạt động của các Giang Ðoàn Hải Quân tai Miền Nam đã gia tăng đáng kể để bảo vệ lãnh thổ cũng như khai thông thủy lộ Sông Cửu Long. Vùng IV Chiến Thuật, ngoài các nhánh sông Cửu Long vươn dài như những cánh tay bạch tuộc ôm chặt vựa lúa Miền Nam, còn có rất nhiều kinh, rạch. Vì vậy, đây là địa bàn hoạt động của rất nhiều Giang Ðoàn Xung Phong, Thủy Bộ, Ngăn Chặn và Tuần Thám. Từ những giòng Tiền Giang, Hậu Giang, U Minh, Ðồng Tháp đến những nơi xa xôi hẻo lánh như U Minh, Cà Mau, Năm Căn v.v…, đâu đâu cũng có mặt các giang đĩnh ngày đêm ngăn chặn giặc thù. Những giang đĩnh này đã nhiều lần làm Cộng quân khiếp vía trong những trận đánh long trời lở đất và cũng là nguồn hy vọng cho những đồn bót ven sông.

Tuy có rất nhiều đơn vị Hải Quân góp phần đắc lực vào việc tiễu trừ giặc Cộng, bài này chỉ viết về những hoạt động của một đơn vị Hải Quân nồng cốt thuộc Vùng IV Chiến Thuật, đó là Giang Ðoàn 26 Xung Phong, đơn vị tác giả được hân hạnh phục vụ trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng kể trên. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều bài viết tương tự để chiến công của những chiến sĩ áo trắng trong sông không bị mai một với thời gian. Bài viết này cũng nhằm mục đích vinh danh và kính tặng những chiến sĩ Hải Quân anh dũng đã một thời gắn bó với các kình ngư trong sông, đặc biệt các bạn đồng đội thân mến đã phục vụ tại Giang Ðoàn 26 Xung Phong.

Trước khi đi sâu vào chi tiết về các trận đánh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong tại chiến trường Tân Châu – Hồng Ngự vào năm 1973, tưởng cũng nên tóm lược hệ thống tổ chức hành quân Hải Quân để độc giả, nhất là những người không quen thuộc với tổ chức Hải Quân, dễ bề tìm hiểu và theo dõi.

II. Sơ Lược Tổ Chức Hành Quân Hải Quân

Nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường mỗi ngày một gia tăng và để yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn, ngoài Hạm Ðội lo việc tuần tiễu và chuyển vận ngoài khơi, mỗi vùng Chiến Thuật còn có các các Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng để để phối hợp chặt chẽ với các Quân Khu liên hệ. Các Bộ Tư Lệnh Vùng chia thành hai loại: Vùng Duyên Hải đảm nhiệm công tác dọc theo bờ biển, trong khi các Vùng Sông Ngòi lo việc hành quân trong sông. Tổng Cộng, Hải Quân có 5 Vùng Duyên Hải và 2 Vùng Sông Ngòi.

A. Vùng Duyên Hải

Vùng Duyên Hải trực tiếp chỉ huy các đơn vị cơ hữu như Hải Ðội Duyên Phòng, Duyên Ðoàn, Ðài Kiểm Báo v.v… và chiến hạm Hạm Ðội tăng phái để tuần tiễu vùng bờ biển trách nhiệm cũng như phối hợp hành quân với Quân Khu tương ứng. Bộ Tư Lệnh các Vùng Duyên Hải được phối trí như sau:

1. Tại Vùng I Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải đóng tại bán đảo Tiên Sa (vùng Sơn Chà) Ðà Nẵng, chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Cửa Việt) tới Quảng Ngãi.

2. Tại Vùng II Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chịu trách nhiệm vùng bờ biểu từ Bình Ðịnh tới Phan Thiết.

3. Tại Vùng III Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng III Duyên Hải đóng tại Vũng Tàu. Chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ Phước Tuy tới mũi Cà Mau.

4. Tại Vùng IV Chiến Thuật

Ðặc biệt Vùng IV Chiến Thuật có bờ biển chạy dài từ mũi Cà Mau lên tới biên giới Miên – Việt mãi tận Hà Tiên và Vịnh Thái Lan với rất nhiều hải đảo nên có tới 2 Vùng Duyên Hải.

– Bộ Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải đóng tại đảo Phú Quốc.

– Bộ Tư Lệnh Vùng V Duyên Hải đóng tại Năm Căn thuộc tỉnh An Xuyên. Ðây là một Bộ Tư Lệnh khá đặc biệt được thành lập sau này để đáp ứng nhu cầu hành quân bình định vùng cửa sông Ông Ðốc, Gành hào, Rạch Giá và các sông ngòi thuộc khu vực Cà Mau và U Minh.

B. Vùng Sông Ngòi

Vùng Sông Ngòi đảm trách việc tuần tiễu trong sông và phối hợp hành quân với Quân Khu liên hệ. Ðơn vị nồng cốt của Vùng Sông Ngòi là các Giang Ðoàn. Vùng I và Vùng II Chiến Thuật vì ít sông lạch nên không có Vùng Sông Ngòi. Tuy nhiên, có một số Giang Ðoàn Trục Lôi và Tuần Thám hoạt động tại vùng Cửa Việt, Cửa Thuận An và Hội An thuộc Vùng I Chiến Thuật được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải. Vùng II Duyên Hải không có Giang Ðoàn mà chỉ có những Duyên Ðoàn.

Miền Nam lắm sông nhiều rạch nên có rất nhiều Giang Ðoàn hoạt động. Hai Bộ Tư Lệnh Vùng Sông Ngòi chỉ huy các Giang Ðoàn này được phân chia như sau:

1. Tại Vùng III Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi đóng tại Sài Gòn. Khu vực hoạt động bao gồm sông Sài Gòn, các sông Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây lên tới tận Gò Dầu Hạ sát biên giới Miên – Việt thuộc tỉnh Tây Ninh. Ngoài quân cảng Sài Gòn, Bến Lức và Long An là các căn cứ Hải Quân lớn thuộc vùng III Sông Ngòi với nhiều giang đĩnh đủ loại nằm sát chân cầu có thể nhìn thấy từ Quốc Lộ 4.

2. Tại Vùng IV Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi đặt tại Bến Ninh Kiều, Cần Thơ (Tây Ðô). Ðây là một đại đơn vị nồng cốt hoạt động trong sông của Hải Quân mà đơn vị chiến đấu căn bản là các Giang Ðoàn Xung Phong, những đơn vị Hải Quân kỳ cựu nhất bắt nguồn từ các Hải Ðoàn đã từng chiến đấu tại Bắc Việt, được người Pháp chuyển giao cho Hải Quân VNCH vào các năm 1953 – 1954. Sau này, khi nói tới Giang Ðoàn Xung Phong, các quân nhân Hải Quân thường nghĩ ngay tới Vùng IV Sông Ngòi với các giòng sông quen thuộc như Tiền Giang, Hậu Giang, Cái Lớn, Cái Bé, Ông Ðốc, Gành Hào v.v… cùng những con kinh nổi tiếng như Ðồng Tiến, Mang Thít, Chợ Gạo, Mỏ Cày, Xà No, Cái Sắn, Giang Thành v.v…

III. Giang Ðoàn Xung Phong

Ngay từ khi mới thành lập, Vùng IV Sông Ngòi đã có 4 Giang Ðoàn Xung Phong được phối trí như sau:

1. Giang Ðoàn 21 Xung Phong

Ðóng tại Mỹ Tho, gần Bắc Rạch Miễu trên đường đi sang Kiến Hòa. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho), Sông Hàm Luông (Kiến Hòa), Cửa Tiểu v.v…

2. Giang Ðoàn 23 Xung Phong

Ðóng tại Vĩnh Long, gần Bắc Cổ Chiên I trên đường đi sang quận Chợ Lách. Vùng hoạt động bao gồm sông Cổ Chiên, Cao Lãnh, Ðồng Tháp Mười v.v…

3. Giang Ðoàn 25 Xung Phong

Ðóng tại Cần Thơ, gần bến Ninh Kiều, chung với Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau v.v…

4. Giang Ðoàn 26 Xung Phong

Ðóng tại Long Xuyên, gần công viên Nguyễn Du. Vùng hoạt động bao gồm khu vực Sa Ðéc, Vàm Nao, Chợ Mới, Châu Ðốc, Tân Châu, Hồng Ngự lên tận biên giới Miên – Việt.

Những vùng hoạt động trên chỉ được phân chia theo lý thuyết vì trên thực tế, tùy theo nhu cầu hành quân, các Giang Ðoàn thường được du di điều động tăng phái hay xuất phái. Sau này, có thêm một số Giang Ðoàn Xung Phong được thành lập để đáp ứng với đòi hỏi của chiến trường. Thí dụ như là Giang Ðoàn 27 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Ðoàn 21 Xung Phong tại Mỹ Tho để trở thành Liên Giang Ðoàn 21/33 Xung Phong. Giang Ðoàn 31 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Ðoàn 23 Xung Phong tại Vĩnh Long để trở thành Liên Giang Ðoàn 23/31 Xung Phong và Giang Ðoàn 29 Xung Phong đóng chung với Giang Ðoàn 25 Xung Phong tại Cần Thơ để trở thành Liên Giang Ðoàn 25/29 Xung Phong.

CAC GIANG DINH CUA MOT GIANG DOAN XUNG PHONG TUAN TIEU TREN SONG.jpg

Mỗi Giang Ðoàn Xung Phong có bảng cấp số tương đương với một Tiểu Ðoàn Bộ Binh và được trang bị nhiều loại giang đĩnh có công dụng khác nhau như một hạm đội trong sông. Số giang đĩnh tiêu chuẩn được liệt kê đại cương như sau:

– 6 Tiểu Vận Ðĩnh (LCVP – Landing Craft Vehicle Personnel): Ðây là loại tầu mũi bằng, vỏ gỗ, một máy, có thể chở được chừng một trung đội bộ binh, với cửa đổ bộ mở xuống, kéo lên được bằng giây cáp. Tuy nhiên, các LCVP của Giang Ðoàn Xung Phong đã được biến cải với cửa đổ bộ được hàn kín. Những giang đĩnh này không còn được dùng để chở quân mà được dùng để rà mìn trong sông, nhất là trong những kinh, rạch nhỏ. Về hỏa lực, mỗi LCVP được trang bị một đại bác 20 ly trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui tại phòng lái. Thủy thủ đoàn LCVP gồm 4 người. LCVP thường hoạt động từng cặp để yểm trợ lẫn nhau.

– 6 Tiểu Giáp Ðĩnh (FOM): Vỏ sắt, mũi nhọn, một máy, vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng như Khu Trục Hạm trong hạm đội. Mỗi FOM được trang bị một đại liên 50 trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui gần phòng lái. Thủy thủ đoàn FOM gồm 4 người và cũng hoạt động từng cặp như LCVP.

– 6 Trung Vận Ðĩnh (Landing Craft Medium LCM-6): Ðây là loại giang đĩnh mũi bằng, hai máy với cửa đổ bộ kéo bằng máy, có thể chở chừng một đại đội bộ binh. Vũ khí trang bị gồm một đại bác 20 ly phía sau lái, hai đại bác 20 ly bên hông và hai đại liên 30 trong phòng lái.

– 1 Giang Ðĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin (Monitor Commandement): Ðây là loại giang đĩnh LCM-6 biến cải, có phòng ngủ sĩ quan, máy truyền tin để đặt bộ chỉ huy hành quân. Vũ khí trang bị gồm một hầm súng cối 81 ly đặt dưới lòng tầu, một đại bác 20 ly phía sau lái và hai đại liên 30 trong phòng lái.

– 1 Thiết Giáp Ðĩnh (Monitor Combat): Cũng là loại LCM-6 biến cải, nhưng với vỏ sắt dầy hơn với pháo tháp đại bác 40 ly gắn trước mũi chung với đại liên 50. Ngoài ra, còn có một đại bác 20 phía sau lái, 2 đại liên 50 bên hông và một hầm súng cối 81 ly giống như Giang Ðĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin. Thiết Giáp Ðĩnh có hỏa lực mạnh nhất trong các giang đĩnh và được coi như Thiết Giáp Hạm trong sông.

Theo tiêu chuẩn, mỗi Giang Ðoàn Xung Phong có chừng 20 giang đĩnh đủ loại, được tổ chức tương tự như một hạm đội ngoài biển. Sau này, đa số các số Giang Ðoàn được trang bị loại giang đĩnh RPC (River Patrol Craft) hai máy để thay thế cho một số FOM cũ kỹ bị phế thải và còn thêm loại LCM-8 có khả năng chở Thiết Vận Xa và đại bác của Pháo Binh. Một số đơn vị còn có tới 2 Monitor Combat hay Commandemant. Tuy số lượng và loại Giang Ðĩnh có thể không giống nhau, nhưng tựu chung, mỗi Giang Ðoàn đều có khả năng tác chiến giống nhau, có thể thực hiện những cuộc hành quân phối hợp thủy-bộ biệt lập với khoảng 1 Tiểu Ðoàn Bộ Binh.

IV. Giang Ðoàn 26 Xung Phong

Ðây là một trong những đơn vị chuyên hoạt động trong sông kỳ cựu nhất của Hải Quân VNCH. Các giang đĩnh của Giang Ðoàn này phần lớn đã tham chiến tại các mặt trận lừng danh ở Bắc Việt trước năm 1954 trong thời kỳ chiến tranh Việt – Pháp. Tiền thân của Giang Ðoàn 26 Xung Phong là các Dinassault của Pháp đã từng đóng những vai trò vô cùng quan yếu tại các chiến trường nổi tiếng Sông Lô, Việt Trì, Nam Ðịnh, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Sông Ðáy v.v…

Hậu cứ của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đặt tại trại Vân Ðồn thuộc tỉnh Long Xuyên, một thị trấn xinh đẹp, hiền hòa nằm ven bờ sông Hậu. Vùng hoạt động của đơn vị bao gồm các tỉnh An Giang, Sa Ðéc, Cao Lãnh và Châu Ðốc lên tới tận miền biên giới Miên – Việt. Tuy chịu trách nhiệm tại vùng có đông tín đồ Hòa Hảo tương đối an ninh, nhưng giang đĩnh của đơn vị thường phải phân tán và xé lẻ để có thể tuần tiễu khu vực trách nhiệm khá rộng lớn có nhiều sông rạch, hoặc phối hợp hành quân thủy – bộ hay yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót hẻo lánh ven sông. Các giang đĩnh luôn luôn tăng phái thường trực tại vùng biên giới Miên – Việt thuộc các quận Tân Châu – Hồng Ngự hay tỉnh Châu Ðốc. Ngoài ra, đôi khi vì nhu cầu hành quân, một số giang đĩnh còn được tăng cường phối hợp với Giang Ðoàn 25 đóng tại Cần Thơ để phối hợp hành quân với Sư Ðoàn 21 Bộ Binh tại các vùng Cà Mau, Chương Thiện, Rạch Giá v…

Vào khoảng đầu thập niên 1970, cùng với chương trình tối tân hóa và bành trướng của Hải Quân, Long Xuyên trở thành một Căn Cứ Hải Quân lớn. Giang Ðoàn 26 Xung Phong vẫn tiếp tục trú đóng tại đây, chung hậu với các đơn vị bạn mới được thành lập như Tiền Doanh Yểm Trợ, Bệnh Xá, Giang Ðoàn Tuần Thám v.v…

V. Cộng Quân Phong Tỏa Hồng Ngự

Hồng Ngự (Xem Bản Ðồ Hồng Ngự) là một quận lỵ cực Bắc của tỉnh Kiến Phong, nằm trên bờ Ðông của Sông Cửu Long. Chỉ có một con đường bộ duy nhất nối liền với tỉnh lỵ Cao Lãnh, xuyên qua kinh Ðồng Tiến và quận Kiến Văn. Ðối diện với quận lỵ là cù lao Long Khánh trù phú, dân cư đông đúc với những vườn cây trái xum xuê, rậm rạp. Ðặc biệt, mỏm Bắc của Cù Lao và vùng đất bồi do phù sa của Sông Cửu Long tích tụ hàng năm. Trên đầu doi này có một ngôi đình cổ không biết được xây cất từ bao giờ tọa lạc trên một thế đất cao như một ngọn đồi. Từ ngôi đình cổ hoang vắng, người ta có thể quan sát được một vùng sông nước mênh mông bát ngát với những bờ sông cát trắng, nước trong xanh, phong cảnh hùng vĩ hữu tình tuyệt đẹp.

Ranh giới của quận Hồng Ngự về phía Bắc và Ðông Bắc gồm vùng biên giới Miên – Việt, chạy dài tới tận tiền đồn biên phòng Cái Cái giáp ranh tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa). Phía Tây là sông Cửu Long giáp quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang (Long Xuyên). Về phía Tây Bắc, nằm trên bờ Tây của sông Cửu Long chỉ cách Hồng Ngự chừng 5, 6 cây số là quận Tân Châu cũng thuộc tỉnh An Giang. Tại Tân Châu có một đơn vị Hải Quân là Giang Ðoàn 58 Tuần Thám trấn đóng, Phía Nam giáp kinh Ðồng Tiến với khu vực Phước Xuyên trong vùng Ðồng Tháp Mười nổi tiếng chạy dài tới quận Kiến Văn.

Hồng Ngự chiếm địa thế quan trọng nằm ngay yết hầu thủy lộ sông Cửu Long và chặn đường xâm nhập của Cộng Quân từ Cam Bốt tràn xuống. Phần lớn những đồn bót thuộc Chi Khu Hồng Ngự đều nằm dọc ven sông và vùng biên giới để có thể phát hiện và ngăn chặn mọi di chuyển của địch quân. Vì địa thế gồm nhiều sông, kinh, rạch lớn nhỏ nên thông thường có một đơn vị Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để lo việc hành quân, phòng thủ cũng như tiếp tế cho các đồn bót ven sông.

Vào khoảng tháng 3 năm 1973, chiến cuộc tại Miền Nam Việt Nam trở nên vô cùng sôi động sau những cuộc cường tập của Cộng Quân vào khắp 4 vùng Chiến Thuật sau Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Bên quốc gia láng giềng Cam Bốt, sự tranh chấp cũng đã tới giai đoạn quyết liệt một mất một còn. Cộng quân chiếm được ưu thế, cắt đứt đường tiếp vận quan trọng từ hải cảng Sihanoukville (Kompong Som) về thủ đô Nam Vang. Phi trường Pocheng Tong nằm trong tầm đạn pháo kích nên phi cơ tiếp vận lên xuống rất nguy hiểm và khó khăn. Có thể nói Nam Vang đã bị Cộng quân vây chặt khiến mọi quân dụng, vũ khí, đạn được v.v… cũng như mọi nhu yếu phẩm như gạo, dầu nhớt v.v… tối cần cho sự sống còn của chính quyền Lon Nol không thể nào đưa lọt vào thủ đô Cam Bốt bằng đường bộ cũng như đường hàng không.

Vì vậy, phương tiện duy nhất còn lại để tiếp tế cho Cam Bốt là sông Cửu Long. Thủy lộ này chạy dài từ cửa biển Vũng Tầu, qua bắc Mỹ Thuận, Hồng Ngự, Tân Châu trong lãnh thổ VNCH vượt bến phà Neak Luoeng tới thủ đô Nam Vang. Thủy lộ từ Vũng Tàu lên đến biên giới Miên – Việt thuộc các quận Tân Châu, Hồng Ngự dài khoảng 150 hải lý. Các tầu biển từ Vũng tầu lên Nam Vang thường neo nghỉ đêm tại Ngã Ba Ðèn Ðỏ gần Bắc Mỹ Thuận thuộc tỉnh Vĩnh Long trước khi ngược giòng Cửu Long tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến Tân Châu, các thương thuyền lại ngừng một lần nữa neo nghỉ đêm để quan thuế và thay đổi hoa tiêu trước khi vượt biên giới sang Cam Bốt. Ðiểm neo cuối cùng của các thương thuyền trong lãnh thổ Việt Nam này là ngã ba sông ngay trước quận Tân Châu.

Biết được sông Cửu Long là đường huyết mạch duy nhất còn lại có thể giúp cho chính quyền Lon Nol và cả nuớc Cam Bốt sống thoi thóp, Cộng quân quyết định mở một chiến dịch lớn nhằm bóp nghẹt thủy lộ tiếp vận sinh tử này bằng cách chiếm giữ khu vực quận Hồng Ngự. Nếu thành công, Cộng quân sẽ cắt đứt được thủy lộ qua Nam Vang, và thừa thắng, chúng có thể tràn sâu xuống vùng Kiến Tường – Mộc Hóa để tạo áp lực dọc Quốc Lộ 4 thuộc khu vực tỉnh Ðịnh Tuờng là trục lộ tối quan trọng từ Vùng IV về thủ đô Sài Gòn.

Ðể thực hiện ý đồ, khởi đầu, Cộng quân dàn một lực lượng chủ lực quân khá hùng hậu dọc theo vùng biên giới Miên – Việt thuộc các tỉnh Kiến Phong, Châu Ðốc, An Giang và Rạch Giá để nghi binh và tạo áp lực. Ðối diện bên phần đất Cam Bốt, khu vực thuộc các tỉnh Prey Veng, Kandal và Takeo cũng bị chúng tràn ngập. Lúc đó, vào đầu năm 1973, lực lượng Việt Cộng tại vùng này có tới 11 Trung Ðoàn chủ lực cộng thêm quân Khmer đỏ. Ngoại trừ từ 3 tới 4 Trung Ðoàn được phối trí trong phần đất Cam Bốt nhằm mục đích cầm chân lực lượng của Lon Nol, tất cả những đơn vị còn lại đều được xử dụng để tấn công vào khu vực Hồng Ngự.

Vì vậy, tình hình khu vực sông Cửu Long sát biên giới Miên – Việt thuộc khu vực Hồng Ngự trở nên vô cùng trầm trọng vì đôi bên đều quyết tâm dành quyền kiểm soát khu vực có tầm mức chiến lược vô cùng quan yếu này. Cộng quân dùng toàn lực cắt đứt thủy lộ sông Cửu Long để cô lập Cam Bốt và củng cố các trục xâm nhập vào Việt Nam qua ngả biên giới. Phía Hoa Kỳ không còn cách nào khác, phải tiếp tục tiếp tế cho Cam Bốt bằng mọi giá. Lúc đó, đa số các lực lượng tác chiến Hoa Kỳ đều đã rút khỏi Việt Nam trong khuôn khổ thỏa ước ngưng bắn Paris. Một số ít còn lại còn bị các đạo luật Cooper – Church của Quốc Hội Hoa Kỳ ngăn cấm không được than dự các cuộc hành quân bộ chiến ngoài biên giới Việt Nam. Vì vậy, chỉ còn các đơn vị QLVNCH để ngăn chặn đường xâm nhập người và vũ khí của địch quân, và cũng để bảo vệ thủy lộ Cửu Long để việc tiếp tế cho đồng minh Cam Bốt không bị ngưng trệ.

Cộng quân mở đầu chiến dịch bằng cách phong tỏa, tạo áp lực nặng nề mong đánh chiếm quận Hồng Ngự, một thị trấn nhỏ nằm ngay trên cửa rạch Hồng Ngự đổ vào sông Cửu Long. Như trên đã nói, nếu chiếm được Hồng Ngự, không những chúng sẽ khóa chặt được yết hầu của thủy lộ Cửu Long từ Việt Nam sang Cam Bốt, mà đồng thời cũng mở rộng được địa bàn hoạt động và cánh cửa xâm nhập từ Cam Bốt vào khu vực Ðồng Tháp Mười khiến Quốc Lộ 4 từ Hậu Giang về thủ đô Sài Gòn cũng bị đe dọa.

Vào tháng 3 năm 1973, Cộng quân tập trung một lực lượng đông đảo lên tới cấp Sư Ðoàn để tiến chiếm mục tiêu Hồng Ngự. Bộ chỉ huy chiến dịch của Cộng quân đóng tại khu vực Hậu Cần 704 thuộc tỉnh Prey Veng bên Cam Bốt, giáp ranh tỉnh Kiến Phong. Các đơn vị Cộng quân gồm Trung Ðoàn 207 thuộc Công Trường 6, Trung Ðoàn 174 thuộc Công Trường 5, Trung Ðoàn 272 thuộc Công Trường 9 (theo tin tình báo, thành phần còn lại của Công Trường 9 vẫn còn lẩn quẩn tại khu vực rừng cao su Michelin (Dầu Tiếng) thuộc Quân Khu III) và một đơn vị pháo thuộc Trung Ðoàn Pháo 75. So sánh lực lượng đôi bên, Cộng quân hoàn toàn chiếm ưu thế, vừa đông quân, vừa di động, lại có pháo tầm xa hạng nặng yểm trợ. Lực lượng phòng thủ quận Hồng Ngự nhỏ bé không có Chủ Lực Quân, chỉ có Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân cơ hữu và một số giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong tăng phái phòng thủ. Ngoài ra, với những đồn bót cố định phòng thủ sơ sài, các đơn vị cơ hữu của Chi Khu Hồng Ngự là mục tiêu rõ ràng và mồi ngon cho đạn pháo binh Việt Cộng. Chỉ có những giang đĩnh Hải Quân tăng phái với khả năng di động và hỏa lực mạnh trấn giữ mặt sông mới có khả năng chống trả và làm khó dễ được địch quân.

Trung Ðoàn 207 của Cộng quân được xử dụng làm nỗ lực xung kích chính vượt biên giới đánh thẳng vào Hồng Ngự. Lợi dụng yếu tố bất ngờ và hỏa lực mạnh, địch quân dùng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung và Biển Người tràn ngập một số đồn bót hẻo lánh gần biên giới hay dọc theo kinh rạch do Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự trấn đóng. Ða số những đồn bót khác nằm sâu hơn trong lãnh thổ Việt Nam tuy chưa bị đánh chiếm nhưng cũng bị Cộng quân bao vây, cô lập và uy hiếp nặng nề khiến việc tăng viện hay tiếp tế hầu như không thể thực hiện nổi.

Tuy bị lực lượng địch quân có hỏa lực mạnh và đông hơn gấp bội tấn công bất ngờ, các chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự lợi dụng địa hình quen thuộc đã chống trả hữu hiệu, tạm thời chặn được bước tiến của địch quân vào quận lỵ. Nhưng trước lực lượng đông đảo của quân chính qui Bắc Việt, phía VNCH chỉ có những đơn vị cơ hữu của Chi Khu chống giữ nên tình hình rất khẩn trương, quận Hồng Ngự có thể bị mất bất cứ lúc nào. Càng ngày, vòng vây của Cộng quân càng xiết chặt. Chúng bắn hàng trăm hỏa tiễn 122 ly vào quận lỵ gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như tài sản của dân chúng. Quận Trưởng Hồng Ngự là Thiếu Tá Thái Lê Trương, một sĩ quan trẻ, xuất sắc trước đây thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh, tuy đã anh dũng điều động các đơn vị trực thuộc chống trả, nhưng trước tình trạng tuyệt vọng, đã liên tiếp yêu cầu Tiểu Khu Kiến Phong xin Chủ Lực Quân tăng viện khẩn cấp.

Trong lúc đó, về phía Hoa Kỳ, các Pháo Ðài Bay B-52 và các phi cơ chiến lược liên tiếp dội bom vào các vị trí Cộng quân dọc theo bờ Ðông sông Cửu Long từ biên giới Miên – Việt tới Nam Vang để ngăn chặn địch phong tỏa thủy lộ. Những trận dội bom nay đã gây thiệt hại khá nặng cho lực lượng Cộng quân trên đường đánh chiếm Hồng Ngự khiến đà tiến của chúng bị chậm lại phần nào. Ðặc biệt, trong cuộc oanh tạc của Pháo Ðài Bay B-52 vào ngày 20 tháng 3, Cộng quân phải bắt dân dùng xe bò chở đi hàng trăm xác chết và mùi tử khí vẫn còn nồng nặc cả tuần sau đó.

Trong khi chờ đợi quân bộ chiến tới tăng viện, Tiểu Khu Kiến Phong yêu cầu Hải Quân tiếp ứng để ngăn chận Cộng quân tràn qua sông Cửu Long cũng nhu Rạch Hồng Ngự đánh chiếm quận lỵ. Nhưng lực lượng Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi lúc đó chỉ có Giang Ðoàn 31 Xung Phong đã tăng phái chi Tiểu Khu Kiến Phong, lại đang bận hành quân tại vùng Ðồng Tháp Mười giáp ranh tỉnh Ðịnh Tường nên không giúp đỡ gì được. Vì vậy, một phân đội giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang hoạt động với Chi Khu Tân Châu thuộc tỉnh An Giang liền được điều động đến tăng viện chi Chi Khu Hồng Ngự. Tuy chỉ có một số giang đĩnh nhưng phân đội này đã ngày đêm tuần tiễu, phục kích, bắn chìm nhiều xuồng chở quân của địch mưu toan di chuyển từ bờ Ðông sông Cửu Long sang cù lao Long Khánh. Vì vậy, áp lực của Cộng quân tương đối giảm vì một gọng kìm tấn công của địch quân đã bị Hải Quân bẻ gẫy.

Nhưng những cuộc dội bom của Không Quân Hoa Kỳ cộng thêm sự yểm trợ ban đầu tại các vùng ven sông rất đắc lực của Hải Quân cũng chỉ có thể giúp các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân tạm thời cầm cự. Viện quân của địch tự do tràn qua vùng biên giới bỏ ngỏ mỗi ngày một tiến gần mục tiêu từ hướng sâu trong nội địa khiến tình hình lại thêm khẩn trương. Một lần nữa, Thiếu tá Trương lại hối thúc Tiểu Khu Kiến Phong xin tăng viện gấp.

VI. Giang Ðoàn 26 Xung Phong Tham Chiến

(Xem Phóng Ðồ Hành Quân)

Trước tình thế mỗi lúc mỗi nguy ngập một mất một còn của Chi Khu Hồng Ngự, Tiểu Khu Kiến Phong vội liên lạc với Quân Ðoàn IV tại Cần Thơ để cầu cứu. Nhưng lúc đó, các đơn vị bộ binh thuộc Sư Ðoàn 9 là đại đơn vị chủ lực chịu trách nhiệm lãnh thổ Tiểu Khu Kiến Phong đang bận tham chiến tại các mặt trận khác nên không thể nào tiếp viện kịp thời. Một lần nữa, Hải Quân lại đảm đang trọng trách. Theo yêu cầu khẩn cấp của Quân Ðoàn IV, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi do Hải Quân Ðại Tá Vũ Ðình Ðào (sau này được vinh thăng Phó Ðề Ðốc) chỉ huy, liền tức tốc ra lệnh Giang Ðoàn 26 Xung Phong rút tất cả các giang đĩnh đang tăng phái ở các nơi khác về tập trung tại hậu cứ Long Xuyên chờ lệnh. Sau đó, toàn bộ Giang Ðoàn do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm chỉ huy liền được điều động lên chiến trường Hồng Ngự, cùng với toán giang đĩnh đang hoạt động tại đó để tăng cường lực lượng phòng thủ Chi Khu Hồng Ngự.

Ngay khi tới vùng hành quân, các giang đĩnh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã phải trực tiếp đương đầu với hỏa lực nặng nề của Cộng quân từ hai bờ sông chờ sẵn. Ðoán biết trước các giang đĩnh Hải Quân là lực lượng tăng viện duy nhất, địch quân đào sẵn các hầm hố, công sự kiên cố bố trí súng nặng bên bờ sông để ngăn chận. Rất may, khúc sông Cửu Long quanh Hồng Ngự khá rộng nên chúng không gây được thiệt hại nào đáng kể. Theo kế hoạch phòng thủ hoạch định với Chi Khu, các giang đĩnh được xử dụng như những đồn bót di động dàn dọc theo bờ sông như bức tường thành để ngày đêm bắn chặn, không cho địch quân di chuyển qua sông. Ngoài nhiệm vụ chặn địch, những giang đĩnh này còn đảm trách việc yểm trợ hỏa lực cũng như tản thương và tiếp tế cho các đồn bót ven sông đã bị địch vây hãm từ lâu.

Với sự chiến đấu quả cảm của các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự, cộng với các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong ngày đêm tuần tiễu và yểm trợ rất hữu hiệu, Cộng quân tạm thời bị chận đứng. Mũi dùi quan trọng của địch quân toan đánh bọc vào sườn phía Tây của Chi Khu Hồng Ngự bị Hải Quân bẻ gẫy vì chúng không thể vượt qua sông, do đó địch chưa thể chiếm được quận lỵ. Tuy mặt Tây đã có Hải Quân trấn giữ nên tạm thời ổn định, nhưng tình hình tại mặt Bắc lại trở nên vô cùng nguy ngập vì địch quân đã tiến sát bờ rạch Hồng Ngự, chì còn cách Chi Khu vài ba cây số. Hàng ngày, Cộng quân dùng đủ mọi loại vũ khí, kể cả súng bắn thẳng pháo kích vào Hồng Ngự. Các giang đĩnh án ngữ trên mặt sông để chặn địch cũng bị nhắm bắn dữ dội.

VII. Lực Lượng VNCH Tăng Viện

Mãi tới khoảng trung tuần tháng 4 năm 1973, Sư Ðoàn 9 Bộ Binh mới tương đối rảnh tay ở những mặt trận khác nên điều động Trung Ðoàn 15 Bộ Binh và Chi Ðoàn 2 Thiết Quân Vận tới tăng viện. Sư Ðoàn 9 Bộ Binh lúc đó do Chuẩn Tướng Trần Bá Di chỉ huy, còn Trung Ðoàn 15 Bộ Binh do Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn làm Trung Ðoàn Trưởng. Vào cuối tháng 4 năm 1975, Ðại Tá Cẩn là Tỉnh Trưởng Chương Thiện, đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Ông bị Việt Cộng bắt đưa về xử tử tại sân vận động Cần Thơ.

Về phía Hải Quân, một Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ngọc Bích xuất thân khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy cũng được gấp rút thành lập để phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ Binh tại chiến trường Hồng Ngự. Liên Ðoàn này được đặt dưới sự điều động của Lực Lượng Ðặc Nhiệm 212 tức là Lực Lượng Tuần Thám do Hải Quân Ðại Tá Nghiêm Văn Phú làm đơn vị trưởng. Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân gồm có các đơn vị sau đây:

  1. Giang Ðoàn 26 Xung Phong do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm chỉ huy. Ðơn vị này đã tham chiến từ trước.
  2. Một phân đội Giang Tốc Ðĩnh (PBR – Patrol Boat River) thuộc Giang Ðoàn 58 Tuần Thám do Thiếu Tá Trần Thanh Khải chỉ huy. Thành phần còn lại của Giang Ðoàn này đang tăng cường mặt trận Phước Xuyên và Tuyên Nhơn trong vùng Ðồng Tháp Mười. Hậu cứ của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám đặt tại Tân Châu.
  3. Cơ Xưởng Hạm 9613 do Ðại Úy Cơ Khí Nguyễn Duy Tuệ chỉ huy. Ðây không phải là một chiến hạm có máy để tự vận chuyển mà chỉ là một cơ xưởng sửa chữa và tiếp vận nổi neo tại An Long ngay vàm kinh Ðồng Tiến. Cơ Xưởng Hạm này được dùng làm trạm sửa chữa và tiếp vận tiền phương cho các giang đĩnh và cũng là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm.
  4. Tiền Doanh Yểm Trợ Chợ Mới là căn cứ tiếp vận chính, đồn trú tại Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên do Hải Quân Thiếu tá Phạm Văn Tiêu xuất thân khóa 7 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy.
  5. Giang Pháo Hạm 328 do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm hạm trưởng. Thiếu Tá Phú xuất thân khóa 16 Trường Võ Bị Ðà Lạt, nhưng chọn quân chủng Hải Quân sau khi tốt nghiệp nên tiếp tục theo học khóa 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Chiến hạm này do Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.

Trong số các đơn vị Hải Quân kể trên, Giang Ðoàn 26 Xung Phong được coi là thành phần chủ lực gồm toàn bộ 19 giang đĩnh đủ loại tham chiến, với đầy đủ khả năng hành quân thủy bộ, yểm trợ hải pháo, chuyển vận, tuần tiễu, án ngữ cũng như tiếp tế. Các giang đĩnh PBR có vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng thường được xử dụng trong các cuộc tuần thám và phục kích ban đêm. Chiến hạm tăng phái với các loại đại bác 76 ly và 40 ly đảm trách nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị hành quân.

Ngay khi lực lượng tăng viện tới vùng hoạt động, các đơn vị trưởng lập tức bàn thảo kế hoạch giải tỏa áp lực địch trong vùng và nhất là quét sạch địch quân bố trí tại bờ Ðông sông Cửu Long từ Hồng Ngự lên tới biên giới Miên – Việt. Lúc này, tuy lực lượng địch còn rất mạnh vì chúng chiếm giữ khu vực ven sông ngay phía bắc Chi Khu, nhưng cán cân lực lượng đôi bên không còn chênh lệch nhiều như trước. Hơn nữa, các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu được tăng viện và yểm trợ hữu hiệu nên lên tinh thần, chiến đấu rất hăng hái.

VIII. Các Trận Ðánh Quan Trọng

Liên tiếp trong khoảng thời gian chừng hai tháng (từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1973), các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã tích cực đóng góp vào nỗ lực bảo vệ quân Hồng Ngự chống lại áp lực của Trung Ðoàn 207 Cộng quân. Ngoài nhiện vụ tuần tiễu thường xuyên để ngăn chận địch quân xâm nhập bằng đường sông cũng như phối hợp, yểm trợ Trung Ðoàn 15 Bộ Binh và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự, Giang Ðoàn 26 Xung Phong còn trực tiếp tham dự vào nhiều trận đánh lớn quan trọng.

1. Trận Ðánh Tại Rạch Hồng Ngự

Ngay khi Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh vừa đến vùng Hồng Ngự, Thiếu Tá Thái Lê Trương, Chi Khu Trưởng đã yêu cầu các đơn vị Bộ Binh và Hải Quân tăng phái tìm mọi cách đẩy lui địch khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự. Lý do vì tuy Cộng quân tuy không vượt được con rạch để đánh chiếm Chi Khu, nhưng chúng vẫn hàng ngày pháo kích vào quân Hồng Ngự, gây thiệt hại nặng nề cho dân chúng. Rạch Hồng Ngự ăn thông với rạch Cái Cái chạy tới biên giới Việt – Miên, rộng chừng 100 thước, từ trước tới nay vẫn là “giới tuyến” của đôi bên. Cộng quân tuy chiếm giữ được mặt Bắc nhưng không thể vượt qua con rạch vì bị các giang đĩnh Hải Quân chận đứng. Trong khi đó, lực lượng phòng thủ tuy giữ được mặt Nam nhưng lại không có đủ lực lượng đổ bộ để đẩy lui địch quân. Vùng chợ Hồng Ngự nằm ở mặt Nam tuy chỉ cách Chi Khu chừng một cây số, nhiều khi đã được coi như vùng “sôi đậu” vì địch quân xâm nhập.

Sau khi phối hợp với Trung Ðoàn 15 BB và Chi Khu theo kế hoạch hành quân, Giang Ðoàn 26 Xung Phong lãnh nhiệm vụ dùng 4 LCM-6 chở một Tiểu Ðoàn Bộ Binh sang sông bằng hai đợt. Khi nhiệm vụ chuyển quân hoàn tất, các giang đĩnh sẽ tuần tiễu, án ngữ và yểm trợ cho lực lượng Bộ Binh càn quét bờ Bắc. Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong chịu trách nhiệm chỉ huy cuộc hành quân đổ bộ, Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh có nhiệm vụ chỉ huy cánh quân sau khi đổ bộ để tiêu diệt địch quân trong vùng mục tiêu chỉ định.

Ðể các giang đĩnh chở quân ủi bãi dễ dàng, Giang Ðoàn 26 Xung Phong chọn giờ đổ quân vào lúc hừng sáng khi mực thủy triều cao nhất để bộ binh có thể lên bờ không bị trở ngại và tràn vào mục tiêu cùng một lúc. Hơn nữa, việc nhận quân vào lúc ban đêm tại bãi ủi ngoài bờ sông Cửu Long nằm về phía Nam Chi Khu Hồng Ngự cũng có thể tránh địch pháo kích và khiến chúng không thể quan sát hay đoán biết ý đồ hành quân.

Theo đúng kế hoạch, sau khi nhận quân, đoàn giang đĩnh di chuyển dọc theo bờ Ðông sông Cửu Long, quẹo phải vào rạch Hồng Ngự đúng giờ dự trù. Tuy con rạch rộng chừng 100 thước, nhưng có rất nhiều hàng đáy của dân đánh cá nên phải di chuyển rất chậm và khó khăn. Một số giang đĩnh yểm trợ gồm LCVP và FOM đi trước dẫn đường, vào sâu trong rạch quá mục tiêu chừng ba cây số, gần một đồn Nghĩa Quân rồi tác xạ dữ dội quanh đồn như để yểm trợ hỏa lực để làm kế hoạch nghi binh. Các giang đĩnh chở quân theo sau vào điểm đổ quân đúng lúc hừng sáng. Chỉ trong vòng 15 phút, nửa Tiểu Ðoàn Bộ Binh đã lên bờ, thiết lập đầu cầu an toàn. Nửa Tiểu Ðoàn còn lại được các LCM-6 đưa thẳng từ bờ Nam qua. Trong lúc lực lượng Bộ Binh chia thành nhiều mũi tiến chiếm các mục tiêu được chỉ định trước, các giang đĩnh Hải Quân di chuyển qua bờ Nam ủi bãi rải rác để sẵn sàng yểm trợ cho cánh quân đổ bộ khi cần.

Khi trời vừa sáng rõ, Cộng quân từ các công sự phòng thủ kiên cố tuy bị bất ngờ nhưng cũng chống trả dữ dội. Từng loạt thượng liên và AK bắn xối xả vào các chiến sĩ Bộ Binh đang lăn xả vào mục tiêu. Nhưng địch phản ứng quá trễ, các chiến sĩ Trung Ðoàn 15 đã tiến đến quá gần, từng trái lựu đạn, từng loạt đạn M-79 thẩy vào hầm hố của chúng khiến nhiều tên bị tan thây tại chỗ. Trận đánh chớp nhoáng kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, nguyên một Tiểu Ðoàn Cộng quân coi như bị diệt gọn. Tuy nhiên, còn một vị trí súng cối 82 ly được một tổ thượng liên và một toán B-40 yểm trợ vẫn còn hoạt động. Cả ba ổ súng này bố trí theo hìng tam giác, liên hoàn yểm trợ lẫn nhau gây trở ngại không ít cho các chiến sĩ Bộ Binh, sau nhiều đợt xung phong bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không sao tiêu diệt được.

Tại bờ rạch phía Nam, trên giang đĩnh chỉ huy nơi đặt Bộ Chỉ Huy hành quân thủy bộ gồm Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong và Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh, mọi người đều nhìn thấy rõ ràng toán Bộ Binh bò sát đất lẻn vào gần vị trí của Cộng quân, nhưng các ổ súng của chúng đều được chôn dấu kỹ trong các công sự đằp bằng đất rất dầy nên lựu đạn và M-79 không phá tan được. Vì vậy, sau nhiều đợt xung phong không những vô hiệu quả, còn có một số binh thương vong. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh nôn nóng ra lệnh cho binh sĩ tìm đủ mọi cách tấn công tiếp, nhưng vẫn bị chận lại, còn thêm một số binh sĩ vừa chết vừa bị thương kẹt dưới lằn đạn của đối phương. Ðể tránh thiệt hại thêm cho lực lượng bạn, Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong đề nghị dùng súng cối 81 ly cơ hữu trên giang đĩnh liên tiếp bắn phủ đầu vào mục tiêu để địch khó ngóc đầu lên quan sát, đồng thời cho Thiết Giáp Ðĩnh “Monitor Combat” với đại bác 40 trực xạ sẽ bất thần tiến sang bên kia sông, chỉ các mục tiêu chừng 300 thước, dùng đại bác 40 ly bắn thẳng vào các ụ đất để san phẳng các ổ súng địch. Tuy nhiên, việc xử dụng hỏa lực Hải Quân bắn thẳng này có thể gây thiệt hại cho số bộ binh đang nằm kẹt giữa mục tiêu và lằn đạn Hải Quân.

Tuy kế hoạch hơi nguy hiểm, nhưng vì không còn lựa chọn nào khác nên được đồng ý và thi hành ngay. Chiếc giang đĩnh chỉ huy rời bãi ủi tiến ra giữa lòng rạch, vừa chạy thật chậm, vừa tác xạ súng cối. Chiếc Thiết Giáp Ðĩnh cũng lập tức tiến sang bờ rạch bên kia, pháo tháp 40 điều chỉnh nhắm thẳng vào mục tiêu trong khi khẩu đại liên 50 gắn chung trong pháo tháp khạc đạn liên hồi để mở đường. Khi đã ủi bãi vào vị trí thuận tiện, khẩu 40 ly lập tức bắn từng loạt đạn vào các ụ đất đặt súng của địch quân. Vì khoảng cách không xa, vị trí của giang đĩnh lại cố định nên việc tác xạ rất chính xác và hiệu quả. Mỗi viên đạn bắn trúng mục tiêu lại thổi bay đi một mảng đất lớn. Sau chừng 50 viên đạn, Cộng quân dường như đoán được ý định của lực lượng tấn công nên chuyển xạ, quay súng nhắm vào các giang đĩnh bắn trả dữ dội. Các ổ thượng liên và B-40 nhắm vào chiếc Thiết Giáp Ðĩnh, trong lúc hàng loạt đạn súng cối bắn ra ngoài rạch nhắm vào các giang đĩnh đang tuần tiễu. Tuy là những mục tiêu lớn và trống trải dưới hỏa lực của Cộng quân, nhưng các giang đĩnh vẫn bám sát khu vực hành quân. Nhiều quả đạn súng cối rơi sát giang đĩnh chỉ huy khiến một số thủy thủ và bộ binh trên giang đĩnh bị thương vì trúng mảnh đạn. Nhưng địch đã không còn đường thoát. Chỉ trong khoảnh khắc, các quả đạn 40 ly liên tiếp bắn trúng mục tiêu đã san bằng những vị trí đặt súng cố thủ cuối cùng của chúng. Khi tiếng súng địch im hẳn trên chiến trường, toán bộ binh trên bờ lập tức tiến vào lục soát các mục tiêu vừa bị Hải Quân bắn phá. Kết quả họ tịch thu được 1 khẩu súng cối 82 ly, 1 thượng liên, 2 khẩu B-40 và 7 khẩu AK.

Kết quả trong trận đánh quan trọng này, địch quân bị đẩy lui khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự, áp lực của chúng coi như không còn đáng kể. Phía Bộ Binh bị thiệt hại trung bình. Phía Hải Quân, nhiều giang đĩnh bị trúng đạn địch quân nhưng không có chiếc nào bị chìm hay bất khiển dụng. Về nhân sự chỉ có 5 người bị thương, 1 nặng, 4 trung bình. Khi nhận được công điện báo cáo kết qủa hành quân, thượng cấp chỉ thị Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong dù đã bị thương, nhưng không nặng lắm nên vẫn tiếp tục ở lại vùng hành quân, không tản thương cho đến khi có lệnh mới.

https://benxua.files.wordpress.com/2018/12/FOM-mau-nguy-trang..jpg?w=426&h=641

2. Trận Ðánh Tại Thường Phước

Bị đánh bật ra khỏi khu vực Hồng Ngự, Cộng quân tuy bị thiệt hại khá nặng nhưng chúng vẫn lì lợm cố bám chặt khu Thường Phước nằm trên bờ Ðông sông Cửu Long, đối diện Tân Châu đến biên giới. Tuy không chiếm được Hồng Ngự để khống chế thủy lộ sông Cửu Long, nhưng địch vẫn còn đủ lực lượng phong tỏa bờ Ðông để ngăn chận các thương thuyền từ Việt Nam lên tiếp tế Nam Vang.

Khúc sông ngay trước mặt quân Tân Châu là nơi thương thuyền tập trung để quan thuế kiểm soát và chuẩn bị trước khi ngược dòng Cửu Long. Ðây là điểm neo thứ nhì trên đường đi Nam Vang, sau điểm neo gần Bắc Mỹ Thuận tại khu vực Ngã Ba Ðèn Ðỏ. Nếu Cộng quân còn kiểm soát dược vùng Thường Phước đối diện, không những các thương thuyền tại điểm neo bị đe dọa, mà ngay cả quận Tân Châu thuộc tỉnh An Giang cũng nằm trong tầm pháo kích của chúng.

Về địa thế, Thường Phước là một vùng đất bằng với nhiều cánh đồng trống trải kéo dài tới tận bờ sông đối diện Tân Châu. Bờ sông Cửu Long tại vùng này là phía đất bồi, trong khi Tân Châu là bờ đất lở. Dân cư tại đây rất thưa thớt, đa số sống về nghề ruộng rẫy.

Khi cánh quân của Trung Ðoàn 15 Bộ Binh có Hải Quân yểm trợ từ Hồng Ngự đánh dần lên hướng Tây Bắc, Cộng quân yếu thế lùi dần về vùng biên giới Việt – Miên. Tuy địch rất muốn vượt sông Cửu Long để đánh chiếm Tân Châu, nhưng chúng không thực hiện được ý đồ này vì khúc sông này bị các giang đĩnh thuộc Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân phong tỏa.

Vào koảng cuối tháng 4-1973, Cộng quân thu thập tàn quân chừng một Tiểu Ðoàn đóng chốt tại các vị trí ven sông vùng Thường Phước nhằm uy hiếp các thương thuyền đang từ Vũng Tàu di chuyển tới. Ðể giải tỏa áp lực địch, Bộ Chỉ Huy Hành Quân hỗn hợp Bộ Binh và Hải Quân đặt tại Chi Khu Hồng Ngự liền soạn thảo một kế hoạch hành quân theo thế “Trên Ðe Dưới Búa” đánh vào vùng Thường Phước. Theo kế hoạch này, Trung Ðoàn 15 Bộ Binh có nhiệm vụ đánh bọc hậu để dồn địch ra gần bờ sông, sau đó sẽ án binh tại chỗ để làm nút chặn. Phần Hải Quân sẽ dùng hỏa lức cơ hữu từ các giang đĩnh để tiêu diệt toán Cộng quân này.

Cuộc hành quân diễn tiến đúng theo kế hoạch dự trù. Nhiều toán Cộng quân bị các chiến sĩ Trung Ðoàng 15 Bộ Binh lùa từ phía sau lưng, phải lui dần ra bờ sông. Bờ sông Cửu Long tại Miền Nam thường một bên cao một bên thấp, bên lở bên bồi không đồng đều nhau. Nếu bờ sông nằm giữa luồng nước, đất sẽ bị nước xoi mòn và lở dần. Ngược lại, bờ sông phía đối diện sẽ được đất bồi thêm thành những bãi sông hay cù lao. Thí dụ như vùng bờ sông Sa Ðéc là khu đất lở khiến nhiều nhà cửa bị đổ sụp xuống sộng, trong khi bờ sông bên kia thuộc tỉnh Kiến Phong là vùng đất bồi với nhiều cù lao trù phú. Tân Châu thuộc vùng đất lở nên bờ sông rất cao, còn bờ sông Thường Phước đối diện thuộc khu đất bồi nên bờ sông thấp với những bãi cát chạy lài tới mé sông. Từ bờ sông cao phía Tân Châu, dân chúng có thể dùng mắt thường trông thấy bóng Cộng quân mặc quần áo kaki vàng ẩn hiện trong những ruộng rẫy bên bờ sông đối diện. Các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong xử dụng đại bác và đại liên bắn thẳng vào đám Cộng quân chưa kịp tìm chỗ trú ẩn. Ðặc biệt, hai giang đĩnh Monitor cập vào những chiếc xáng vét đất neo giữa dòng sông, dùng súng cối 81 ly và đại bác 40 ly liên tục nã đạn vào địch quân.

Trận đánh xảy ra giữa ban ngày, vào khoảng 3 giờ chiều. Dân chúng Tân Châu đứng chật ven bờ sông chứng kiến tận mắt. Dọc theo mé sông Tân Châu có một tòa nhà trắng rất lớn xây bằng bê tông, cao 5 tầng. Nghe nói đây là trụ sở của Ty Quan Thuế thời Pháp thuộc. Từ lan can của toà nhà này, dân chúng theo dõi, vỗ tay reo hò vang dội mỗi khi súng Hải Quân bắn trúng nơi Cộng quân ẩn ẩn trốn phía bên kia sông. Trên những chiếc xáng, nơi hai giang đĩnh chủ lực của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang cột tạm để lấy hướng tác xạ cho chính xác, nhiều nhân viên tự động đem nước ngọt, bia, cơm ra mời những chiến sĩ Hải Quân đang bận rộn bắn vào đầu địch! Có lẽ đây là lần đầu tiên trong hải nghiệp, các chiến sĩ áo trắng thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong vừa uống … bia, vừa giáng những đòn chí tử vào địch quân đang thất thế chơ vơ giữa đồng trống!

Sau trận đánh hiếm có này, một số tù binh cho biết họ thuộc Trung Ðoàn 207 và Tiểu Ðoàn Cộng quân bị gài vào thế gọng kìm chỉ còn chừng 100 tên sông sót chạt thoát về phía biên giới. Về phía Bộ Binh và Hải Quân chỉ bị thiệt hại không đáng kể.

Trận đánh tại Thường Phước chấm dứt với sự thảm bại của Cộng quân. Ðịch bị đẩy xa khỏi vùng Hồng Ngự – Tân Châu về phía biên giới. Áp lực của chúng vào điểm neo thương thuyền tại Tân Châu cũng chấm dứt từ đó.

3. Hộ Tống Thương Thuyền Ði Nam Vang Lần Thứ Nhất: Chạm Trán Với Hỏa Tiển AT-3 Của Cộng Quân

Cũng khoảng trong thời gian đó, tình hình chiến sự tại quốc gia láng giềng Cam Bốt trở nên vô cùng sôi động với phần thắng lợi nghiêng về phía Cộng quân. Tuy vào năm 1970, liên quân Việt – Mỹ đã mở một cuộc hành quân vượt biên qui mô đánh qua Cam Bốt để tiêu diệt các cơ sở hậu cần và lực lượng Cộng quân, nhưng áp lực của chúng đè nặng trên thủ đô Nam Vang vẫn không giảm. Cộng quân, gồm quân Khmer Ðỏ do Pol Pot cầm đầu và đa số là bộ đội Cộng Sản Bắc Việt đã chiếm giữ hầu hết lãnh thổ Cam Bốt, ngoại trừ những thành phố lớn như Nam Vang, Takeo, Konpong Cham, hải cảng Sihanoukville còn được gọi là Kompong Som v.v… Ngoài ra, các trục đường bộ chính dùng để tiếp tế cho thủ đô Nam Vang cũng bị địch quân cắt đứt.

Do đó, để tiếp tế quân nhu cũng như nhu yếu phẩm như gạo, nhiên liệu v.v.. cho chính phủ thân Mỹ Lon Nol, chỉ còn hai con đường chính: một là không vận qua phi trường Pochen Tong nằm sát thủ đô Nam Vang, hai là bằng thủy lộ sông Cửu Long chạy dài từ Vũng Tàu thuộc Việt Nam lên tới Nam vang. Thủy lộ này dài chừng 350 cây số với trên 200 cây số nằm trên lãnh thổ Việt Nam từ Vũng Tàu Tới Tân Châu và khoảng chừng 150 cây số từ Tân Châu qua bến phà Neak Luoeng tới Nam Vang. Trên đường đi tới Nam Vang, đoàn tàu phải vượt qua một địa điểm chiến lược rất quan trọng, đó là bến phà Neak Luoeng thuộc tỉnh Banam, nằm vào khoảng giữa đường từ Tân Châu đến Nam Vang. Neak Luoeng lúc đó là một căn cứ hải quân quan trọng của Cam Bốt, vẫn còn nằm trong tay chính phủ Lon Nol, mặc dầu bị Cộng quân bao vây ngặt nghèo.

Mỗi đoàn tầu tiếp tế cho Nam Vang thường gồm khoảng 15 đến 20 chiếc mang hiệu kỳ nước ngoài. Chừng phân nửa trong số đó những thương thuyền chở hàng nhập cảng thông dụng như rượu, thuốc lá, đồ hộp v.v… Phân nửa đoàn tầu còn lại gồm những tầu dầu và xà lan chở gạo hay đạn dược. Những xà lan nàt đều lấy hàng tại bến tân cảng ngay sát thủ đô Sài Gòn. Ðây là những quân nhu và nhu yếu phẩm do Hoa Kỳ “viện trợ” cho chính quyền Lon Nol để chống lại bọn, Cộng Sản. Những xà lan đều không có máy nên phải dùng tầu dòng để kéo hay đẩy. Tầu dòng tuy nhỏ nhưng máy rất mạnh, có thể kéo hay đẩy thương thuyền trọng tải hàng chục nhàn tấn rất dễ đàng. Tuy nhiên, nếu phải kéo nhiều xà lan trong sông với mỗi sợi giây dòng tầu dài vài, ba trăm thước, đoàn xà lan sẽ rất dài, khó cho tầu dòng vận chuyển tại các khúc quanh hẹp.

Tưởng cũng nên nói thêm, sau này, vào khoảng đầu năm 1975, các tầu dòng kéo xà lan đạn lên Nam Vang đều thuộc hãng tầu Sea Pac nằm bên Khánh Hội. Ðây là một chi nhánh của hãng tầu Alaska Barge trụ sở đặt tại Seattle, tiểu bang Washington. Hãng Alska Barge chuyên dùng tầu dòng để kéo xà lan chở dụng cụ khoan dầu lửa lên vùng Bắc Hải thuộc Alaska. Chính phủ Hoa Kỳ ký giao kèo với hãng này để mướn chở đạn và nhiên liệu lên Cam Bốt. Tuy là một hãng tư nhưng chi nhánh Sea Pac của hãng Alaska Barge làm việc thẳng với cơ quan tình báo CIA của Hao Kỳ, tương tự như hãng máy bay tư Air America vậy. Thuyền trưởng của những tầu dòng Sea Pac sau này đa số là những cựu sĩ quan Hải Quân VNCH cấp tá. Ðại diện của hãng Sea Pac tại Sài Gòn là một người quốc tịch Mỹ tên Vladimir Solomon, với một phụ tá người Việt tên Vân.

Như trên đã nói, vì bị phong tỏa ngặt nghèo nên Cam Bốt hầu như chỉ còn trông cậy vào thủy lộ sông Cửu Long để sống còn. Phi trường Pochengton tuy vẫn còn hoạt động, nhưng vì bị Cộng quân bao vây, lại nằm trong tầm pháo kích nên máy bay lên xuống rất khó khăn. Vả lại, phi cơ không chở được nhiều hàng hóa như tầu biển hoặc xà lan nên việc tiếp tế bằng đường hàng không vừa nguy hiểm, vừa kém hữu hiệu. Cộng quân cũng biết rõ nhược điểm này nên cố bóp chết thủ đô Nam vang bằng cách đánh chiếm Hồng Ngự, được coi nhu yết hầu của thủy lộ sông Cửu Long từ Vũng Tàu lên Nam Vang.

Tuy nhiên, Cộng quân chỉ thu đạt được vài thành công nhỏ lúc ban đầu nhờ xử dụng một lực lượng chủ lực quân lớn cấp Trung Ðoàn bất ngờ tràn qua biên giới áp đảo lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân khiêm nhường thuộc Chi Khu Hồng Ngự. Về sau, với sự yểm trợ đắc lực của các giang đĩnh Hải Quân và được Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh tăng cường, Cộng quân bị đẩy lui về phía biên giới Việt – Miên như trên đã mô tả.

Khoảng cuối tháng 4 năm 1973, một đoàn thương thuyền khoảng 20 chiếc, trong số này có 5 xà lan chở đầy đạn dược và chất nổ tới Tân Châu trên đường tiếp tế cho Nam Vang. Ðoàn tầu bỏ neo ngay trước Căn Cứ Hải Quân Tân Châu cũng là hậu cứ của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho đoàn thương thuyền tại điểm neo được trao phó cho các Giang Tốc Ðĩnh (PBR – Patrol Boat River) của Giang Ðoàn Tuần Thám vì các chiến đĩnh này có vận tốc cao, vận chuyển rất mau lẹ. Tuy tình hình vùng Hồng Ngự – Tân Châu đã tạm thời ổn định, nhưng bờ Ðông của khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài khoảng 20 cây số vẫn do Cộng quân kiểm soát. Vì vậy, các Ðơn Vị Trưởng thuộc Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân nhóm họp tại Cơ Xưởng hạm HQ 9613 bỏ neo tại An Long, phía Nam Hồng Ngự để bàn kế hoạch hộ tống đoàn thương thuyền vượt qua biên giới. Chuyến hộ tống này sẽ rất gian nam, nguy hiểm vì số thương thuyền khá đông, địch lại biết rõ ta phải di chuyển qua thủy lộ duy nhất nên chắc chắn chúng đã đặt sẵn các ổ súng nặng chờ sẵn.

Bờ Ðông sông Cửu Long đối diện Tân Châu tức là khu vực Thường Phước là vùng đất bồi nên bờ sông tương đối bằng phẳng và thấp nên địa thế không thuận tiện cho địch quân đặt những ổ phục kích. Tuy nhiên, khi vượt quá lên phía Bắc chừng 5 cây số, từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới, bờ sông này lại trở thành khu đất lở với vách dựng đứng như một bức tường, mặt nước thấp hơn bờ sông chừng 10 thước. Do đó, các giang đĩnh tuy có hỏa lực mạnh, nhưng vì quá thấp nên vô hiệu đối với các ổ phục kích của Cộng quân đặt trong những hầm hố và địa đạo đào trên mặt bờ sông. Khi nước lớn (nước chảy ngược lại theo hướng Nam – Bắc, từ biển đổ vào sông), tầm súng của các giang đĩnh tuy tạm thời có thể bằn vào những mục tiêu trên bờ sông, nhưng những tầu kéo xà lan đạn lại rất khó vận chuyện khi bị dòng nước từ phía sau đẩy tới (nước xuôi). Vì sông hẹp nên các thương thuyền và xà lan phải đi theo đội hình hàng dọc, chiếc này nối đuôi chiếc kia, cách nhau chừng vài, ba trăm thước. Trong lúc di chuyển, điều tối quan trọng là các thương thuyền phải giữ đúng thứ tự và khoảng cách trong đội hình. Chỉ cần một thương thuyền di chuyển không đúng tốc độ trong đoàn, có thể những chiếc khác sẽ bị rối loạn, cả đoàn bị dồn lại hay đụng vào nhau. Ngoài ra, nếu bị tấn công trong lúc di chuyển, rất có thể các thủy thủ trên thương thuyền bị hoảng hốt vì không quen với súng đạn khiến đoàn tầu bị rối loạn hàng ngũ.

Biết được những trở ngại trên, Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân quyết định cho đoàn thương thuyền di chuyển ngay vào lúc con nước lớn vừa đứng và bắt đầu ròng. Căn cứ vào lịch thủy triều của Hải Quân, giờ thuận tiện nhất là lúc 9 giờ sáng. Chiến thuật hộ tống được hoạch định như sau:

– Ðoàn thương thuyền di chuyển theo đội hình hàng dọc như thường lệ, mỗi chiếc cách nhau chừng 200 thước, vận tốc khoảng 7 – 8 hải lý một giờ. Như vậy, đoàn thương thuyền dài chừng 4 cây số.

– Các tầu dòng kéo xà lan đạn chạy chậm sẽ xen kẽ với những thương thuyền.

– Các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong có hỏa lực mạnh sẽ dẫn đầu để bắn mở đường. Nhưng giang đĩnh nhỏ còn lại cùng với các PBR thuộc Giang Ðoàn 58 Tuần Thám di chuyển chung với đoàn thương thuyền để sẵn sàng yểm trợ khi cần.

– Những giang đĩnh hộ tống vừa di chuyển, vừa bắn tối đa vào bờ Ðông để mở đường và uy hiếp tinh thần đối phương.

– Trong trường hợp bị tấn công vào giữa đoàn thương thuyền, những chiếc nào đã qua được ổ phục kích vẫn tiếp tục đi qua biên giới, những chiếc òn lại sẽ tạm ngưng máy tại chỗ để tầu Hải Quân tập trung hỏa lực tiêu diệt ổ phục kích địch.

Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, sáng hôm sau, đoàn thương thuyền nhổ neo lúc trời sáng để sắp xếp đội hình di chuyển. Khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài chừng 35 cây số, dự trù đoàn thương thuyền sẽ vượt qua trong vòng 4 tiếng đồng hồ, gồm 1 tiếng để vận chuyển vào đúng thứ tự giang hành và khoảng 3 tiếng để di chuyển.

Ðúng 9 giờ sáng, chiếc Thiết Giáp Ðĩnh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong dẫn đầu đoàn tầu rời Tân Châu, theo sau là hai cặp FOM yểm trợ. Những thương thuyền và xà lan đạn theo kế tiếp xen kẽ bằng những giang đĩnh Hải Quân hộ tống. Khoảng 10 giờ sáng, dưới hỏa lực mạnh mẽ của đại bác 40 ly trực xạ và súng cối 81 ly mở đường bắn vào những điểm nghi ngờ bên bờ Ðông, đoàn tầu đi đến đồn Mương Kinh do Ðịa Phương Quân chi khu Hồng Ngự trú đóng an toàn. Nhưng khi vượt qua địa điểm này chừng vài cây số, Cộng quân từ những ổ phục kích đào sẵn trên bờ dưới nhưng lùm cây rậm rạp bắt đầu dùng súng B-40 bắn vào đoàn tầu khá dữ dội.

Theo đúng chiến thuật đã được trù tính trước, các giang đĩnh tập trung hỏa lực phản pháo dữ dội vào những ổ phục kích trên bờ sông. Những viên đạn đại bác 40 ly, 20 ly, M-79 và đại liên 50 cầy nát bờ sông làm tung lên một lớp bụi mỏng màu đỏ. Cây cối ngã gục dưới làn mưa đạn như bị đốn bằng một lưỡi hái khổng lồ. Một đoàn giang đĩnh đủ loại gồm cả các PBR trên 20 chiếc di chuyển thật chậm theo hướng Bắc, đội hình hàng dọc dài hơn 2 cây số khai hỏa tối đa về phía hữu hạm. Có lẽ vì hỏa lực quá mạnh của Hải Quân khiến đối phương hoảng sợ nên chúng chưa bắn trúng một thương thuyền nào. Các thương thuyền lúc đầu mất bình tĩnh khi bị bắn nên đội hình hơi rối loạn, nhưng khi thấy các giang đĩnh hải Quân phản pháo hữu hiệu, và nhất là thấy địch không gây được thiệt hại nào nên họ lại vững tâm di chuyển theo đúng đội hình đã được chỉ định. Dù bị tấn công, đoàn tầu vẫn di chuyển với tốc độ bình thường. Lúc này, nước đã bắt đầu ròng nên các tầu kéo xà lan đạn vận chuyển tương đối dễ dàng hơn, dù phải tăng máy để giữ đúng đội hình.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, khi đoàn tầu gần tới mỏm cù lao đối điện đồn Bến Ðình gần biên giới, đột nhiên từ bờ sông phía Ðông lóe ra nhiều đốm lửa như những làn chớp, tiếp theo là những luồng khói trắng bay ra hướng đoàn tầu. Chiếc xà lan đạn di chuyển ở vị trí thứ 5 bỗng nổ tung. Cũng cùng lúc đó, trên giang đĩnh chỉ huy của Giang Ðoàn 26 Xung Phong, các thủy thủ phát hiện một sợi giây nhỏ như sợi tơ từ trên trời rơi xuớng vắt ngang tầu. Thì ra, đây là sợi giây làm bằng Fiber Optic dùng để điều khiển loại hỏa tiễn AT-3, còn có tên là “Sagger” do Nga Sô chế tạo. Khi rời giàn phóng, hỏa tiễn AT-3 có mang theo một sợi giây nhỏ để xạ thủ có thể điều chỉnh đường bay trúng vào mục tiêu. Loại hỏa tiễn này thường chỉ được dùng để chống chiến xa, tương tự như loại hoả tiễn TOW (Tube-launch Optically-tracked Wire-guide) của Hoa Kỳ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân xử dụng loại vũ khí tối tân này để bắn các giang đĩnh. May mắn, chiếc hỏa tiễn nhắm vào giang đĩnh chỉ huy đã bay hơi cao nên trật mục tiêu. Có lẽ xạ thủ không giám ngóc đầu lên để điều khiển vì bị hỏa lực dữ dội của các giang đĩnh áp đảo.

Tuy nhiên, chiếc xà lan đạn bị trúng hỏa tiễn phát nổ dữ dội. Không may, chiếc xà lan này chở toàn những bành đạn đại bác 105 và 155 ly nên sức tàn phá vô cùng khủng khiếp. Nguy hiểm hơn nữa, chiếc tầu dòng xà lan này đã mở dây kéo nên xà lan gặp nước ròng trôi ngược về phía đoàn tầu, vừa trôi đạn vừa nổ dữ dội với lửa và khói bốc lên mù mịt cả một khúc sông.

Tình thế lúc đó hết sức nguy hiểm và căng thẳng. Nếu tiếp tục cuộc hành trình, chắc chắn những thương thuyền to lớn và chậm chạp kia sẽ là những mục tiêu tốt cho các dàn hỏa tiễn AT-3 khá chính xác đang chờ sẵn trên bờ sông. Ðó là chưa kể chiếc xà lan đạn bị nổ đang từ từ trôi ngược về hướng đoàn tầu, có thể tấp vào bất cứ một giang đĩnh hay thương thuyền nào gây thiệt hại nhiều thêm. Chẳng may nếu có một thương thuyền nào bị chìm, thủy đạo duy nhất sẽ bị tắc nghẽn! Do đó, ngoại trừ 4 thương thuyền đã vượt qua được biên giới hiện do Hải Quân Cam Bốt hộ tống, tất cả những chiếc còn lại được lệnh lập tức quay về điển neo Tân Châu dể chờ lệnh mới.

Ðể giải quyết chiếc xà lan đạn phát nổ đang trôi trên sông, Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã ra lệnh dùng súng đại bác 40 trực xạ bắn, nhưng lệnh chưa kịp thi hành thì xà lan tấp vào một đầu cồn không có dân cư tiếp tục nổ tới hết đạn nên không gây thiệt hại nào đáng kể.

Tieu giap dinh FOM tuan tieu tren song rach

4. Hộ Tống Lần Thứ Hai: Ðưa Thương Thuyền Qua Biên Giới “Bằng Mọi Giá”!

Trong chuyến hộ tống không hoàn toàn thành công vừa qua, tuy có 4 thương thuyền vượt được biên giới, nhưng cả 4 tầu dầu tiếp tế nhiên liệu khẩn cấp cho Nam Vang đều bị kẹt lại. Cam Bốt lúc đó đang bị thiếu hụt nhiên liệu trầm trọng vì không được tiếp tế đã gần hai tháng. Vì vậy, khi được tin các tần dầu đều phải quay về, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, có lẽ dưới áp lực của người Mỹ, đã gửi công điện thượng khẩn ra lệnh “Ðưa thương thuyền qua biên giới bằng mọi giá!” Lệnh này đã làm Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân rất khó xử, vì “bằng mọi giá” có nghĩa là chấp nhận thiệt hại đáng kể. Khi được yêu cầu giải thích rõ ràng thêm, thượng cấp cho biết: “Nếu cần, các giang đĩnh phải hy sinh nằm giữa lằn đạn địch và đoàn thương thuyền như một lớp khiên chắn đạn để đưa các thương thuyền qua biên giới”!

May mắn, tình hình chiến sự tại mặt trận Hồng Ngự lúc đó tương đối đã lắng dịu nên lực lượng Hải Quân có thể dồn hết nỗ lực vào công tác hộ tống. Ngoài ra, Trung Ðoàn 15 Bộ Binh cũng khá rảnh rang, đang càn quét và đẩy lui tàn quân địch về bên kia biên giới nên cũng có thể tiếp tay.

Về phía Hải Quân, nếu thi hành ngay chỉ thị “bằng mọi giá” của thượng cấp khi địch quân vẫn còn làm chủ bờ Ðông, các giang đĩnh và quân số sẽ bị thiệt hại nặng mà thương thuyền chưa chắc đã đi được. Ngược lại, nếu chần chờ, có thể Nam Vang sẽ hết nhiên liệu, hậu quả sẽ không lường được.

Sau khi bàn tính kỹ càng, các Ðơn Vị Trưởng Hải Quân đồng ý cần phải phối hợp với Bộ Binh để nhổ bứt các chốt AT-3 dọc theo bờ Ðông nếu muốn hoàn tất hộ tống. Dù sao, cuộc hành quân thủy bộ này cũng sẽ giúp Trung Ðoàn 15 sớm hoàn thành nhiệm vụ của họ là quét sạch Cộng quân khỏi khu vực từ Hồng Ngự đến biên giới. Kế hoạch hành quân vào ngày N được Bộ Binh và Hải Quân đồng ý như sau:

– Một cánh quân thuộc Trung Ðoàn 15 Bộ Binh từ vùng Thường Phước, mặt Bắc của Hồng Ngự, sẽ đánh dọc theo theo bờ Ðông của sông Cửu Long từ hướng Nam lên Bắc, hướng về biên giới Việt – Miên.

– Hải Quân sẽ được tăng phái 2 Ðại Ðội Bộ Binh, bất thần đổ bộ lên bờ Ðông gần biên giới, nơi nghi ngờ có các giàn hỏa tiễn AT-3. Nhiệm vụ của cánh quân này là càn quét từ Bắc xuống Nam, vừa đi vừa lục soát và tiêu diệt các ổ phục kích của địch. Sau đó, cánh quân này sẽ bắt tay với với thành phần từ mặt Nam đánh lên.

– Khi đổ bộ xong, các giang đĩnh sẽ lãnh nhiệm vụ yểm trợ cho Bộ Binh lục soát trên bờ, đồng thời án ngữ ngay tại những điểm nghi ngờ có ổ phục kích để hộ tống đoàn thương thuyền qua biên giới.

– Ðể đánh lạc hướng Cộng quân, phao tin đồn tại Tân Châu rằng các thương thuyền sợ bị thiệt hại nên sẽ nhổ neo trở về Vũng Tàu, bỏ ý định đi Nam Vang.

Tưởng cũng nên nói rõ, Cộng quân đã khai thác triệt để địa thế thiên nhiên của bờ Ðông sông Cửu Long. Vì bờ sông cao như một bức tường thành dựng đứng nên chúng đào hầm từ trên mặt đất trổ ra bờ sông thành những lỗ châu mai như hình chữ Y lộn ngược trông xuống lòng sông. Từ những lỗ châu mai này, địch đặt các ổ súng B-40, hỏa tiễn AT-3 có thượng liên yểm trợ có thể nhắm bắn dễ dàng vào các tầu bè di chuyển trên sông. Khi giang đĩnh phản pháo, đạn đại liên nếu may mắn lọt vào lỗ châu mai cũng không gây thiệt hại đáng kể. Chỉ những loại đạn “chạm nổ” như đại bác 40 ly, đại bác 20 ly hay M-79 bắn trúng ngay mục tiêu mới làm chúng hoảng sợ.

Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, trong khi chờ đợi ngày N để hộ tống đoàn thương thuyền lên đường, các giang đĩnh Hải Quân vẫn ngày đêm tuần tiễu khúc sông từ Tân Châu tới biên giới để phát hiện và ghi nhận những địa điểm phục kích của địch quân. Giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong tuy di chuyển chậm chạp hơn những PBR của Giang Ðoàn Tuần Thám, nhưng lại có hỏa lực khá mạnh nên được dùng làm chim mồi dụ địch quân lộ diện.

Ban ngày, những chiếc LCM-6 chậm chạp qua lại trên sông với nước chứa đầy hầm tầu khiến giang đĩnh chìm sâu hơn dưới mặt nước. Ðây là kế hoạch nghi binh khiến địch quân lầm tưởng những giang đĩnh chuyên về chuyển vận này đang chở quân hay chiến cụ đến một địa điểm bí mật nào đó. Ngoài ra, giang đĩnh di chuyển càng thấp sát mặt nước bao nhiêu, địch quân lại càng khó bắn trúng bấy nhiêu vì mục tiêu nhỏ hơn. Khi Cộng quân bắn ra, những giang đĩnh “chim mồi” di chuyển sát bờ sông phía Tây này chỉ bắn trả cầm chừng, vì nhiệm vụ chính là ghi nhận các tổ súng nặng đặt trong các miệng hầm thẳng đứng của chúng. Ban đêm, những giang đĩnh chuyển vận chậm chạp với tiếng máy lớn này dễ khiến cho địch quân để ý. Trong lúc đó, các PBR với vận tốc cao, di chuyển nhẹ nhàng sẽ lẻn sát bờ sông, dưới tầm súng của Cộng quân để dùng súng phóng lựu M-79 bắn vào các lỗ châu mai đã bị phát hiện của chúng. Chiến thuật này tỏ ra khá hữu hiệu vì đã tiêu diệt được một số ổ phục kích của địch quân.

Khoảng nửa đêm ngày N-1, Giang Ðoàn 26 Xung Phong nhận 2 Ðại Ðội thuộc Trung Ðoàn 15 Bộ Binh tại Hồng Ngự. Ba chiếc LCM-6 chở quân được 2 cặp FOM và chiếc Thiết Giáp Ðĩnh hộ tống lên đường hướng về phía biên giới cách Hồng Ngự chừng 40 cây số, Những giang đĩnh còn lại vẫn tham dự cuộc khuấy rối hàng đêm như thường lệ với các PBR của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám.

Nhận quân xong, toán giang đĩnh rời bãi ủi Hồng Ngự, trực chỉ hướng Bắc. Ðêm không trăng, những lùm cây rậm rạp bên bờ sông dường như dầy đặc hơn, trở thành những bóng ma đe dọa. Xa xa, chếch về hướng tay trái, ánh đèn điện của thị xã Tân Châu phản chiếu xuống mặt sông Cửu Long trông như những cặp mắt còn ngái ngủ. Tuy phải di chuyển về đêm, nhưng tất cả đèn trên các giang đĩnh đều được tắt hết để bảo mật. Các chiến sĩ Hải Quân đã quá quen thuộc với khúc sông này nên việc điều khiển con tầu không có gì trở ngại. Mọi người đều nóng lòng mong cho tới ngày hôm sau để sớm hoàn tất chuyến hộ tống gay go này. Trên cặp FOM dẫn đầu, vị Trung Úy trưởng toán đổ bộ bận rộn liên lạc trên máy truyền tin PRC-25 với những “con cá” trong đoàn, đồng thời duyệt lại kế hoạch với toán đổ bộ. Ðoàn tầu di chuyển theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau chừng 100 thước, vận tốc chừng 5 hải lý một giờ. Mặc dù với vận tốc chậm, nhưng tiếng máy dầu cặn như vẫn gầm rú trong đêm vắng, chắc chắn không thể nào tránh được sự chú ý của địch quân.

Chính vì không che mắt được địch quân nên Bộ Chỉ Huy Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã có kế hoạch hy vọng có thể khiến địch quân lạc hướng. Vừa qua khỏi Tân Châu với những ánh đèn vàng vọt hầu như đã nằm sau lái, tới đầu cồn đối diện với đồn Mương Kinh, đoàn giang đĩnh đột nhiên được tách ra làm hai. Các giang đĩnh chở quân và hộ tống đổi đường ép qua phía tay trái đi vào lạch sông nhỏ phía trong cồn để tránh bị phát hiện. Giờ này mức thủy triều cò khá cao nên không sợ bị mắc cạn. Chắc chắn vì đêm tối và bị cồn che khuất, Cộng quân bên kia bờ sông sẽ không nhận ra toán giang đĩnh quan trọng này. Những chiếc còn lại trong đoàn vẫn tiếp tục di chuyển phía ngoài cồn như trong các cuộc tuần tiễu thường lệ hàng đêm.

Rạng sáng ngày N, các LCM-6 chở quân đã tới sát đồn Bến Ðình gần biên giới. Còn gần 2 tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ G nên tạm ủi bãi, nằm chờ tại đầu cồn. Lúc này, chiếc Giang Pháo Hạm 328 do Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để yểm trợ hỏa lực cũng đã đến Tân Châu và đang vận chuyển vào vị trí yểm trợ hải pháo. Chiến hạm này do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm Hạm Trưởng. Thiếu Tá Phú nguyên xuất thân Khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, nhưng chọn Quân Chủng Hải Quân nên sau khi tốt nghiệp lại theo học Khóa 13 SQHQ Nha Trang. Giang Pháo Hạm 328 được trang bị một khẩu đại bác 76 trước mũi và nhiều dàn đại bác 40 ly và 20 ly. Quan trọng hơn, vì chiến hạm có tầm súng cao, lại có hỏa lực mạnh nên có thể tiêu diệt những mục tiêu nằm sâu trong đất liền. Vì Cộng quân đang chiếm giữ bờ sông phía Ðông từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới nên chiến hạm được chỉ định “nấp” sau đuôi cồn gần đồn Mương Kinh để tránh hỏa tiễn AT-3 của địch.

Ðúng 8 giờ sáng ngày N, các đơn vị hành quân đã vào đúng vị trí. Từ vùng Thường Phước, cánh Bộ Binh di chuyển dọc theo bờ sông, đánh về hướng Bắc. Trong lúc đó, Giang Pháo Hạm 328 tác xạ mở đường vào những mục tiêu nghi ngờ có địch ẩn núp. Riêng Giang Ðoàn 26 Xung Phong có nhiệm vụ đổ quân vào bờ đối diện với đồn Bến Ðình cũng thi hành nhiệm vụ giao phó. Tất cả các giang đĩnh đều dàn hàng ngang với những chiếc LCM-6 chở quân nằm giữa đội hình, từ đồn Bến Ðình đâm thẳng qua mục tiêu đối diện bên bờ Ðông, vừa di chuyển vừa tác xạ tối đa để dọn bãi. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chừng 15 phút, các giang đĩnh đã đến điểm đổ bộ. Trong lúc những giang đĩnh yểm trợ ủi bãi cách nhau chừng 100 thước và tác xạ tối đa vào các bụi tre và lùm cây trước mũi, các LCM-6 chở quân hạ cửa đổ bộ dể quân lên bờ. Ðúng lúc này, có một trục trặc nhỏ khiến cuộc đổ quân không được xuông xẻ như ý muốn: cửa đổ bộ của một LCM-6 bị kẹt nên không hạ xuống được. Tình trạng khá nguy hiểm vì nếu lúc này địch bắn B-40 hay hỏa tiễn vào giang đĩnh, toán bộ binh kẹt trong lòng tầu sẽ bị thiệt hại nặng. Ðể giải quyết tình trạng khó khăn này, lậo tức hai chiếc FOM được điều động đến cập hai bên chiếc LCM-6 để bộ binh dùng làm cầu lên bờ. Rất may, Cộng quân có lẽ vì bị bất ngờ nên vẫn chưa thấy phản ứng.

Hai Ðại Ðội Bộ Binh vừa lên bờ đã tràn vào các bụi tre và lùm cây trước mặt để lục soát, trong lúc các giang đĩnh rời bải ủi, di chuyển với vận tốc chậm theo hướng Nam phía Tân Châu, vừa yểm trợ cho toán Bộ Binh trên bờ, vửa chuẩn bị nằm đường đón đoàn thương thuyền đang được những PBR hộ tống từ Tân Châu lên.. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đổ bộ, toán Bộ Binh báo cáo đã tịch thu được 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn, mỗi giàn có 2 trái hỏa tiễn đang trong tình trạng sẵn sàng phóng. Những giàn hỏa tiễn này được đặt trong hầm hố đào dưới gốc các bụi tre gần bờ sông. Cạnh đó, còn có 9 địch quân bị banh xác vì hỏa lực dọn bãi của các giang đĩnh và 2 tên bị thương bị bắt sống.

Lúc đó, các thương thuyền cũng đã bắt đầu ló dạng, trên đường tiến tới biên giới. Các ổ súng đại bác trên Giang Pháo Hạm 328 hoạt động tối đa, bắn vào các vị trí do Bộ Binh yêu cầu yểm trợ. Khoảng 11 giờ sáng, khi chiếc thương thuyền đầu tiên đã đến gần biên giới, các giang đĩnh ghi nhận Công quân bắn ra 3 trái hỏa tiễn AT-3 hay B-40 hoặc súng cối phát nổ dưới sông, không gây thiệt hại đáng kể nào cho các thương thuyền cũng như giang đĩnh. Chỉ có một số nhân viên Hải Quân bị thương nhẹ, trong số đó Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong trúng mảnh đạn vào cánh tay trái.

Khoảng 12 giờ trưa, các thương thuyền vượt qua biên giới an toàn và được bàn giao cho toán giang đĩnh thuộc Hải Quân Cam Bốt đang chờ sẵn. Hoàn tất công tác hộ tống, các giang đĩnh Hải Quân dồn hết nỗ lực để yểm trợ cho hai cánh quân đang lục soát trên bờ. Hai cánh quân Bộ Binh vẫn tiến dọc bờ sông theo hướng ngược chiều nhau, vừa đi vừa lục soát. Họ báo cáo bắn hạ khoảng 30 tên địch tại chỗ và phát hiện nhiều tên khác đã bị chết vì hỏa lực của Hải Quân. Ðến chiều cùng ngày, hai toán Bộ Binh bắt tay nhau tại một địa điểm cách đồn Mương Kinh chừng 3 cây số về hướng Bắc. Cuộc hành quân coi như hoàn tất.

Tổng kết hoạt động trong ngày, Hải Quân hoàn tất việc hộ tống đoàn thương thuyền lên Nam Vang trong khi Bộ Binh quét sạch địch quân ra khỏi lãnh thổ quận Hồng Ngự. Thiệt hại phía Cộng quân bị chết 49 tên đếm xác được tại chỗ, 2 tên bị bắt sống, 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn bị tịch thu cùng với 3 súng cộng đồng và 19 súng cá nhân. Bạn thiệt hại 3 chết và 16 bị thương. Phía Hải Quân có 3 bị thương nhẹ.

Nhiệm vụ tăng phái cho Tiểu Khu KIến Phong và Trung Ðoàn 15 Bộ Binh để giải tỏa áp lực địch tại vùng Hồng Ngự của Giang Ðoàn Xung Phong coi như hoàn tất. Tổng cộng, toàn bộ đơn vị đã liên tục hành quân trong hai tháng ròng rã.

IX. Ðoạn Kết

Chiến dịch Hồng Ngự chỉ là một cuộc hành quân tương đối nhỏ cấp Trung Ðoàn, nhưng kết quả lại rất lớn: bẻ gẫy ý đồ phong tỏa thủy lộ sông Cửu Long của Cộng quân, đồng thời với sự yểm trợ hữu hiệu của Hải Quân, địch đã bị thiệt hại rất nặng với tổng cộng 422 xác định đếm được tại chỗ. Theo cung từ của tù binh, vào cuối tháng 5/1973 khi chiến dịch chấm dứt, Trung Ðoàn 207 của Cộng quân coi như không còn khả năng tác chiến, mỗi Tiểu Ðoàn của chúng còn lại không đầy 100 tên. Tuy thiệt hại về phía QLVNCH tương đối nhẹ, nhưng thường dân bị chết và bị thương khá nhiều vì đạn pháo kích của địch quân. Chỉ riêng trong tuần lễ thứ nhì của tháng 4, Cộng quân đã pháo kích trên 100 trái hỏa tiễn vào Hồng Ngự.

Vai trò quan trọng của Giang Ðoàn 26 Xung Phong trong chiến dịch Hồng Ngự được coi như hoạt động tiêu biểu của các Giang Ðoàn Xung Phong thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi. Tuy hậu cứ đóng tại Long Xuyên, nhưng các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã từng có mặt tại hầu hết những vùng xa xôi hẻo lánh như Ðồng Tháp Mười, Cái Cái, hay các địa danh xa lạ thuộc vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ như Năm Căn, Ðồng Cùng, Cái Ngay, Cái Nước, Thới Bình, Khai Quang, Biện Nhị, Sông Trèm Trẹm, Vị Thanh, Hỏa Lựu, Gò Quao v.v… Tại bất cứ chiến trường nào dù nguy hiểm đến đâu, các chiến sĩ của Giang Ðoàn cũng ghi lại những chiến tích vẻ vang, dù lắm khi phải đổi bằng máu.

Giang Ðoàn 26 Xung Phong không những là một đơn vị Hải Quân kỳ cựu, nồng cốt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà còn là một đơn vị ưu tú được các quân binh chủng bạn cũng như đồng bào mến phục. Hiện nay, có rất nhiều cựu chiến sĩ áo trắng đã từng phục vụ tại Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang lưu lạc tại Hoa Kỳ hay những quốc gia khác trên thế giới. Ða số các bạn này vẫn thường nhắc nhở tới những giòng sông nơi họ đã từng anh dũng chiến đấu và đổ máu trong trách vụ bảo vệ quê hương. Ngoài ra, Long Xuyên với cầu Hoàng Diệu, công viên Nguyễn Du, trường Thoại Ngọc Hầu v.v… cùng những tà áo dài duyên dáng cũng là một điểm dừng chân đáng nhớ trong binh nghiệp …

(Autin, Texas – Tháng 5/2000

Nguồn: http://doanket.orgfree.com/

South Patagonia, thắng cảnh cực Nam Châu Mỹ

South Patagonia, thắng cảnh cực Nam Châu Mỹ

Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel

Patagonia là vùng đất cực Nam Nam Mỹ, bao gồm một phần lãnh thổ của cả hai đất nước Argentina và Chile và được phân chia ra thành Northern Patagonia và Southern Patagonia. Đây là hai địa danh rất nổi tiếng trên thế giới về các thắng cảnh thiên nhiên và sinh thái.

Southern Patagonia được khám phá ra vào đầu thế kỷ 16 do công lao của nhà hàng hải Ferdinan Magellan. Trước khi nói về các thắng cảnh du lịch tuyệt mỹ của vùng đất này, chúng ta cũng cần biết sơ qua công lao của người đã khám phá ra nó vì ngày nay tên của Ferdinan Magellan đã đi vào lịch sử, gắn liền với vùng đất cực Nam lục địa Nam Mỹ.

Từ giữa thế kỷ 15, các nhà hàng hải Âu Châu đã đua nhau đi thám hiểm, tìm kiếm các vùng đất mới nằm ngoài Châu Âu, khởi đầu không ngoài các dụng ý buôn bán trao đổi hàng hóa và tìm mua đem về bản xứ các món hàng quý giá khan hiếm (sau này thì họ biến thành thực dân).

Điều này tạo ra sự tranh chấp gay gắt trong nhiều năm giữa hai đế quốc thời đó là Portugal và Spain. Sau cùng hai xứ thỏa thuận ký hiệp ước Tordesillas năm 1494, họ chọn kinh tuyến chạy qua Cape Verde (quần đảo phía Tây Châu Phi) là kinh tuyến gốc. Sau đó mới thỏa thuận phân chia các vùng đất mới để giảm bớt đi mối tranh chấp.

Các vùng đất mới được tìm ra về “phía Đông” kinh tuyến là thuộc về Portugal, các vùng đất mới nằm về “phía Tây kinh tuyến gốc” ưu tiên thuộc về chủ quyền Spain. Đó cũng là lý do tại sao các nhà truyền giáo, các nhà hàng hải người Portugal đến miền viễn đông Châu Á sớm như Việt Nam, Macau, Nhật Bản.

Tượng nhà hàng hải Ferdinand Magellan ngay giữa Main Square tại Punta Arenas. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Cuối thế kỷ 15, nhà hàng hải Bartolomeu Dias có tham vọng thám hiểm xứ India nằm về phía Đông Phi Châu. Dias chọn cách đi dọc phía Nam biển Atlantic men theo bờ biển Châu Phi xuống tận cực Nam lục địa này, sau đó dự định men theo dọc bờ biển phía Bắc Phi Châu để đến India. Nhưng Dias đã phải bỏ cuộc quay trở về  khi ông đến điểm cực Nam Châu Phi, nơi tiếp giáp của hai biển Atlantic và Indian Ocean vì ở đây thời tiết và sóng gió bão táp quá lớn khiến ông không thể vượt qua được.

Dias đã đặt tên khu vực khó khăn này là Cape of Storms (Mũi Bão Táp). Cho đến năm 1497, Vasco Da Gama của xứ Portugal đã thành công khi ông chỉ huy một đội thuyền vượt qua được vùng biển Mũi Bão Táp và đến được India. Sau đó nhà vua Portugal cho đổi tên lại khu Mũi Bão Táp thành Cape of Good Hope (mà người Việt thường gọi là Mũi Hảo Vọng). Sau này Vasco Da Gama còn thêm nhiều chuyến trở lại India cũng theo con đường này.

Sau Vasco Da Gama ít năm, một nhà hàng hải khác tên Ferdinand Magellan, ông sinh ra và lớn lên ở Portuagal, ông theo học các ngành Địa  Lý, Hàng Hải và đã từng tham dự nhiều chuyến hải hành tìm kiếm các vùng đất mới. Magellan bị ảnh hưởng của một số nhà khoa học lúc đó cho rằng trái đất tròn hình cầu, không phải là hình vuông nên ông có một suy nghĩ khác hẳn các nhà hàng hải khác.

Trong khi mọi người vẫn nghĩ rằng muốn đi từ Âu Châu đến India và các quần đảo Malaysia, người ta chỉ có một con đường duy nhất phải đi về phía Đông. Về kinh nghiệm hàng hải, Magellan đã từng theo các đoàn thuyền đi về phía Đông qua India. Ông cũng đã đến Malacca của Malaysia hai lần.

Vào thời điểm đầu thế kỷ 16, hai xứ Portugal và Spain tranh đua nhau gửi các đoàn thuyền thám hiểm đi tìm các vùng đất mới trao đổi hàng hóa, nhất là tìm mua các gia vị hương liệu vùng Ả Rập – Ấn Độ – Malaysia. Đây là những món hàng khan hiếm và mang lại rất nhiều lợi nhuận cho các nhà vua.

Magellanic Penguins tại đảo Isla Magadelena trên Strait of Magellan. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Magellan biết khá rõ về các xứ sở sản xuất gia vị hương liệu thuộc các vùng Hồi Giáo. Ông nhận được các bản báo cáo về các nguồn gia vị hương liệu của quần đảo Moluccas (Moluku) của Malaysia và Indonesia tọa lạc trên vùng biển “South Sea” (tên trước của Pacific Ocean).

Magellan đưa ra một dự án làm một chuyến hải hành thám hiểm quy mô về quần đảo hương liệu này cho vua Portugal, nhưng không được nhà vua Portugal chấp thuận vì lúc đó nhà vua Portugal đang say mê sự thành công về các chuyến hải hành của Vasco Da Gama. Thất vọng, ông chuyển dự án chuyến hải hành này cho vua Spain. Vị vua này chấp thuận và đồng ý cung cấp cho ông năm chiếc thuyền lớn và một nhóm thủy thủ đoàn lên đến 267 người.

Ngược lại, ông phải từ bỏ quốc tịch Portugal để lấy quốc tịch Spain cho danh chính ngôn thuận và thuận tiện làm việc trong vị trí của ông. Điều này cũng có nghĩa chuyến hải hành của ông bắt buộc phải đi về phía Tây của Âu Châu, vượt biển Atlantic Ocean đi tìm miền đất vùng Nam Á nơi có quần đảo Moluccas. Để nắm vững hải trình chuyến đi, ông đã từng tham khảo với nhà vũ trụ học (the cosmographer) Rui Falero và chọn các phụ tá kinh nghiệm tài giỏi cùng tháp tùng cho chuyến đi.

Ngày 27 Tháng Chín, 1519, Ferdinand Magellan khởi đầu một chuyến hải hành vô tiền khoáng hậu tiến về quần đảo Moluccas. Nhưng đời sống không hẳn lúc nào cũng hoàn toàn theo đúng 100% dự định của mình. Chuyến đi của ông gặp biết bao nhiêu gian khổ bão táp trên đại dương Atlantic Ocean, đoàn thuyền ông bị chìm vỡ mất một chiếc trên đường đi.

Trên đường tiến về phía Nam lục địa Nam Mỹ thêm một chiếc không thể tiếp tục cuộc hành trình, phải quay trở về. Đoàn thám hiểm gần như thất vọng muốn bỏ cuộc chuyến hải hành. Nhưng có lẽ nhờ ơn trên cứu hộ, đoàn thuyền vượt qua bão táp đến một mũi đất thấp bình yên. Ông gọi mũi đất này là Cape of Virgins vào đúng vào ngày lễ “Thánh Ursula và mười một ngàn Virgins” để tạ ơn Thánh Thần giúp ông vượt qua hiểm nguy sóng gió.

Các băng tảng màu Glaciar-Snow-Mountain tại Hồ Lago Grey, Southern Patagonia. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Ít ngày sau ông tìm ra dòng hải lưu tiến vào một eo biển mới, ông đặt tên cho eo biển này là Strait of Todos Los Santos và không ngờ rằng đây chính là eo biển rất dài chạy từ Đông qua Tây nối liền hai biển Atlantic Ocean và “South Sea.”

Chạy dọc theo eo biển Todos Los Santos ông nhận thấy nơi đây có rất nhiều quần đảo nối tiếp nhau, đồng thời môi trường sinh thái ở đây cũng khá là khác biệt với sự hiện diện của các giống chim như hồng hạc Flamingo, chim cánh cụt Penguins, các loại chim hải âu Cormorants và Seagulls sinh sống chiếm trọn cả một vài hòn đảo.

Sau cùng, khi đoàn thuyền vượt ra khỏi eo biển dài hơn 500 km này và bắt đầu tiến vào “South Sea,” nhận thấy sự bình lặng của vùng biển này khác hẳn với vùng biển sóng gió Atlantic Ocean, ông đã thốt lên “Pacific/Biển Bình Yên!” Từ đó tên “Pacific Ocean” được dùng thay thế hẳn cho hai chữ “South Sea.”

Đoàn thuyền tiếp tục cuộc hải trình gian nan vượt qua “Pacific Ocean.” Nhưng không may khi đến khu vực quần đảo Philippines, Magellan bị tử trận trong một trận chiến với thổ dân tại đây vào Tháng Tư, 1521. Nhưng không vì thế mà đoàn thuyền bỏ cuộc. Chuyến hải trình tiếp tục và đến được mục tiêu “Spice/Moluccas Island.” Chiếc Victoria là chiếc thuyền duy nhất còn lại trong số năm chiếc xuất phát khởi hành và Victoria đã trở về đến Spain ngày 6 Tháng Chín, 1522, với 18 thủy thủ sống sót.

Sau gần ba năm lênh đênh trên biển, Victoria là chiếc thuyền đầu tiên của nhân loại hoàn tất một chuyến hải trình vòng quanh trái đất. Tuy Magellan mất đi, không kịp nhìn thấy kết quả sự thành công của dự án mà ông ấp ủ, dù rằng cái giá phải trả cho chuyến hải trình quá gian nan cùng sự mất mát quá lớn cho nhóm thủy thủ đoàn.

Tuy nhiên, chuyến hải hành của ông cũng có nhiều điểm giúp ích cho sự hiểu biết của khoa học và nhân loại. Thứ nhất, chuyến hải hành của Magellan đã chứng minh thực tế cho khoa học thời đó là trái đất chắc chắn có hình trái cầu, cho nên “đi ba năm lại trở về chốn cũ” cho dù đau thương bão táp đã xảy ra! Điểm thứ hai là mãi đến lúc này người ta mới biết đồng hồ thời gian của phía Đông và phía Tây kinh tuyến gốc “xa cách nhau” một đêm ngày. Mặt trái đất bên phía Đông là ngày thì mặt trái đất phía Tây sẽ là đêm.

Bản đồ Chile nằm về phía Tây của lục địa South America. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Miền Southern Patagonia của Chile đã không quên công lao của “Nhà hàng hải vĩ đại Ferdinand Magellan.” Ngày nay miền Southern Patagonia còn được gọi là miền Magallanes and Chilena Antartica, chim cánh cụt Penguins sống vùng này được gọi là  Magellanic Penguins, “Đám mây Magellan/Magellanic Clouds” được dùng để đặt tên cho các “đám mây thiên hà” trong thiên văn học.

Riêng eo biển Todos Los Santod được đổi là Strait of Magellan và trở thành một eo biển huyết mạch dùng cho các đoàn tàu thuyền đi lại từ hai bên Đông Tây của Châu Mỹ trong suốt bao nhiêu thế kỷ. Mãi cho đến 1914 với sự ra đời của kênh đào Panama mới làm giảm hẳn đi tầm quan trọng của Strait of Magellan (Canal Panama làm cho sự đi lại giữa hai bên Đông Tây của lục địa Châu Mỹ dễ dàng, thuận tiện và ít tốn kém vì tàu thuyền tránh được một đoạn đường đi vòng xuống cực Nam rồi lại phải đi ngược lên phía Bắc).

Phần đất phía trên Strait of Magellan trở thành Province of Magellan và thủ đô là Punta Arenas, một thành phố được xem như là cực Nam của lục địa Nam Mỹ. Đi tiếp về phía Nam của Punta Arenas là vô số các đảo lớn nhỏ kéo dài đến tận Cape Horn. Thành phố Punta Arenas được xây dựng dọc theo Strait of Magellan, đây cũng là cảng nơi các Cruise Ship neo bến và là thành phố chính nối kết với các tour du lịch đi khắp vùng Southern Patagonia.

Các bến cảng neo cũ đã được chuyển bến, chỉ còn lại những cột gỗ cũ kỹ còn sót lại trên eo biển trở thành các nơi nghỉ chân cho đám chim biển hải âu. Giữa lòng thành phố, một bức tượng uy nghi của Ferdinand Magellan được thành phố dựng lên giữa Main Square để người dân Patagonia luôn nhớ đến một nhà hàng hải thông minh, can trường và là người đã khám phá ra vùng đất hoang sơ Southern Patagonia đến với thế giới.

Nhưng Punta Arenas không phải là thiên đường trên trái đất, chưa phải là thắng cảnh chính của Southern Patagonia. Bạn phải đến Torres del Paine National Park. Với tôi, đó mới chính là thiên đường trên thượng giới! Không phải là thiên đường trên trái đất.

Source : https://www.nguoi-viet.com/du-lich/south-patagonia-thang-canh-cuc-nam-chau-my/

Những vì sao

NHỮNG VÌ SAO (1)

 

Tác giả : ALPHONSE DAUDET
Bản dịch Việt ngữ : TRÚC HUY

Trong thời gian tôi chăn cừu trên miền núi Luberon (2), có khi suốt mấy tuần lễ liên tiếp tôi không trông thấy một bóng người, chỉ một mình tôi trên cánh đồng cỏ với chú chó Labri và đàn cừu của tôi. Thỉnh thoảng có vị tu sĩ sống ẩn dật ở núi Ure đi ngang qua đây để tìm kiếm dược thảo hoặc là tôi trông thấy bộ mặt lọ lem dính đầy bụi than của người phu mỏ xứ Piémont; nhưng họ là những người chất phác, khuôn mặt lầm lì vì quen sống lâu ngày trong cảnh cô đơn, không còn hứng thú trò chuyện và chẳng biết gì về những chuyện trong làng ngoài tỉnh mà người ta đang bàn tán ở dưới đó. Vì thế, cứ khoảng mười lăm ngày, khi tôi nghe tiếng lục lạc từ con đường mòn dưới núi đi lên của con la ở nông trại mang lương thực nửa tháng cho tôi, rồi tôi thấy xuất hiện dần dần trên sườn dốc bộ mặt tươi vui của thằng bé miarro (thằng nhỏ giúp việc ở trại) hay chiếc khăn trùm màu hung đỏ của thím già Norade, là tôi cảm thấy trong lòng thật sung sướng vô cùng. Tôi yêu cầu kể cho nghe những chuyện xảy ra ở dưới đồng bằng, những buổi lễ rửa tội, những đám cưới hỏi… Nhưng điều mà tôi chú ý và thích nghe hơn cả là biết tin tức về cô con gái cưng của ông bà chủ trại, vị tiểu thư Stéphanette, thiếu nữ xinh đẹp nhất trong toàn vùng. Cố làm ra vẻ như không mấy quan tâm, tôi hỏi thăm xem nàng có hay đi dự nhiều lễ hội hay dạ tiệc không, có nhiều chàng trai ngấp nghé tán tỉnh không. Và nếu có ai hỏi tôi muốn biết những chuyện ấy có ích lợi gì cho cái thân phận nghèo hèn của một tên chăn cừu miền núi như tôi, thì tôi sẽ trả lời rằng tôi đang tuổi hai mươi và đối với tôi nàng Stéphanette là người thiếu nữ xinh đẹp nhất trần gian.

Thế rồi, một hôm chủ nhật nọ, tôi cũng chờ đợi chuyến tiếp tế lương thực cho nửa tháng, nhưng sao lần này nó tới muộn quá. Từ buổi sáng, tôi nghĩ bụng : “Có lẽ vì lễ lớn ở nhà thờ đây thôi.” Rồi đến trưa, một trận mưa giông lớn đổ xuống, tôi lại cho rằng vì đường trơn ướt lầy lội, con la chưa thể lên đường được. Mãi cho đến khoảng ba giờ chiều, trời quang mây tạnh, sườn núi lấp lánh nước mưa và ánh sáng mặt trời, tôi bỗng nghe được, giữa tiếng nước nhỏ giọt róc rách trên cành lá và tiếng suối reo do nước lũ dâng trào, tiếng lục lạc leng keng của con la, nghe thật là vui tươi rộn ràng chẳng khác gì tiếng chuông nhà thờ đổ hồi trong ngày lễ Phục sinh. Nhưng không phải thằng nhỏ ở nông trại, cũng chẳng phải thím già Norade ngồi trên lưng lừa như mọi khi. Mà là… xin bạn thử đoán xem ai ? Chính là vị tiểu thư trại nhà, bạn ạ ! Đúng vậy, vị tiểu thư Stéphanette đích thân đến. Nàng ngồi ngay ngắn trên mình la giữa những chiếc giỏ mây, đôi má ửng hồng vì khí trời của núi và làn gió mát sau trận mưa giông vừa qua.

Thằng nhỏ bị bệnh, còn thím già Norade thì xin nghỉ phép về thăm con. Nàng Stéphanette xinh đẹp vừa từ trên mình la tụt xuống vừa nói cho tôi biết như vậy. Nàng còn nói thêm vì lạc đường cho nên đã đến muộn. Nhưng trông nàng ăn mặc đẹp đẽ như thế kia, trên đầu kết băng hoa và vận chiếc váy lộng lẫy có thêu đăng ten, tôi thấy cô nàng có vẻ như đã nấn ná ham vui trong một cuộc khiêu vũ nào đó hơn là đã dò dẫm tìm đường trong các bụi rậm. Ôi, người đâu mà xinh đẹp lạ thường ! Tôi say đắm nhìn nàng mà không muốn rời mắt. Thật tình mà nói, tôi chưa bao giờ có dịp được nhìn ngắm nàng ở gần như thế. Về mùa đông, sau khi đã lùa đàn cừu xuống đồng bằng, tôi về nông trại để dùng cơm tối, thỉnh thoảng tôi thấy nàng đi thoăn thoắt ngang qua phòng ăn của chúng tôi, nhưng chẳng mấy khi nàng nói chuyện với kẻ ăn người ở, luôn luôn trang điểm đẹp đẽ và có vẻ hơi kiêu kỳ một chút… Thế mà bây giờ tôi lại được cái diễm phúc có nàng đứng ngay trước mặt tôi, và chỉ có mình tôi thôi, như vậy thì bảo làm sao tôi không bối rối cho được ?

Sau khi lấy hết lương thực từ trong các giỏ ra, cô nàng bắt đầu tò mò đưa mắt nhìn chung quanh. Nàng vén nhẹ chiếc váy đẹp cho khỏi lấm, bước vào phía bên trong lán, muốn xem chỗ tôi ngủ, chiếc ổ rơm có phủ tấm da cừu, cái áo choàng rộng treo trên vách, chiếc gậy, cây súng đá… Tất cả những thứ đó có vẻ làm cho nàng thích thú.

– Thì ra anh ngủ ở đây à, anh mục đồng tội nghiệp của tôi ! Sống một mình như thế này thì chắc là buồn lắm nhỉ ? Hàng ngày anh làm gì ? Anh nghĩ gì ?

Tôi rất muốn trả lời : “Nghĩ đến cô, cô chủ ạ.” Phải nói như thế mới trung thực với lòng mình, nhưng vì bối rối quá nên tôi không nghĩ ra được một lời nói nào. Tôi tin rằng nàng cũng nhận thấy sự bối rối của tôi, nhưng cô nàng tinh nghịch lại lấy đó làm thích thú và cố tình trêu chọc để làm cho tôi càng thêm bối rối :

– Mục đồng ơi, thế cô bạn gái thân thiết của anh có thỉnh thoảng lên đây thăm anh không ? Cô ấy chắc hẳn là nàng dê có bộ lông vàng hay nàng tiên Estérelle chỉ quen nhảy nhót trên các đỉnh núi thôi nhỉ ?

Trong lúc nói chuyện với tôi, chính cô nàng mới có dáng điệu giống như nàng tiên Estérelle, với nụ cười duyên dáng, đầu hơi ngả ra đàng sau và vẻ vội vàng muốn ra về, làm cho cuộc thăm viếng ngắn ngủi của nàng chẳng khác nào một sự xuất hiện bất ngờ.

– Thôi, chào tạm biệt mục đồng nhé.

– Xin chào tạm biệt cô chủ.

Thế là nàng đi mất, mang theo những chiếc giỏ không.

Khi nàng đã khuất dạng sau con đường dốc nhỏ, tôi tưởng chừng như những viên sỏi lăn lóc dưới móng chân la đang rơi từng viên một vào lòng tôi. Tôi còn nghe thấy trong lòng tiếng sỏi rơi như thế mãi cho đến lúc chiều tàn, không dám cử động, chỉ sợ làm tan vỡ giấc mơ đẹp của tôi. Chiều tối xuống dần, khi thung lũng bắt đầu ngả màu xanh lam và đàn súc vật kêu be be chen lấn nhau về chuồng, tôi bỗng nghe có tiếng ai gọi tôi từ phía dưới sườn núi, rồi tôi thấy vị tiểu thư của chúng ta xuất hiện, nhưng không còn vui tươi như lúc ban chiều mà run lập cập vì ướt lạnh và sợ hãi. Có vẻ như là, khi xuống phía lưng chừng sườn núi, nàng đã gặp con suối Sorgue bị nước lũ tràn ngập sau trận mưa giông, và vì nàng muốn lội qua cho bằng được nên suýt bị chết đuối. Nghiệt một nỗi, đêm hôm tối tăm, vào giờ này không mong gì về nông trại được nữa; vì đi đường tắt thì nàng không thể một mình tìm ra lối về, còn tôi thì không thể bỏ đàn cừu mà đi được. Ý nghĩ phải ngủ lại qua đêm trên núi làm nàng rất băn khoăn và bối rối, vì sợ ở nhà bố mẹ lo lắng. Tôi cố lựa lời để nói cho nàng yên tâm :

– Trời tháng bảy, đêm ngắn thôi, cô chủ à… Không sao đâu, cô nên chịu khó một chút cho qua đêm thôi.

Tôi vội vàng nhóm một ngọn lửa lớn để nàng hơ chân và hong khô bộ áo bị ướt sũng khi lội qua suối. Rồi tôi mang sữa tươi và pho mát đến cho nàng, nhưng cô bé đáng thương chẳng thiết gì đến chuyện sưởi ấm hay ăn uống gì cả. Nhìn thấy nàng nước mắt lưng tròng, tôi cũng muốn khóc theo với nàng.

Rồi màn đêm cũng xuống hẳn. Chỉ còn một chút ít vầng dương còn vương lại trên đỉnh núi cao và một làn hơi ánh sáng mong manh ở phía mặt trời lặn. Tôi muốn để nữ chủ nhân của tôi vào nằm nghỉ bên trong lán. Sau khi trải một tấm da cừu đẹp và mới tinh xuống lớp ổ rơm mới, tôi chúc nàng ngủ ngon, rồi bước ra ngồi ngoài hiên cửa… Xin có trời chứng giám cho tôi, mặc dầu ngọn lửa tình hừng hực bốc cháy trong lòng nhưng tôi không hề có một ý tưởng xấu xa nào, trong lòng tự cảm thấy rất hãnh diện khi nghĩ đến ở góc lán bên kia, ngay cạnh đàn cừu đang tò mò nhìn nàng ngủ, có cô con gái của ông bà chủ tôi – như một con cừu non quý báu nhất và trắng ngần nhất – đang nằm ngủ và được giao phó cho tôi canh gác. Chưa bao giờ tôi được nhìn ngắm bầu trời sâu thăm thẳm và các vì tinh tú rực sáng lấp lánh như đêm nay…

Bỗng tấm chấn song xịch mở và nàng Stéphanette xinh đẹp xuất hiện bước ra. Nàng không tài nào ngủ được vì đàn cừu cựa quậy khiến rơm rạ kêu sột soạt hoặc là chúng kêu be be trong lúc đang ngủ mê. Nàng thích ra ngồi cạnh đống lửa hơn. Thấy vậy, tôi liền khoác tấm da cừu của tôi lên vai nàng, khêu to ngọn lửa, rồi hai chúng tôi ngồi bên cạnh nhau, im lặng không nói năng gì.

Nếu bạn đã từng ngủ qua đêm ngoài trời dưới trăng sao, chắc bạn cũng thừa biết rằng trong khi chúng ta đang ngủ thì cả một thế giới huyền bí đang bừng sống dậy trong thanh vắng và tĩnh mịch. Lúc ấy tiếng suối reo nghe như rõ hơn, những ao hồ thấy có những đốm lửa li ti nhen nhúm lên. Những thần linh của núi rừng đi lại tự do; và trong không gian có những tiếng sột soạt, những tiếng động rất khẻ, tưởng chừng như ta có thể nghe được một cành cây đang chuyển mình vươn dài ra và cỏ cây đang mọc thêm ra. Ban ngày là đời sống của các sinh vật, còn ban đêm là đời sống của các thực vật và sự vật. Nếu chưa quen với những tiếng động ban đêm, có khi làm cho ta sợ hãi… Thế nên vị tiểu thư của chúng ta, cứ mỗi lần nghe thấy một tiếng động dù là rất nhỏ, nàng cũng đã run sợ và lại nép sát vào người tôi. Có một lần, từ phía mặt ao hồ lấp lánh dưới kia, bỗng vọng lên một tiếng hú kéo dài não nuột, ngân vang uốn lượn về phía chúng tôi. Cũng vừa lúc đó một ngôi sao băng rực sáng xẹt qua trên đầu chúng tôi và bay về cùng một hướng, tựa như là tiếng than van mà chúng tôi vừa nghe thấy kia đã mang theo một luồng ánh sáng vậy.

– Cái gì thế ? nàng Stéphanette khe khẽ hỏi tôi.

– Thưa cô, đó là một linh hồn vừa được lên thiên đàng. Nói xong tôi làm dấu thánh giá.

Nàng cũng làm dấu như tôi và ngửa cổ nhìn lên trời như thế một hồi lâu, vẻ mặt trầm ngâm. Rồi nàng quay lại hỏi tôi :

– Này mục đồng, có phải các anh đều là phù thủy cả không ?

– Thưa cô, không phải đâu ạ ! Nhưng vì ở đây chúng tôi sống gần trăng sao hơn những người dưới đồng bằng nên biết rõ hơn những sự việc xảy ra ở trên trời.

Nàng vẫn đưa mắt ngước lên nhìn bầu trời, đầu dựa vào lòng bàn tay, vai khoác tấm da cừu, trông cô nàng giống như một mục đồng của nhà trời vậy.

– Ồ, nhiều sao quá ! Thật là tuyệt vời ! Chưa bao giờ tôi thấy nhiều tinh tú như thế này. Mục đồng ơi, thế anh có biết tên của những vì sao không ?

– Biết chứ ạ, thưa cô chủ. Này nhé, ngay trên đầu chúng ta, kìa là Con đường của thánh Jacques (la Voie lactée, dải Ngân Hà) (3). Nó chạy thẳng một mạch từ nước Pháp sang nước Tây Ban Nha, do chính thánh Jacques de Galice (4) đã vạch ra để chỉ đường cho Charlemagne dũng cảm tiến quân đánh giặc Sarrasins (5). Xa hơn chút nữa là Chiếc xe chở linh hồn (la Grande Ourse, sao Bắc Đẩu) với bốn trục xe sáng ngời. Ba ngôi sao đi phía trước là Ba con vật (les Trois Bêtes) kéo xe, và ngôi sao nhỏ nhất ở sát ngay cạnh ngôi sao thứ ba là Người đánh xe (le Charretier). Cô có thấy chung quanh có một chùm sao rơi rụng như mưa sa không ? Đấy là những linh hồn mà Thượng Đế không muốn chúng ở cạnh Ngài… Rồi ở phía dưới một chút là sao Bừa cào (le Râteau), còn gọi là Ba Ông Vua (Orion, sao Sâm). Đó là chiếc đồng hồ của mục đồng chúng tôi để biết được giờ giấc. Chỉ cần nhìn chúng là tôi biết bây giờ đã quá nửa đêm rồi. Phía dưới một chút nữa, vẫn theo hướng Nam, là ngôi sao Jean de Milan (6) sáng ngời, ngọn đuốc của các vì tinh tú (Sirius). Về ngôi sao đó, mục đồng chúng tôi thường kể chuyện như sau : Vào một đêm nọ, Jean de Milan cùng Ba Ông Vua và sao Rua (la Poussinière, la Pléiade) (7) được mời đến dự lễ cưới của một ngôi sao bạn. Theo lời người ta kể, sao Rua vội vã đi trước, theo con đường ở phía trên. Cô nhìn xem kìa, ngôi sao ấy ở chỗ cao tít tận cuối trời kia. Ba Ông Vua đi đường tắt phía dưới nên đuổi kịp; riêng anh chàng Jean de Milan vì lười biếng ngủ quên nên bị bỏ lại đằng sau. Anh ta bực mình liền quăng ngay chiếc gậy để cản đường họ. Bởi thế nên người ta còn gọi chòm sao Ba Ông VuaChiếc gậy của Jean de Milan… Nhưng cô chủ ạ, ngôi sao đẹp nhất trong tất cả những vì sao lại là ngôi sao của chúng tôi, đó là sao Mục đồng (Étoile du Berger), nó soi đường cho chúng tôi lùa đàn súc vật ra bãi lúc bình minh và xua chúng về chuồng lúc hoàng hôn. Chúng tôi còn gọi ngôi sao ấy là Maguelonne, nàng Maguelonne xinh đẹp chạy theo chàng Pierre de Provence (Saturne, Thổ Tinh) và cứ bảy năm một lần lại kết hôn với chàng.

Chòm sao ORION

– Thế vậy hả ? Lại có chuyện các vì sao cưới hỏi nhau nữa cơ à ?

– Có chứ ạ, thưa cô chủ.

Và trong khi tôi đang cố giải thích cho nàng thế nào là những hôn lễ của các vì sao, thì tôi cảm thấy như có vật gì tươi mát và mịn màng đè nhẹ lên vai tôi. Thì ra đầu nàng, nặng trĩu vì buồn ngủ, đã tựa vào vai tôi với tiếng sột soạt êm ái của những dải đăng ten và mái tóc gợn sóng của nàng. Nàng ngồi yên không nhúc nhích như thế cho đến khi những vì sao bắt đầu lu mờ dần và nhoà đi trong những tia sáng đầu tiên của buổi ban mai. Còn tôi, tôi nhìn nàng ngủ, trong đáy lòng hơi xao xuyến một chút, nhưng vẫn giữ được sự thanh khiết của tâm hồn vì đêm sao sáng như thế kia bao giờ cũng đem lại cho tôi những ý nghĩ cao đẹp. Chung quanh chúng tôi, ngàn sao vẫn tiếp tục cuộc hành trình thầm lặng, ngoan ngoãn như một đàn cừu vĩ đại; và đôi lúc tôi có cảm tưởng như một trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất, sáng ngời nhất, vì lạc mất đường đã đến tựa vào vai tôi và ngủ giấc yên lành…

 

(1) – Dịch từ nguyên tác Pháp ngữ “Les Étoiles”, trích từ tác phẩm “Lettres de mon moulin” (Thư viết từ chiếc cối xay của tôi) của Alphonse Daudet (1840-1897).
(2) – Luberon: một vùng miền núi không cao, ở gần dãy núi Alpes thuộc nước Pháp.
(3) – Chemin de saint Jacques: dải Ngân Hà (la Voie lactée).
(4) – Galice: tên một thành phố của Tây Ban Nha.
(5) – Sarrasins: tên gọi quân A rập, thời trung cổ, đã xâm lược châu Âu và châu Phi.
(6) – Jean de Milan: sao Sirius (Thiên Lang).
(7) – La Poussinière (còn gọi là La Pléiade, Kim Ngưu): tên một chòm sao nhỏ ở bắc bán cầu.

 

Source : http://www.saigonline.com/truc_huy/nvs_daudet.htm

 

Trên tàu Cap Anamur

Trên tàu Cap Anamur

Diên Hoàng

Vừa dắt xe đạp vô nhà, mẹ tôi nghiêm nghị hỏi :

– Mi đi mô từ chiều tới chừ ?

– Dạ con đi chơi với thằng Hải.

– Rứa chừ mi có muốn ĐI nữa không ? Mẹ tôi hỏi tiếp, nhấn mạnh chữ ĐI.

– Dạ đi chứ. Giọng tôi sôi nổi. Có chỗ đi rồi hả mẹ ?

Từ hôm đi hụt ở Nha Trang, tôi giận ông trời ghê gớm. Bao nhiêu người đi lọt, đánh điện tín về, còn phần tôi cứ đèo đuột mãi. Tôi vung văng với mẹ tôi là số tôi chưa tới, thôi để dành cho thằng em kế lên ưu tiên một. Ra Nha Trang, nằm dài ở nhà bà cô ruột tôi chờ bà dì ruột ở Cam Ranh ra bốc đi. Ba ngày dài dẵng trôi qua, bà dì tôi ra báo ông dượng tôi và thằng em họ đã đi! Vì ăn chia không đều, ghe phải bỏ lại một nửa khi công an biên phòng rượt. Ngoài miệng vâng dạ nhưng trong bụng tôi cũng căm bà dì không chịu lo cho tôi chu đáo, họ tổ chức cho người xuống ghe ở Chụt chứ xa xôi chi lắm mà không báo cho tôi một tiếng.

Chưa đến một tháng, nhà tôi nhận được điện tín ba tôi đánh về: “Cha con Gà Rù được tàu vớt vào Singapore”, tôi ngửa mặt than trời. Số mình lận đận quá, thi đại học thì diện 13 bị đánh rớt dù trên điểm đậu so với giới thường dân, kiếm đường lao ra biển thì bị bỏ lại, không lẽ cứ sống lây lất xách xe đạp chạy mánh hằng ngày. Hải bảo tôi cố gắng ôn bài thi lại nhưng đầu óc đâu mà ôn đạo hàm với tích phân. Sóng biển, giang hồ lãng tử ám ảnh tôi mỗi giấc ngủ. Đi, lao ra biển là chấp nhận cái chết để tìm đường sống. Nhưng với lý trí của thằng thanh niên trai trẻ, đi là một cuộc phiêu lưu không định hướng kỳ thú vô ngần. Tôi không sợ chết, tôi không sợ say sóng mửa ra mật xanh mật vàng như thư từ người đi trước về kể lại, tôi cũng không sợ hải tặc, tôi tin số tôi đi ra có quý nhân phù trợ như số tử vi mẹ tôi nhờ ông Chiếu chấm.

Sau khi đi tù về, ba tôi mang số ưu tiên một. Thật tình mà nói, vốn liếng nhà tôi đã kiệt quệ, sạp vải Tân Bình mẹ tôi ngồi bán chung với người bạn chỉ đủ nộp tiền cho thuế vụ. Rồi ba tôi trổ tài ngoại giao, tìm bạn bè đi trước trả sau, và nhờ kiến thức sử dụng la bàn, ông làm hoa tiêu cho chuyến ghe. Nhờ trời Phật độ, ông được tàu vớt vào Singapore và được định cư ở Mỹ chớp nhoáng trong vòng ba tháng. Từ đó, ông lo cày để vớt từng thằng anh em tôi ra biển.

Trong gia đình, có một người đi lọt như có một cái phao cứu rỗi, mẹ tôi mạnh dạn tìm mối đi trước trả sau dù giá cả gần gấp rưỡi, gấp đôi. Phong trào vượt biên nở rộ từ đầu thập niên 80, bây giờ đã là 86, thành phần có tiền đã đi hết nên những tổ chức vượt biên đành phải chịu bốc người đi trước trả sau như tôi. Trễ, nhưng còn hơn không.

– Thôi vô ăn cơm đi. Mẹ tôi bảo tôi. Từ rày về sau con không được đi mô quá nửa tiếng. Đi mô thì nhớ nói cho nhà biết để có chuyện chi kiếm về kịp mà đi. Đừng nói chi với thằng Hải hết.

Làm sao tôi giữ bí mật với thằng bạn đời được. Với bồ bịch bạn gái, tôi còn im lặng làm trai ôm mộng phiêu lưu ký, dãi nắng dầm sương. Chứ với thằng bạn đời, chỉ mới biết tin chuẩn bị lên giàn phóng là tôi đã ngứa cái miệng còn hơn nổi phong mề đay! Hôm sau, tôi ở nhà cả ngày, đi ra đi vô tù túng đôi chân. Đến chiều tối, tôi vác xe đi học thêm Anh Văn ở đại học Tổng Hợp, phải lo trả cuốn truyện cho Tú kẻo mắc nợ rồi số ra đi sẽ không suôn sẻ. Mẹ tôi dặn học xong là về, không café cà pháo nữa, tôi dạ nhưng vẫn cứ đi.

Ngồi quán café, hai thằng trầm ngâm với khói thuốc ngó ra cửa. Tiếng Lionel Ritchie hát Hello không còn quyến rũ tôi. Nói gì được khi đây là lần thứ ba tôi từ giã hắn. Hai lần trước bắt tay chào đi rồi lại về, mừng rỡ rằng không bị bắt ở tù nhưng cũng man mác buồn cho số phận chưa hanh thông. Tôi dặn hắn trả tiền mấy điếu thuốc 555 tôi ký sổ với cô nàng bán thuốc lá lẻ trước nhà hắn. Hắn im lặng gật đầu. Tôi dặn hắn đừng cho Bích Ngà biết, chờ khi tôi điện về rồi hãy báo tin, hắn gật đầu im lặng. Hai thằng dắt xe đạp ra về với dấu hỏi to tướng trong đầu, nếu tôi đi lọt, biết bao giờ mới gặp lại ? Hắn chấp nhận làm trí thức XHCN, sau khi xong Đại học sẽ phụng sự đất nước, tôi làm kẻ phản đồ ra đi. Một bờ đại dương xa thẳm chớm chia cách tình bạn bài trùng của tôi.

Tôi về nhà sớm hơn thường lệ nhưng trễ hơn giờ đi học về một tiếng, mẹ tôi bực mình gắt gỏng. Kéo tôi vào phòng bên, đóng cửa, mẹ tôi mở tủ lôi nửa chỉ vàng đưa cho tôi :

– Ngày mai họ tới đón đi, con cất 5 phân ni qua bên nớ bán đánh điện tín qua cho ba để ba báo về cho mẹ biết.

Mẹ tôi chỉ cái giỏ nhựa đi chợ có sẵn hai lon sữa ông Thọ và hũ mật ong :

– Bới theo một bộ áo quần thôi. Họ dặn đừng mang chi nhiều. Ngày mai pha nước sôi để nguội vô bi đông, khi mô hết nước trên ghe mới mang ra uống nghe con. Học thuộc địa chỉ của ba chưa? Đừng có viết vô giấy mang theo, có chuyện chi họ biết mình vượt biên.

Mẹ tôi dặn tới dặn lui nhiều lắm, tôi nghe tiếng được tiếng không, mấy lần đầu còn chăm chú nghe, sang đến lần đi thứ tư, thứ năm, tôi có cảm giác đã trưởng thành trong khói lửa. Biết đâu mai đi chơi một vòng rồi lại về như những lần trước đi hụt. Tôi đã biết lên ghe là phải lo giữ đôi dép, lỡ chạy du kích thấy còn đôi dép chứ có mấy người thành phố về quê đi chân đất. Tôi đã biết chuyện ráng đi chậm đàng sau để được ngồi phía trên, tránh xuống hầm ghe nóng nực, ói mửa. Lần chạy ở rừng đước Bà Rịa đã dạy tôi một mớ kinh nghiệm.

Thế là tôi đi. Sáng hôm sau có người đi Honda đến đón tôi xuống chợ Tân Bình nhập vào đoàn người đi thăm nông trường Duyên Hải chi đó. Ngang qua nhà Hải, mẹ hắn vẫn chưa mở cửa tiệm rượu đế, hắn đã lọc cọc đạp xe đi học từ sớm. Chỉ có những nhà văn mới vẽ vời tâm trạng của kẻ ra đi bịn rịn như thế nào với thành phố bỏ lại đằng sau, còn tôi, trong đầu lúc đó chỉ nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra. Dáng dấp của mình có giống kẻ đang tìm đường vượt biên hay giống người đi thăm nuôi? Những con mắt thiên hạ bên đường ngó tôi có hoài nghi tôi đang đóng kịch hay không ? Đi ở đâu ? Xuống bãi nào ? Ghe có lớn, bao nhiêu lốc ? Nếu chạy thì chạy về hướng nào ? Biết bao nhiêu câu hỏi xoáy quanh trong đầu, tôi hầu như không nghĩ đến chuyện bỏ lại gia đình, bè bạn hay người yêu sau lưng. Tôi chỉ biết nghe lời người trưởng nhóm, anh ta bảo đi đái là lo nhảy xuống đường vạch tằm đái cho lẹ rồi lên xe ngồi, anh ta bảo vào quán mua cơm là vào quán mua cơm nhai cho lẹ. Miệng thèm điếu thuốc nhưng cũng ráng chờ anh ta đi khuất mới dám đốt rít vài hơi.

Đến gần bốn rưỡi chiều, xe đến nông trường. Đoàn người đóng kịch thăm nuôi được đi rửa ráy mặt mày ăn cơm tối. Tôi nhận ra vài người quen nhưng giả làm mặt lạ, không quen biết, không chào hỏi. Cơm nước xong xuôi, đến bảy giờ tối họ cho lên ghe, đoàn thăm nuôi xếp hàng thứ tự ngang nhiên lên ghe như đoàn du lịch, tôi bảo bụng tổ chức này ghê quá, không giống lần trước tôi phải núp trong những nhà tranh, đưa từng người ra bãi, mỗi lần nghe tiếng chân người là nằm rạp xuống đất trốn, sợ du kích đi tuần. Tôi nấn ná đi sau để được ngồi bên trên, người bà con quen ngoắt tay bảo tôi xuống hầm ghe, tôi lắc đầu.

Chiếc ghe xì xạch chạy đến 1 giờ đêm mới ra tới cửa biển, tôi nghe tiếng người chào nhau với ghe đi ngược. Ra tới cửa biển là coi như thành công một nửa, tôi thiếp vào giấc ngủ với tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật cứu khổ cứu nạn lúc nào không hay. Bên trên, bầu trời đêm với ngàn sao trong vắt.

Tôi thức giấc khi ánh mặt trời chiếu nhẹ vào mắt. Sáng rồi, thoát rồi, ra tới biển rồi! Bấy giờ, tôi mới định thần nhìn kỹ xung quanh. Tôi không còn nhớ chiếc ghe dài bao nhiêu thước, chỉ nhớ là nó lớn hơn gấp đôi chiếc ghe lần tôi chạy ở Bà Rịa. Nằm bên cạnh tôi là một cha con nói giọng Huế. Đêm qua, người cha bị anh tài công quát tháo nằm xuống che đầu khi ông ta ngẩng đầu nhìn chiếc ghe chạy ngược chiều. Khoang trên cùng của chiếc ghe chứa khoảng chừng mười người, nằm co chân. Tấm bạt che phần phía trước của ghe được kéo xuống, tôi thấy được người ngồi bó gối bên dưới hầm ghe. Tiếng máy ghe vẫn nổ đều, sóng rất nhẹ, bập bềnh nhưng tôi không định hướng được ghe chạy.

Tôi không cảm thấy khát nước hay đói bụng. Cũng không thèm cà phê hay khói thuốc. Gió biển thổi nhè nhẹ, trời mát. Tôi mắc đái kinh khủng ! Lần cuối đi đái là lúc ăn tối xong, từ sáu giờ chiều qua. Suốt đêm qua, tôi lo sợ, quên chuyện mắc đái, bây giờ thức dậy, bọng đái căng đầy khó chịu. Phải tìm chỗ đi đái, thằng nhỏ căng cứng nhắc nhở tôi. Nhưng đái ở đâu khi người xếp sát nhau, chen chân không lọt! Tôi nhìn quanh, tính dợm lên đi về phía đuôi thì đã có tiếng quát ngồi yên kẻo lật ghe.

– Làm đại ra ngoài đi. Người cha ngồi kế bên chỉ ra biển.

Tôi mắc cỡ, trên này còn có mấy người phái nữ, không lẽ nhông nhông vạch tằm thải là mất zin đời con trai trong trắng ? Không lẽ cứ tiếp tục nín cho nó từ từ rỉ ra ướt quần, ướt sàn nằm ngủ ? Tôi tiếp tục đấu tranh đánh trâu tư tưởng, thằng nhóc vẫn la làng vùng lên hỡi các nô lệ thế gian. Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh, thằng nhỏ bắt đầu không nghe lời thằng lớn. Tôi đành quỳ lên, kéo phẹc mơ tuya, ưỡn người chĩa nó ra ngoài thành khoang. Xả, khoan khoái xả, nhắm mắt xả, thằng nhỏ ca hát không ngừng.

– Đụ má thằng nào đái ở trển đó bây ?!

Tiếng quát bên dưới khiến tôi hoảng hốt nín lại, rồi lại xả ra cho lẹ. Gió biển thổi tạt nước tiểu của tôi vào cửa sổ khoang máy bên dưới. Chưa kịp rảy rảy cho hết nước, tôi kéo vội phẹc mơ tuya rồi ngồi xuống. Tôi hết mắc cỡ, ngộ biến phải tòng quyền, biết sao chừ.

Bắt đầu ngày thứ nhất. Tôi giở gói đồ mang theo, lấy miếng cơm vắt chấm đậu phụng mẹ tôi bới theo cho ra nhai chầm chậm. Trưa nay họ cho ăn gì đây ? Trong túi còn mớ tiền VN, tôi tiếc rẻ, nếu biết suôn sẻ thế này tôi đã mua một gói Tourist mang theo hút cho thơm ria, tôi chỉ còn nửa gói Đà Lạt. Tôi đã nghe lời mẹ tôi dặn đừng tiêu hoang, dành tiền về xe nếu có bể ổ. Bây giờ mớ tiền đó chỉ là giấy vụn.

Thư từ ba tôi kể chuyến vượt biên của ông năm 84 mất cả 5 ngày 5 đêm mới được tàu vớt. Đầu năm 86, ông dượng tôi và thằng em họ đi cũng mất 7 ngày 7 đêm, ghe hết nước, hết dầu mới được tàu vớt. Tôi chỉ mới bắt đầu ngày thứ nhất chạm mặt với biển cả. Trời xanh, sóng nhẹ, tháng ba bà già đi biển, bây giờ đã là tháng sáu, biển mênh mông một màu xanh đẹp quá. Biển chưa nổi cơn cuồng nộ nên tôi không dám nghĩ chuyện đen tối như chuyện bà Thanh Lương, sui gia với ngoại tôi, có người con trai duy nhất ra đi rồi bặt âm vô tín ! Tôi nghĩ đến ba tôi. Ba ơi, vài ngày nữa thôi là ba nhận được điện tín của con. Chắc là ba tôi mừng lắm. Tù đày suốt 8 năm, về nhà ở với vợ con, bươn chải kiếm cơm và kiếm đường đi chỉ hơn một năm là ba tôi lại xa cách mẹ và anh em tôi. Nhờ những thùng quà của ba tôi, nhà tôi đã lên giai cấp, giai cấp nhận hàng Mỹ với những cái quần jeans, mấy cục xà phòng Coast thơm phức. Giai cấp ăn rồi đi học Anh Văn để chờ giấy bảo lãnh xuất cảnh. Từ ngày ba tôi đi, tôi đã không còn đạp xe đạp với cái thùng tổ chảng đàng sau đi bỏ bánh kẹo cho mấy bà già bán quán quanh vùng chợ Hòa Hưng, Lê Văn Duyệt. Tôi ra hàng Tân Sơn Nhất, hút thuốc 555 với mấy anh mấy chị Hải Quan. Tôi chạy mánh, đủ tiền café mỗi tối với Hải.

Từ khi xuống ghe, tôi đã cố nhớ từng chi tiết chuyến đi để mai này tới đảo, tôi sẽ viết thư tường tận kể cho mẹ tôi xem để lấy kinh nghiệm cho mấy thằng em tôi đi sau. Tôi sẽ viết thư kể cho Hải, không giấu nó một điều gì như lúc còn đi học HS. Tôi nghĩ đến chuyện gửi về cho nó hộp bút kim hiệu Steadler của Đức để nó vẽ luận án ra trường Kiến Trúc. Bây giờ mày đang đi học phải không ? Đêm qua mày có lên Đỉnh Thiêng Quán ngồi nhớ tao không ? Mày có kêu cho tao ly Café phin rồi đốt một điếu thuốc để cháy trên gạt tàn nhớ tao như lần tao với mày gặp ông lãng tử ngồi yên đốt thuốc nhớ bạn ở quán Café bên Bà Chiểu một tối mưa bay không ? Tao biết bà già mày sẽ trách bà già tao rằng sao bí mật tính chuyện cho tao đi mà không giới thiệu đường dây cho bà già mày lo cho anh em mày.

Tôi lại nhớ bóng dáng Bích Ngà. Khi tới đảo viết thư về kể chuyện đi, tôi nhất quyết là tôi sẽ tỏ tình với nàng. Đối mặt, câu nói anh yêu em sao khó nói quá, tôi hy vọng cách mặt, qua thư từ, dễ viết hơn. Nhưng lại nhớ câu Nhất cự ly, nhì cường độ, tôi đã xa nàng vời vợi thì làm sao giữ nàng? Hoàng sẽ lựa xấp vải KT Mỹ đẹp nhất gửi về cho Ngà may áo Tết hay may áo đi dạy nhé. Ngà cứ may kiểu áo tròng đầu, không khuy nút đàng trước, kiểu áo đó hợp với Ngà, trông trẻ trung nhí nhảnh lắm. Hoàng sẽ kiếm băng nhạc Carpenters gốc cho Ngà. Hoàng sẽ kiếm băng gốc Lionel Richie hát Hello cho Ngà. Ngà đợi Hoàng nhé. Đừng giận Hoàng đi không từ giã chia tay. Có gì Hải sẽ ghé đưa thư Hoàng cho Ngà.

Bắt đầu ngày thứ nhất… tôi miên man nghĩ đến chuyện tương lai…

– Đm ! Sao có chiếc tàu nó ví mình nãy giờ vậy ?

– Có phải tàu Hải Quân không? Cờ của nó màu gì ?

– Thằng nào giữ cái ống nhòm ?

Tiếng lao xao của mấy chàng tài công làm cả ghe bừng tỉnh.

– Đổi hướng đi. Tao thấy cờ màu đỏ.

– Bà con ngồi yên nghen.

Tôi co người ngồi lại, nhìn về phía xa, quả có chiếc tàu đang hướng về ghe, xa lắm, chỉ là một chấm nhỏ. Sự lo lắng hiện lên trên khuôn mặt mọi người xung quanh.

– Ra tới hải phận quốc tế rồi, Hải quân không bắt đâu.

Tiếng niệm Phật, niệm Chúa bắt đầu rì rầm râm ran. Nhìn đồng hồ người bên cạnh, chỉ mới 11 giờ. Ghe đã đổi hướng tìm đường chạy nhưng chiếc tàu mỗi lúc mỗi gần.

– Cờ của nó có màu Đỏ, Đen, Vàng ! Vậy là cờ nước nào ?

Tôi chửi thầm trong bụng, đi vượt biên mà cả đám không biết cờ nước nào, cứ thấy màu đỏ là bỏ chạy, mấy màu khác là Okay. Tôi giận mình dốt địa lý khôn tả!

– Chết mẹ, coi chừng cờ Đông Đức !

– Tụi Đông Đức làm chó gì bắt người vượt biên?

– Hay là cờ Tây Đức ?

– Tây Đức vớt mình thì đi Đức cũng được.

– Đứt chếnh, đứt cống thì có, nó rượt mình mà cứ mừng nó vớt.

– Mày coi lại xem nó có súng không ?

Tôi bắt đầu thấy hình dáng con tàu với bệ chỉ huy, ăng ten cao vời. Chiếc tàu đã đuổi theo ghe tôi cả tiếng đồng hồ, khoảng cách càng lúc càng thu ngắn. Không lẽ được vớt, còn sớm quá, chưa hết ngày thứ nhất mà ! Không lẽ lại bị bắt, đưa vào Côn Đảo ở hầm cọp là tiêu đời ma ! Nam mô A Di Đà Phật cứu khổ cứu nạn !

Đến 1 giờ trưa, chiếc tàu đã sừng sững ở mạn trái của ghe. Tôi nghĩ là tàu hàng, bên mạn tàu, một băng rôn có dòng chữ CAP ANAMUR II và treo cờ Đỏ, Đen và Vàng. Ghe tôi đã tắt máy chịu thua, không dám bỏ chạy nữa, để mặc sóng bập bềnh. Chợt có tiếng nữ qua loa phóng thanh cá nhân bằng tiếng Việt :

– Đây là tàu Cap Anamur cứu người vượt biển. Xin đồng bào yên vị, đừng đứng lên làm lật ghe. Chúng tôi sẽ thả ca nô qua giúp đồng bào.

Vừa nghe câu tuyên bố nọ, cả ghe tôi ồ lên. Tiếng con nít khóc òa lên sau khi bị mẹ bụm miệng bắt im suốt nãy giờ. Chị người Việt trên tàu Cap Anamur tiếp tục nhắc lại câu nói. Tôi lặng người! Vậy là được cứu thật rồi ! Lạy Trời lạy Phật, vậy là số mạng của con cuối cùng được thoát ! Chiếc ca nô với ba thủy thủ cặp ghe tôi, hai người tóc vàng nhanh nhẹn nhảy lên ghe, một người đầu ghe, một người cuối ghe đứng cạnh tài công chỉ cách cặp vào mạn tàu. Chiếc thang đã được thả xuống, con tàu lớn che gió, chiếc ghe nhỏ bé của tôi từng chút nhích vào bên hông. Những sợi dây được cột cứng chiếc ghe vào thang, đàn bà con nít được lên trước. Phía trên cao, tôi thấy có ông Tây to lớn thu hình, chụp ảnh. Chị người Việt tiếp tục cầm loa phóng thanh dịch lại mệnh lệnh vị thuyền trưởng.

Đến lượt tôi ôm giỏ áo quần lên thang. Tôi vẫn còn mơ. Bảy giờ tối lên ghe, một giờ đêm ra tới cửa biển, một giờ chiều hôm sau được tàu vớt. Như chuyện thần tiên! Tôi để lại đôi dép trên ghe, đi chân không để khỏi sợ trợt. Chào mi nhé dép ơi, đời ta đã sang trang. Ta bỏ mi lại như ta bỏ lại quê hương. Ta bỏ mi lại với biển cả. Biển xanh rờn đẹp nhất trong đời tôi.

Tôi đứng mông lung trên boong tàu nhìn về phía xa của biển. Màn đêm phủ một màu đen trên biển, khoảng chân trời xa, có chút ánh sáng dội lên, tôi đoán đó là đất liền. Thành phố nào đây ? Vũng Tàu, Nha Trang hay Đà Nẵng. Một tuần đã trôi qua. Khi chị Phượng, người thông dịch viên, thông báo cho mọi người biết là con tàu sẽ tiếp tục chạy dọc theo chiều dài bờ biển quê hương để đón vớt người vượt biển cả tháng mới vào đất liền, niềm háo hức của mọi người lắng xuống. Lâu quá, làm sao báo tin cho người nhà đang hồi hộp lo lắng số phận người đi ?

Trước khi vớt chuyến ghe của tôi, Cap Anamur đã vớt được một chiếc ghe nhỏ khoảng 20 mạng. Nghe đâu chuyến ghe đó có một em bé thiệt mạng. Ghe xuất phát từ miền Trung, có vẻ là dân chài, nửa tiếng Anh Yes No không biết. Mấy người đàn ông xúm lại hỏi chuyện mấy ma mới và xin thuốc lá. Ghe tôi đếm được tổng cộng là 96 mạng nên được đặt tên là Group 96, đa số là dân Sài Gòn.

Tôi chứng kiến cảnh đổi đời. Những anh tài công, thợ máy một đêm hoạnh họe dưới ghe bỗng trở nên hiền lành im lặng. Ngược lại, vài ông già nằm rũ rượi say sóng dưới ghe như gà mắc mưa lại trở thành ông thiếu tá này, anh trung úy kia, người xổ tiếng Pháp, kẻ liếng tiếng Anh… làm trưởng nhóm, phó nhóm lăng xăng lui tới !

Dưới khoang tàu dùng để chứa Containers khi chở hàng, họ sắp dài hai hàng ván gỗ, trên đó, chiếu mền để sẵn. Sau khi được nhóm y tá người Đức khám sơ sức khỏe, tôi vác mớ áo quần vừa được phát về một tấm ván, trải chiếu ra nằm. Tôi làm quen với anh Nguyễn Xuân Lai, cựu Pilot trực thăng. Anh Lai có bộ râu như ông Kỳ, đẹp trai dáng đàn ông nhưng mặt rầu rĩ vì bỏ lại vợ và hai con gái. Khi mấy ông cựu Quân nhân năng nổ làm thiện nguyện viên, anh Lai lui mình nằm dài tán chuyện với tôi, hai anh em share từng điếu thuốc còn lại. Anh có thân nhân anh em ở Mỹ nhưng muốn đi bất cứ nước nào để có thể bảo lãnh vợ con qua nhanh chóng.

Một sáng, nhóm thủy thủ đi ca nô nhảy qua ghe tôi hôm nọ đi lòng vòng thăm hỏi bà con. Nhờ võ vẽ vài ba tiếng Anh, tôi làm quen được chàng thủy thủ tóc vàng hoe người Đức, tự xưng là phó thuyền trưởng. Tôi ngờ nghệch lôi hũ mật ong ra biếu anh ta tỏ lòng biết ơn, tôi cứ nghĩ mật ong là quý lắm, anh ta lắc đầu từ chối : You need it more than I do. Tôi cứ dúi vào tay anh ta, bắt nhận cho được. Anh ta hỏi tôi có muốn làm thiện nguyện, lên đài chỉ huy cầm ống nhòm phụ tìm ghe vượt biên hay không, tôi gật đầu.

Sinh hoạt trên tàu cho cả trăm người dần dần đi vào nề nếp. Mấy cụ già, phụ nữ xung phong nấu cơm ngày hai buổi trưa chiều. Buổi sáng, họ cho ăn đồ khô. Phía đầu tàu, họ để những bếp gas dã chiến làm bếp. Khác hẳn với thư từ ba tôi viết về kể là khi được tàu Mỹ vớt, đồ ăn bánh kẹo thoải mái hay thủy thủ cho thuốc lá hút bể phổi, Cap Anamur không phát thuốc lá hay bánh kẹo. Thực phẩm khô đựng trong container lớn trên boong khóa lại kỹ càng. Dãy nhà tắm bằng thép được hàn thêm bên mạn phải con tàu, tuy nhiên, hình như tàu không đủ nước ngọt nên dân tỵ nạn phải tắm bằng nước biển, rít rát. Tôi không còn nhớ đi tiêu đi tiểu ra sao, vì tôi bị bón ! Món cá hộp sốt cà chua và hành tây ăn ngon miệng được vài ngày đầu, mấy ngày sau ngán tận cổ. Thèm món canh thịt bò sả mẹ tôi nấu vô ngần.

Sang đến ngày thứ hăm mốt, Cap Anamur đã vớt thêm được ba ghe, nâng tổng số người vớt lên tới 202. Vẫn còn thua chuyến mấy tháng trước, hơn ba trăm mạng. Chị Phượng và anh Đinh Quang Anh Thái vẫn thông báo tình hình cho bà con, xấu, rất xấu, tất cả các nước đều quyết định không cấp chiếu khán nhập cảnh cho người Cap Anamur vớt. Cap Anamur thuộc hội thiện nguyện của Đức và Pháp, Đức và Pháp phải chịu trách nhiệm cấp chiếu khán. Singapore không cho quá cảnh, các trại tỵ nạn khác đều lắc đầu. Những người có thân nhân ở Mỹ như tôi đầy lo lắng. Thôi, đi Đức qua ở với ông dượng và thằng em họ cũng được, tôi an ủi. Một số người than vãn một câu rất ư là vô ơn : “Biết vậy xin thêm dầu và lương thực chạy đến đảo cho rồi !!!”, tôi chỉ biết lắc đầu chịu thua.

Hai trăm mạng người Việt tỵ nạn trên tàu là một xã hội nhỏ, có người tốt, người xấu, ở lâu, chuyện gì tới phải tới. Một vài cô gái được nhóm thủy thủ mời vào phòng, đi ra tươi cười với vài đồ vật trên tay, miệng cười cười khiến tiếng xầm xì khắp nơi. Có đêm, người ta bắt gặp một cô gái trẻ ngồi tán chuyện với một chàng thủy thủ trẻ đằng trước mũi tàu, tiếng đồn không hay lại lan ra. Tôi nhớ cô ấy tên Hồng, sau này đi Úc. Cả tàu chỉ mong ngày vào đất liền !

Chị Phượng ra thông báo Cap Anamur sẽ rời biển Đông, vào cảng Singapore, mang sức sống hy vọng lại cho mọi người. Tàu sẽ neo ở cảng Singapore 3 ngày để tiếp tế lương thực, nước nôi, xăng dầu rồi sẽ chở chúng tôi qua trại tỵ nạn Palawan của Phi Luật Tân. Cao ủy tỵ nạn Palawan cho phép chúng tôi quá cảnh. Trong vòng ba ngày ở Singapore, tất cả mọi rác rưởi phải được bỏ đúng chỗ, không được búng tàn thuốc xuống nước. Mỗi mẩu tàn thuốc vất xuống nước sẽ bị phạt $500, chị dặn đi dặn lại và mong chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành. Một nhóm thiện nguyện khác sẽ thay thế nhóm của chị, có thể có một vài người Việt đến từ California.

Đêm tàu vào cảng Singapore, tôi nôn nao ngủ không được. Ra boong tàu đứng, từng chiếc tàu hàng sáng rực đèn xếp hàng chạy. Suốt gần một tháng, tôi chỉ thấy màn đêm phủ một màu đen trên biển. Singapore đó, nơi ba tôi và ông dượng quá cảnh ba tháng nhưng bây giờ tôi được phép đặt chân lên. Singapore, thành phố của văn minh và tự do nhưng tôi chỉ được phép ngó từ xa. Khi thuyền bỏ neo, tôi khám phá ra 3 ngày tàu đậu lại cảng là một cực hình. Trời nóng khó chịu khi tàu neo lại, dưới hầm quá ngột ngạt, lên boong lại nắng chói, nắng từ thép tàu hắc lên mặt như tra tấn. Trời lại ít gió, cứ mong sao 3 ngày chóng qua để được đưa tới Palawan.

Ký giả Dương Phục và một tay quay phim của đài truyền hình Việt Nam ở California lên tàu thăm, làm phóng sự, chúng tôi bu quanh âu lo thăm hỏi số phận. Khi ký giả Dương Phục hỏi cần gì để ông có thể giúp, cả bọn đàn ông đều xin thuốc lá ! Tôi đã nhờ anh chàng phó thuyền trưởng người Đức đánh điện cho ba tôi. Một chiều, ký giả Dương Phục quay lại với đống thuốc lá, đây là $200 của anh em thiện nguyện góp lại mua thuốc lá cho đồng bào. Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, sàn tàu Cap Anamur đầy rẫy mẩu đầu lọc thuốc lá khiến vị thuyền trưởng nhăn mặt, ra lệnh làm tổng vệ sinh ! Nhưng ông ta không cần ra lệnh cấm hút, còn thuốc lá đâu nữa mà hút, anh Lai và tôi phải moi dế nhủi dưới ván lên quấn với giấy báo hút.

Cả tàu tôi hào hứng chuẩn bị đón Tiến Sĩ Rupert Neudeck đến thăm. Kho lương thực được mở ra để quý bà trổ tài nấu nướng, nhờ được tiếp tế đồ ăn tươi, menu có phần phong phú hơn. Quý ông trưởng nhóm, phó nhóm lo quét dọn boong tàu sạch sẽ, một gã Trung sĩ thông dịch viên cũ cầm sơn khoanh một vòng để chữ VIP. Tôi chẳng biết VIP là gì, chỉ biết chỗ đó dành cho các nhân vật quan trọng, đừng dại đặt đít vô ngồi kẻo bị rủa. Trước bữa ăn, nghi lễ nho nhỏ với vài lời phát biểu tỏ lòng biết ơn ông Tiến Sĩ và vị thuyền trưởng khá cảm động. Hôm sau, tàu nhổ neo hướng về Palawan.

Palawan, phải, Palawan, không phải là Galăng, Biđông, hay Sikhiew như những thư từ kể lại. Palawan, nơi tôi sắp tới để bắt đầu khoác áo làm dân tỵ nạn. Palawan nghe sao đáng yêu quá !

Source : https://hoiquanphidung.com/showthread.php?18921-Tr%C3%AAn-t%C3%A0u-Cap-Anamur

Ngư ông và Biển cả

 

Ngư ông và Biển cả

 

Ernest Hemingway

Dịch giả: Phùng Khánh, Phùng Thăng
Phần 1

Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng Nhiệt lưu và đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào. Bốn mươi ngày đầu thằng bé đi với lão. Nhưng sau bốn mươi ngày không câu được cá, cha mẹ thằng bé bảo nó rằng rốt cuộc bây giờ ông lão đã hoàn toàn salao, cách diễn đạt tệ nhất của vận rủi, rồi buộc nó đi theo thuyền khác và ngay trong tuần lễ đầu tiên chiếc thuyền ấy đã câu được ba con cá lớn. Điều đó khiến thằng bé buồn khi hằng ngày thấy ông lão trở về với chiếc thuyền không, nó luôn xuống giúp lão mang khi thì cuộn dây, cái lao móc săn cá, khi thì cái sào hay tấm buồm quấn quanh cột. Tấm buồm được vá bằng bao bột, cuộn lại trông như một lá cờ bại trận triền miên. ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả. Chúng cũ kỹ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt; chúng có cùng màu với nước biển, vui vẻ và không hề thất bại.

« Ông Santiago », thằng bé nói khi hai người leo lên bờ nơi con thuyền được kéo lên. « Cháu có thể lại đi cùng ông. Chúng ta đã có ít tiền rồi ».

Ông lão dạy thằng bé câu cá và nó quý lão.

« Đừng », lão nói.

« Cháu đang đi với con thuyền may mắn. Hãy ở lại với họ ».

« Nhưng ông còn nhớ có hồi suốt tám mươi bảy ngày ta không bắt được cá nhưng sau đó trong ba tuần lễ ngày nào ta cũng vớ được cá lớn.

« Ông nhớ », ông lão nói.

 » Ông biết cháu đã không rời bỏ ông vì thiếu lòng tin ».

« Tại cha cháu bắt làm như thế. Cháu còn nhỏ, cháu phải nghe lời cha ».

« Ông hiểu », ông lão nói.

« Đấy là chuyện thường ».

« Cha cháu chẳng tin đâu ».

« Phải », ông lão nói.

« Nhưng chúng ta tin, đúng không ? »

« Vâng », thằng bé đáp.

« Cháu có thể mời ông một lá bia ở khách sạn Terrace trước khi chúng ta mang mấy thứ này về nhà chứ ? »

« Tại sao lại không ? » ông lão nói. « Dân chài với nhau cả mà ».

Họ ngồi ở Terrace và rất nhiều người đánh cá trêu ông lão nhưng lão không giận. Một số khác, những ngư dân lớn tuổi hơn, nhìn lão và cảm thấy buồn. Nhưng họ không để lộ ra mà chỉ từ tốn nói về dòng chảy, độ sâu buông câu, về thời tiết tốt, ổn định và về những thứ họ đã nhìn thấy. Mấy tay đánh cá thành công của ngày ấy đã trở về, xả thịt con cá kiếm của họ, sắp đầy lên hai tấm ván, mỗi người khiêng một đầu đi xuyên đến nhà để cá, đợi chiếc xe tải ướp lạnh đưa đến chợ Havana. Những người bắt được cá mập thì đưa chúng đến xưởng cá mập phía bên kia vịnh; chúng được móc treo lên bằng ròng rọc, gan bị mổ lấy, vi bị cắt, da bị lột và thịt thì được xẻ thành súc đưa ướp muối. Khi gió Đông thổi, mùi tanh nồng từ xưởng cá mập bên kia cảng phả đến. Nhưng hôm nay, mùi cá chỉ thoang thoảng vì gió thổi chếch sang hướng Bắc rồi lặng hẳn; trên Terrace trời tỏa nắng dễ chịu.

« Ông Santiago », thằng bé gọi.

« Ừ », ông lão đáp. Lão đang giữ cái lá và hồi tưởng về nhiều năm trước.

 » Cháu đi kiếm giúp ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé ? »

« Đừng. Đi chơi bóng chày đi. ông vẫn có thể chèo và Rogelio sẽ quăng lưới ».

« Cháu thích đi. Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc gì đó ».

« Cháu đã mua bia cho ông », ông lão nói.

« Cháu thực sự là đàn ông rồi.

 » Lần đầu tiên ông đưa cháu ra khơi, cháu lên mấy ? »

 » Lên năm, và suýt nữa cháu bị chết khi ông lôi con cá quá lớn lên thuyền, nó gần như quật tan con thuyền ra nhiều mảnh. Cháu có còn nhớ không ? »

 » Cháu vẫn nhớ cái đuôi quật mạnh; chỗ ngồi chèo thuyền bị gãy và tiếng nện của cái chày. Cháu nhớ ông ném cháu ra đằng mũi thuyền, nơi lùng nhùng những sợi dây ướt rồi cháu cảm thấy toàn bộ con thuyền chao đảo và tiếng ông quật con cá nghe như thể đang đốn cây, máu nóng hổi bắn cả lên người cháu ».

« Có phải cháu thực sự nhớ chuyện ấy hay là do ông kể ? »

 » Cháu nhớ mọi thứ kể từ cái lần đầu tiên ông cháu ta đi cùng nhau ». Ông lão nhìn thằng bé bằng ánh mắt chan chứa tình thương, tin cậy, ấm áp của mình.

« Nếu cháu là con ta thì ta sẽ đưa cháu đi cầu may một phen », lão nói.

« Nhưng cháu là con của cha mẹ cháu và cháu đang đi trên con thuyền may mắn ».

« Cháu có thể đi kiếm cá mòi chứ? Cháu còn biết nơi cháu có thể kiếm được bốn con mồi ».

« Hôm nay ông vẫn còn mấy con. Ông đã muối chúng trong thùng ».

« Để cháu đi kiếm bốn con tươi ».

 » Một thôi, ông lão nói ».

Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang nổi.

« Hai », thằng bé nói.

« Hai », ông lão đồng ý.

 » Cháu không ăn cắp đấy chứ ? »

 » Cháu không », thằng bé đáp.

 » Cháu mua ».

 » Cảm ơn cháu », ông lão nói. Lão quá giản dị để không tự hỏi tính nhún nhường của mình có tự bao giờ. Nhưng lão biết lão đã có nó và lão biết nó chẳng có gì xấu hổ và cũng chẳng mảy may phương hại đến niềm kiêu hãnh thực sự.

 » Với con nước này, mai sẽ là một ngày tốt lành », lão nói.

 » Ông sẽ đến đâu ? » thằng bé hỏi.

 » Đi thật xa, khi gió trở thì mới quay về. ông muốn đến đấy trước khi trời sáng ».

 » Cháu sẽ tìm cách để ông ấy ra câu xa », thằng bé nói.

 » Rồi khi ông câu được một con gì đấy thật sự lớn, cháu sẽ có thể đến giúp ».

 » Ông ấy không thích ra khơi xa đâu ».

 » Vâng », thằng bé nói.

 » Nhưng cháu sẽ thấy cái gì đó, một con chim săn mồi chẳng hạn, mà ông ấy không thể thấy rồi giục ông ta bám theo bầy cá dorado ».

 » Mắt ông ấy kém đến thế ư ? »

 » Ông ấy gần như mù ».

 » Lạ thật, ông lão nói ».

 » Ông ấy chưa bao giờ đi săn rùa. Đấy là lý do làm mắt kém thị lực ».

 » Nhưng ông đã nhiều năm đi săn rùa tận Mosquito Coast mà mắt ông vẫn còn tốt ».

 » Ta là một lão già kỳ lạ ».

 » Nhưng giờ đây ông có còn đủ sức để dành cho con cá thật lớn không ? »

 » Ông chắc thế. Vả lại còn có nhiều mẹo nữa ».

 » Chúng ta hãy mang dụng cụ về nhà », thằng bé nói.

 » Rồi cháu có thể mang lưới -quăng đi bắt cá mòi ».

Họ tháo vật dụng khỏi thuyền. ông lão vác cột buồm, thằng bé mang thùng gỗ đựng dây, những sợi dây câu màu nâu được bện thật chắc, cái móc, ngọn lao với cán của nó. Thùng đựng mồi để ở đuôi thuyền, bên cạnh cái chày được dùng để quật những con cá lớn khi bị kéo lên khoang.

Chẳng ai ăn trộm đồ đạc của ông lão, nhưng tốt hơn thì cứ đưa cánh buồm, cuộn dây nặng vào nhà bởi sương có thể làm chúng hỏng và dẫu cho lão có hoàn toàn tin chắc là chẳng có người địa phương nào ăn cắp của lão thì lão vẫn nghĩ cái móc và ngọn lao hẳn có sức cám dỗ khi để trên thuyền. Họ cùng đi bộ trên con đường đến lều ông lão rồi bước vào qua cánh cửa để ngỏ. ông lão dựng cột buồm với lá buồm quấn quanh vào vách, thằng bé đặt cái thùng gỗ và mấy thứ khác bên cạnh. Cột buồm cao gần bằng chiều cao của căn lều một buồng. Vách lều được ghép bằng thân loài cọ xù xì có tên gọi là guano; trong lều có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cái bếp trên nền đất để nấu bằng than củi. Trên bức tường màu nâu của những thân cọ guano đập giập với mấy chiếc lá cứng queo của chúng chồng lên nhau, là hai bức ảnh màu của Đức Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre. Đấy là di vật của vợ lão. Có dạo bức ảnh tô màu của vợ lão cũng được treo trên tường nhưng rồi lão đã tháo xuống bởi nó khiến lão càng cô đơn hơn khi nhìn thấy, lão để nó trên giá trong góc dưới chiếc sơ mi sạch của lão.

 » Ông có gì ăn không ? », thằng bé hỏi.

 » Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không ? »

 » Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. ông có cần cháu nhóm lửa không ? »

 » Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội ».

 » Cháu có thể mang cái lưới -quăng đi chứ ? »

 » Dĩ nhiên ».

Không có cái lưới -quăng nào cả, thằng bé nhớ rõ cái lúc họ bán nó. Nhưng ngày nào hai ông cháu cũng vờ tưởng tượng như thế. Và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá nào cả.

 » Tám mươi lăm là con số may mắn », ông lão nói.

 » Cháu có thích ông mang về con cá nặng gần nửa tấn không ? »

 » Cháu sẽ lấy cái lưới -quăng đi bắt cá mòi. ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ ? »

 » Ừ. Ông có tờ báo hôm qua và sẽ đọc về trận bóng chày ».

Thằng bé không chắc liệu cái tờ báo hôm qua ấy có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng nữa không. Nhưng ông lão đã lôi tờ báo từ dưới giường ra.

“Perico cho ông ở bodega”, lão giải thích.

 » Cháu sẽ quay lại khi kiếm được vài con cá mòi. Cháu sẽ ướp đá mấy con của ông cùng của cháu rồi sáng mai chúng ta chia nhau. Khi cháu quay lại, ông nhớ kể cho cháu nghe chuyện đội bóng đấy ».

 » Đội Yankee không thể thua ».

 » Nhưng cháu sợ đội Da Đỏ Cleveland ».

 » Hãy tin vào đội Yankee, cháu à. Hãy tin tưởng ở Di Maggio vĩ đại ».

 » Cháu sợ cả đội Hổ Detroit lẫn đội Da Đỏ Cleveland ».

 » Hãy coi chừng không khéo cháu lại sợ cả đội Đỏ Cincinnati và đội White Sox của Chicago ».

 » Ông đọc đi rồi kể cho cháu lúc cháu quay lại ».

 » Cháu có nghĩ chúng ta nên mua tờ vé số có số cuối là tám mươi lăm không? Mai là ngày thứ tám mươi lăm ».

« Chúng ta có thể mua », thằng bé nói.

 » Nhưng thế còn con số cực kỳ kỷ lục của ông là tám mươi bảy ».

 » Không thể xảy ra lần thứ hai đâu. Cháu có chắc là cháu có thể tìm được tờ vé số tám mươi lăm ấy chứ ? »

 » Cháu có thể mua một chiếc ».

 » Một chiếc. Hai đô la rưỡi đấy. Ai có thể cho chúng ta vay món tiền ấy ? »

 » Dễ thôi mà. Cháu luôn có khả năng vay hai đô rưỡi ».

 » Ông nghĩ có lẽ ông cũng có khả năng đó. Nhưng ông cố không vay mượn. Thoạt tiên thì vay mượn. Rồi sau đó là ăn mày ».

« Hãy giữ ấm ông ạ”, thằng bé nói.

 » Chúng ta đã qua tháng chín ».

« Tháng này là mùa cá lớn”, ông lão nói.

 » Vào tháng năm thì ai cũng có thể trở thành người đánh cá ».

“Bây giờ cháu đi kiếm cá mòi đây”, thằng bé nói. Khi thằng bé trở lại ông lão đã ngủ trên ghế, mặt trời đã lặn. Thằng bé mang cái mền lính cũ trong giường ra trải lên phía sau ghế, đắp qua vai ông lão. Đôi vai thật kỳ lạ, vẫn chắc nịch dẫu đã rất già, cả cái cổ vẫn còn khỏe, những nếp nhăn mờ đi khi ông lão ngủ gục đầu về phía trước. Chiếc sơ mi của ông được vá nhiều lần đến nỗi trông nó cũng hệt như tấm buồm; mặt trời làm mấy miếng vá ấy phai nhạt theo nhiều màu khác nhau. Dẫu sao thì cái đầu ông lão cũng đã rất già và khi đôi mắt nhắm lại thì khuôn mặt lão không còn sinh khí. Tờ báo nằm vắt qua đầu gối lão, độ nặng của cánh tay giữ nó ở lại đó trong làn gió nhẹ buổi tối. Lão đi chân trần. Thằng bé để lão ở đó và khi nó quay lại ông lão vẫn còn ngủ.

“Ông ơi, dậy đi”, thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối lão. ông lão mở mắt, ngơ ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. Rồi lão mỉm cười.

“Cháu có cái gì đấy”, lão hỏi.

“Đồ ăn tối”, thằng bé nói.

“Chúng ta sẽ ăn tối”.

“Ông không đói lắm đâu”.

“Thì cứ ăn vậy. ông không thể không ăn mà bắt cá được”.

“Vẫn cứ câu được”, ông lão nói lúc đứng dậy cầm tờ báo gấp lại. Rồi lão chuẩn bị xếp mền.

“Ông cứ quấn mền quanh người”, thằng bé nói.

“Trong lúc cháu còn sống thì ông không phải nhịn đói mà đi câu cá”.

“Vậy thì hãy sống cho thật lâu và quan tâm đến bản thân mình”, ông lão nói.

“Ta ăn gì vậy?”.

“Đậu đen, cơm, chuối chiên và ít thịt hầm”. Thằng bé đựng mấy món ấy trong chiếc cặp lồng hai ngăn, mang về từ Terrace. Hai bộ dao nĩa, thìa được quấn bằng giấy ăn đút trong túi nó.

“Ai cho cháu mấy món này?”

“Bác Martin. Chủ quán”.

“Ông phải cảm ơn bác ấy”.

“Cháu đã cảm ơn rồi”, thằng bé nói.

“Ông không phải cảm ơn bác ấy nữa”.

“Ông sẽ biếu bác ấy miếng thịt bụng của con cá lớn”, ông lão nói.

“Bác ấy đã nhiều lần cho chúng ta như thế này phải không?”

“Cháu nghĩ thế”.

“Vậy thì ông phải biếu bác ấy cái gì quí hơn miếng thịt bụng. Bác ấy rất tử tế với chúng ta”.

“Bác ấy gửi biếu hai chai bia”.

“Ông thích bia lon nhất”.

“Cháu biết. Nhưng đây là bia Hatuey đóng chai, cháu sẽ mang trả chai”.

“Cháu chu đáo quá”, ông lão nói.

“Ta ăn chứ?”

“Thì cháu đã mời ông mãi,” thằng bé dịu dàng nói.

“Cháu chưa muốn mở cặp lồng trước khi ông đã sẵn sàng”.

“Ông sẽ sẵn sàng ngay”, ông lão nói.

“Ông chỉ rửa sơ qua một tí”. ông rửa ở đâu nhỉ, thằng bé nghĩ. Nguồn nước của làng cách đây hai con đường. Mình phải lấy nước về cho ông, thằng bé nghĩ, xà phòng và cả khăn tắm tươm tất nữa. Sao mình lại vô tâm đến thế? Mình phải kiếm cho ông chiếc sơ mi khác, một chiếc jacket mặc mùa đông, đôi giày và một cái mền nữa.

“Món thịt hầm của cháu tuyệt lắm”, ông lão nói.

“Kể cho cháu nghe về trận bóng đi”, thằng bé giục lão.

“Như ông đã nói, trong Liên đoàn Mỹ, đấy là đội Yankee”, ông lão hạnh phúc nói.

“Hôm nay họ thua rồi”, thằng bé nói với lão.

“Điều đó chẳng hề gì. Di Maggio vĩ đại vẫn cứ là Di Maggio”.

“Họ có những cầu thủ khác trong đội”.

“Rõ rồi. Nhưng anh ta thì khác hẳn. Trong liên đoàn khác, nếu giữa Brooklán và Philadelphia thì chắc ông chọn Brooklán. ông còn nhớ đến cả Dick Sisler và những cú vụt bóng lừng danh trên sân đấu trước đây nữa”.

“Không có ai sánh bằng đâu. Trong đời cháu mới chỉ thấy anh ấy là người vụt bóng đi xa nhất”.

“Cháu có còn nhớ thuở anh ấy thường đến Terrace không? ông muốn mời anh ấy đi câu cùng nhưng lại quá nhút nhát để đưa ra lời đề nghị. Khi ông bảo cháu mời anh ấy thì cháu lại cũng nhát gan”.

“Cháu biết. Đấy là một lỗi lầm tai hại. Chắc anh ấy sẽ đi cùng chúng ta. Rồi chúng ta sẽ giữ kỷ niệm ấy trong suốt cả cuộc đời”.

“Ông cũng muốn đưa Di Maggio vĩ đại đi câu”, ông lão nói.

“Người ta bảo cha anh ấy là ngư dân. Có lẽ anh ấy cũng nghèo như ta và sẽ thông cảm”.

“Cha của Siạler lừng danh thì chẳng nghèo tí nào, ông ta, lúc vào độ tuổi của cháu, đã chơi cho Liên đoàn Big”.

“Khi bằng tuổi cháu, ông đã đứng trước cánh buồm, trên con tàu được trang bị chu đáo đến châu Phi và ông đã nhìn thấy sư tử trên bờ biển vào lúc chiều tối”.

“Cháu biết. ông đã kể cho cháu nghe rồi”.

“Ta nên nói chuyện về châu Phi hay về bóng chày?”

“Cháu nghĩ là bóng chày”, thằng bé đáp.

“Kể cho cháu nghe về danh thủ John J. McGraw”. Nó nói Jota thay vì chỉ phát âm chữ J.

“Thỉnh thoảng vào những ngày xa xưa ấy, anh ta thường đến Terrace. Nhưng khi đã rượu vào thì anh ta nóng nảy, nói năng nhát gừng và khó đăm đăm. Đầu óc anh ta dồn hết cả vào ngựa và bóng chày. Lúc nào anh ta cũng giữ danh sách ngựa trong túi áo rồi cứ xướng tên qua điện thoại”.

“ông ta là tay quản lý ra trò”, thằng bé nói.

“Cha cháu nghĩ ông ta là người vĩ đại nhất”.

“Bởi vì lúc nào anh ta cũng đến đây”, ông lão nói.

“Nếu hằng năm Durocher cứ đến đây thì chắc cha cháu sẽ nghĩ anh ta là tay quản lý cừ khôi nhất”.

“Thật ra ai là ông bầu vĩ đại nhất, Luque hay Mike Gonzalez?”

“ông nghĩ hai người ngang nhau”.

“Còn người đánh cá tài ba nhất là ông”.

“Không. ông biết nhiều người giỏi hơn”.

“Que va”, thằng bé thốt lên.

“Có nhiều người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại. Nhưng ông là người duy nhất”.

“Cám ơn. Cháu làm ông hạnh phúc. ông hy vọng sẽ không có con cá nào cùng vĩ đại như thế để chứng minh rằng ông cháu ta sai”.

“Sẽ chẳng có con cá nào như thế nếu ông vẫn còn khỏe như ông nói”.

“Có lẽ ông không được khỏe như ông nghĩ đâu”, ông lão nói.

“Nhưng ông biết nhiều mẹo và có cách xử lý”.

“Giờ thì ông nên ngủ đi để sáng mai khỏe khoắn. Cháu mang mấy thứ trả Terrace”.

“Vậy thì tạm biệt. Sáng mai ông sẽ đến đánh thức cháu”.

“ông là cái đồng hồ của cháu”, thằng bé nói.

“Tuổi tác là đồng hồ của ông”, ông lão nói.

“Tại sao người già lại thức giấc quá sớm? Phải chăng là muốn có một ngày dài hơn?”

“Cháu không biết”, thằng bé nói.

“Những gì cháu biết là người trẻ thì ngủ dậy muộn và khó”.

“Ông nhớ”, ông lão nói.

“Ông sẽ đánh thức cháu đúng giờ”.

“Cháu không thích ông ta đánh thức cháu. Việc đó như thể cháu là kẻ bề dưới”.

“Ông hiểu”.

“Chúc ông ngủ ngon”. Thằng bé đi ra. Họ ăn mò, không có đèn trên bàn; ông lão cởi quần dài, đi ngủ trong bóng tối. Lão quấn chiếc quần quanh tờ báo làm gối. Lão cuộn người trong chăn, nằm lên những tờ báo cũ trải trên giát giường. Lão ngủ ngay và mơ về châu Phi, khi lão hãy còn là một chú nhóc, với những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau nhức, những mũi đất cao nhô ra biển, những ngọn núi xám đồ sộ. Bây giờ hằng đêm lão về lại bờ biển ấy và trong mơ lão nghe tiếng sóng gầm, lão thấy đoàn thuyền của người bản địa đang trườn qua những con sóng. Khi ngủ, lão ngửi thấy mùi nhựa đường, mùi gỗ sồi lát boong tàu; rồi lão ngửi thấy hương vị châu Phi theo làn gió đất phả tới vào buổi sáng. Thông thường khi ngửi thấy làn gió nội địa, lão thức dậy, mặc đồ, đến đánh thức thằng bé. Nhưng đêm nay, gió nội địa đến rất sớm và trong mơ lão biết hãy còn quá sớm nên lão tiếp tục mơ để thấy những mỏm trắng xóa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canará. Lão không còn mơ về bão, không còn mơ về đàn bà, về những sự kiện trọng đại, những con cá lớn, những trận đánh, những cuộc đấu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về các vùng đất, về những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chú mèo con trong hoàng hôn; lão yêu chúng như yêu thằng bé. Lão không bao giờ mơ về thằng bé. Lão chợt thức giấc, nhìn ánh trăng bên ngoài cánh cửa để ngỏ rồi giũ quần mặc vào. Lão tiểu bên lều rồi đi lên đường đánh thức thằng bé. Lão rùng mình trong bầu không khí lạnh ban mai. Nhưng lão biết lão sẽ còn run mãi cho đến lúc tay chèo làm lão ấm lên. Cánh cửa ngôi nhà thằng bé sống không khóa, lão mở rồi khẽ đưa đôi chân trần bước vào. Thằng bé ngủ trên chiếc giường nhỏ ở phòng đầu tiên; và ông lão, trong ánh trăng sắp lặn, có thể nhìn rõ nó. Lão nhẹ nhàng nắm lấy một bàn chân, giữ cho đến khi thằng bé thức giấc, quay lại nhìn lão. ông lão gật đầu, thằng bé lấy chiếc quần dài vắt trên ghế cạnh giường, mặc vào khi còn ngồi trên giường. ông lão ra cửa, thằng bé đi theo. Nó đang ngái ngủ, lão quàng tay qua vai nó và nói,

“Ông xin lỗi”.

“Queva”, thằng bé nói.

“Đấy là việc mà một người đàn ông phải làm”. Họ xuống đường đến lều ông lão và suốt dọc đường, trong bóng tối, nhiều người đi chân trần, vác buồm ra thuyền. Khi hai người đến lều ông lão, thằng bé xách cái xô đựng cuộn dây, cây lao, cây sào móc; còn ông lão vác cột buồm với lá buồm đã quấn lại.

“Ông có muốn uống cà phê không ?”, thằng bé hỏi.

“Chúng ta để dụng cụ xuống thuyền rồi đi uống”. Họ uống cà phê trong hộp đựng sữa đặc tại điểm phục vụ những người đánh cá vào sáng sớm.

“Ông ngủ có ngon không?”, thằng bé hỏi. Giờ thì nó dần tỉnh táo hơn như thể giấc ngủ hẵng cứ bám riết lấy nó.

“Rất ngon, Manolin à”, ông lão đáp.

“Hôm nay ông cảm thấy tự tin”.

“Cháu cũng thế”, thằng bé nói.

“Bây giờ cháu phải đi lấy cá mòi của ông cháu ta và số mồi tươi của ông. Tự ông ấy mang dụng cụ. ông ấy chẳng hề muốn bất kỳ ai mang bất cứ thứ gì”.

“Chúng ta thì khác”, ông lão nói.

“Ông để cháu mang đồ nghề kể từ lúc cháu lên năm”.

“Cháu biết điều đó”, thằng bé nói.

“Cháu sẽ về ngay. ông cứ uống thêm tí nữa. Chúng ta có thể uống chịu ở đây”. Nó đi chân không trên lớp san hô đến nhà ướp lạnh nơi mồi được giữ ở đấy. ông lão chậm rãi uống cà phê. Đấy là tất cả thực phẩm lão có cho một ngày và lão biết lão nên uống. Đã từ lâu, ăn uống đối với lão trở nên chán ngắt và lão không bao giờ mang theo bữa trưa. Lão có một chai nước đằng mũi thuyền và đấy là tất cả lão cần trong một ngày. Lúc này thằng bé đã quay lại, mấy con cá mòi và hai miếng mồi câu được bọc trong tờ báo, hai người men theo lối mòn đến thuyền, chân giẫm lên lớp cát pha sỏi, nâng con thuyền đẩy xuống nước.

“Chúc ông may mắn”.

“Chúc cháu may mắn”, ông lão nói. Lão tra quai chèo vào cọc, nghiêng người tới trước khua mạnh mái chèo xuống nước; trong bóng tối, lão chèo ra khỏi bến. Có nhiều chiếc thuyền từ các bãi khác ra khơi; ông lão nghe tiếng mái chèo khua nước mặc dù lão không thể nhìn thấy họ bởi bây giờ mặt trăng đã khuất sau rặng đồi. Thỉnh thoảng, có tiếng ai đó nói trên thuyền. Nhưng hầu hết các thuyền đều im lặng trừ tiếng mái chèo khua nước. Họ tỏa rộng sau khi ra khỏi cửa biển; mỗi người đi đến phần đại dương nơi họ hy vọng tìm thấy cá. ông lão biết mình sẽ đi thật xa, để lại mùi đất sau lưng, chèo vào vùng hương tinh khôi của đại dương ban mai. Lão thấy ánh lân quang của đám rong vùng Nhiệt lưu trong nước khi lão chèo qua vùng biển mà ngư dân gọi là vùng Giếng lớn, bởi vì độ sâu ở đấy bất thình lình tụt xuống đến bảy trăm sải nước; họ hàng nhà cá đều dồn tất tại đó do xoYy nước dội thẳng vào bờ vách dốc của đáy đại dương. ở đấy tập trung tôm, cá mòi và thỉnh thoảng hàng đàn cá mực, sống trong những hố sâu nhất ngoi lên gần mặt nước vào ban đêm để làm mồi cho những con cá lang thang.

Trong bóng tối, ông lão có thể cảm nhận bình minh đang đến và lúc chèo, lão nghe thấy những âm thanh run rẩy khi đàn cá chuồn rời mặt nước và cả tiếng lao xao phát ra từ bộ cánh cứng khi chúng lao xao trong bóng tối. Lão rất quý loài cá chuồn bởi chúng là bạn gần gũi của lão trên đại dương. Lão thương cho lũ chim, đặc biệt là loài nhạn đen nhỏ, mỏng manh cứ bay và tìm kiếm mãi nhưng hầu như chẳng tìm thấy gì; lão nghĩ loài chim sống khổ hơn ta trừ mấy cái giống chim kẻ cướp và những loài to xác, kềnh càng. Tại sao tạo hóa lại sinh ra cái giống chim quá xinh xẻo mỏng manh như loài nhạn biển này trong khi đại dương lại có thể quá ư nghiệt ngã?

Đại dương tử tế và rất đẹp. Nhưng nó có thể rất độc ác và tráo trở bất thình lình; còn loài chim kia thì phải bay, nhao xuống săn mồi; và tiếng kêu thảng thốt, khẽ khàng của chúng lại quá yếu ớt giữa trùng khơi. Lão luôn nghĩ về biển như lamar, đấy là cách người ta gọi biển bằng tiếng Tây Ban Nha khi họ yêu biển. Thỉnh thoảng những người yêu biển cũng buông lời nguyền rủa biển nhưng họ luôn nói như thể biển là phụ nữ. Vài tay đánh cá trẻ, sử dụng phao nhựa làm phao câu và đi thuyền máy, sắm được khi gan cá mập được giá, gọi biển là el mar, tức giống đực. Chúng nói về biển như một đối thủ, một địa điểm hay thậm chí là một kẻ thù. Nhưng ông lão thì luôn nghĩ về biển như về một phụ nữ, như cái gì đó có thể ban phát hay chối giữ ơn huệ, và nếu biển làm điều ác độc hay tàn bạo thì bởi lẽ lúc ấy biển không thể nào kìm giữ nổi. Mặt trăng tỏa chiếu trên biển như thể tỏa chiếu trên cơ thể của người đàn bà, lão nghĩ. Lão buông chèo nhịp nhàng, không phải mất nhiều sức bởi lão làm chủ tốc độ của mình và bởi đại dương bình lặng trừ đôi chỗ có dòng xoYy. Lão đang để dòng chảy đỡ đi một phần ba công việc và khi trời vừa hửng sáng lão thấy mình đã đi xa hơn quãng đường lão nghĩ vào thời điểm ấy. Mình đã câu ở vùng Giếng lớn suốt cả tuần nay mà chẳng bắt được mống nào hết, lão nghĩ. Hôm nay mình sẽ ra tận nơi các đàn cá bonito và albacore kiếm ăn và có thể con cá lớn sẽ quanh quẩn đâu đấy. Trước khi trời sáng rõ, lão buông mồi và thả thuyền trôi theo dòng chảy. Một con mồi ở độ sâu bốn mươi sải. Mồi thứ hai sâu tới bảy mươi lăm sải; mồi thứ ba và thứ tư chìm sâu hút trong làn nước xanh đến độ sâu một trăm và một trăm hai mươi lăm sải. Mỗi con mồi được móc ngược đầu xuống, lưỡi câu giấu trong thân Tiếng Tây Ban Nha chỉ một loài sứa. cá, buộc chặt, khâu kỹ và những phần thòi ra của lưỡi câu, đoạn cong và mũi nhọn, thì được che bằng những con cá mòi tươi rói. Chúng bị móc xuyên qua hai mắt tạo thành nửa vòng hoa trên cuống thép. Không còn phần nào của lưỡi câu để con cá lớn có thể nhận ra ngoại trừ hương vị thơm lừng quyến rũ. Thằng bé cho ông lão hai con cá thu nhỏ tươi, thuộc loài albacore; lão móc chúng vào hai lưỡi câu sâu nhất, chúng nặng như thể mấy hòn chì; còn ở hai lưỡi kia, lão móc một con nục sòng lớn, màu xanh và một con ngừ bạc đã được sử dụng hôm trước; nhưng chúng vẫn còn tốt và xâu cá mòi thơm phức giúp chúng tỏa hương hấp dẫn. Mỗi dây câu, lớn bằng cây bút chì cỡ lớn, được buộc vào một cái phao bằng que gỗ màu xanh lục để bất kỳ một cú kéo, một cú đớp nào vào miếng mồi cũng khiến phao gỗ chìm xuống; mỗi dây câu còn có hai cuộn dây dài bốn mươi sải dự phòng sẵn sàng nối với các cuộn khác để khi cần thiết, con cá có thể có hơn ba trăm sải dây. Bây giờ lão quan sát mũi của ba chiếc phao gỗ bên mạn thuyền, chèo nhẹ để giữ cho mấy sợi dây thẳng đứng đến độ sâu cần thiết của chúng. Trời đã sáng hẳn và chẳng mấy nữa mặt trời sẽ mọc lên. Mặt trời nhô lên mặt biển, ông lão có thể nhìn thấy những thuyền khác, chìm thấp trong nước, dàn rộng qua dòng chảy, phía gần bờ. Khi mặt trời rực rỡ hơn, ánh nắng chiếu xuống mặt nước và lát sau, lúc nó cao hẳn lên, mặt biển phẳng lặng phản chiếu ánh nắng dội vào mắt lão làm đau nhức; lão chèo mà không nhìn vào nó nữa. Lão nhìn xuống nước, theo dõi mấy sợi dây được thả thẳng đứng xuống vùng đen của đại dương. Lão giữ chúng thẳng hơn bất kỳ một ai khác, để ở mỗi độ sâu trong vùng nước đen kia sẽ có một con mồi đợi đúng ngay ở đấy, nơi lão muốn dành cho bất cứ con cá nào bơi qua. Các tay câu khác thì để chúng trôi theo dòng chảy và đôi khi chúng chỉ ở độ sâu sáu mươi thay vì một trăm sải như họ m u ố n. Nhưng, lão nghĩ, mình giữ chúng chính xác. Duy chỉ mình không còn may mắn nữa thôi. Nhưng biết đâu được?

Có thể hôm nay. Mỗi ngày là một ngày mới. Gặp may thì tốt hơn. Nhưng mình ưa sự chính xác. Để khi vận may đến thì mình đã sẵn sàng. Bây giờ mặt trời đã mọc cao được hai tiếng đồng hồ, nó không làm mắt lão đau nhiều khi nhìn về hướng Đông nữa. Giờ đây, trong tầm mắt, chỉ còn lại ba bóng thuyền, mạn lún sâu xuống nước và ở mãi tít phía trong bờ. Suốt cả đời, bình minh làm buốt mắt ta, lão nghĩ. Nhưng chúng vẫn còn tinh anh. Vào lúc chiều tối, ta có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị những đốm đen trong mắt. Buổi chiều, ánh nắng mạnh hơn. Nhưng buổi sáng nó làm ta nhức nhối. Ngay khi đó lão thấy một con hải bằng tung đôi cánh đen dài lượn trên bầu trời trên đầu lão. Nó sà xuống nhanh, nghiêng cánh chao người rồi bay vòng trở lại.

“Nó tóm được con gì rồi”, ông lão nói lớn.

“Nó không chỉ nhìn đâu”. Lão chèo chậm rãi, đều đặn tiến về phía con chim đang lượn vòng. Lão không vội, lão cần giữ cho những sợi dây thẳng đứng xuống. Nhưng lão hơi nhanh hơn dòng nước một chút trong chừng mực lão vẫn câu đúng, nếu lão không cố bám theo con chim thì lão sẽ không chèo nhanh hơn cách lão thường câu. Con chim bay cao hơn, lại lượn vòng, đôi cánh bất động. Rồi thình lình nó lao xuống, lão thấy đàn cá chuồn tung mình lên khỏi mặt nước, tuyệt vọng bay trên mặt biển.

“Dorado”, ông lão nói lớn.

“Cá dorado lớn”.

Lão dừng chèo, lôi ra sợi dây câu nhỏ đằng mũi thuyền. Dây câu này có đáy thép và lưỡi câu cỡ trung bình, lão móc mồi bằng một con mòi. Lão buông câu qua mạn thuyền rồi buộc nó vào cái khoen đằng sau lái. Lão tiếp tục móc mồi lưỡi câu khác rồi vẫn để nó cuộn như thế trong bóng mát mũi thuyền. Lão quay lại chèo và trông chừng con chim có sải cánh đen rộng bây giờ đang sà thấp xuống kiếm mồi trên mặt nước. Khi lão quan sát, con chim lại nhào xuống, nghiêng cánh liệng rồi đập loạn xạ, bất lực khi bám theo đàn cá chuồn. ông lão có thể nhìn thấy mặt nước khẽ cuộn lên chỗ đàn cá dorado lớn nhao người đuổi theo bầy cá chuồn đang lẩn trốn. Đám cá dorado đang cắt xuyên vùng nước bên dưới đường bay của đàn cá, lao hết tốc lực đợi đàn cá rơi xuống. Đàn cá dorado lớn, lão nghĩ. Chúng dàn rộng ra, lũ cá chuồn có ít cơ hội trốn thoát. Con chim cũng không có cơ hội. Đàn cá chuồn quá lớn so với nó, vả lại chúng lao đi rất nhanh. Lão nhìn theo đàn cá chuồn cứ phóng lên lặn xuống và những cú chao mình vô ích của con chim. Đàn cá ấy đã rời xa ta, lão nghĩ. Chúng di chuyển nhanh quá và xa quá. Nhưng chắc chắn ta sẽ tóm được một chú đi lạc và có lẽ con cá lớn của ta hẳn quanh quẩn bên chúng. Con cá lớn của ta hẳn đang ở đâu đó. Bây giờ những đám mây trên đất liền đùn lên tựa những quả núi và bờ biển chỉ còn là một vệt xanh dài với rặng đồi xanh thẫm đằng sau nó. Giờ đây, mặt nước xanh thẫm, thẫm đến nỗi như ngả sang màu tím. Khi nhìn xuống, lão thấy những vệt rêu đỏ trong làn nước tối sẫm và bây giờ mặt trời lấp lánh những tia sáng kỳ lạ. Lão dõi theo mấy sợi dây câu để thấy chúng chạy thẳng xuống ngút khỏi tầm mắt trong đáy nước và lão hạnh phúc khi thấy nhiều rêu biển, bởi đấy là dấu hiệu có cá. ánh sáng kỳ lạ của mặt trời chiếu vào làn nước cho thấy giờ đây mặt trời Prev Page 19 Next đã lên cao hơn, có nghĩa thời tiết thuận; cả hình thù của những đám mây trên đất liền kia cũng báo hiệu điều đó. Nhưng giờ thì con chim đã gần như khuất khỏi tầm mắt, trên mặt nước chẳng còn gì nữa, ngoại trừ những vệt rong Sargasạo vàng ệch, bạc màu dưới nắng trời và cái cơ thể nung núc, đỏ tía, nhão nhớt, sặc sỡ đủ màu của một con sứa đang lềnh bềnh bên mạn thuyền. Nó nghiêng mình rồi trở người lại ngay ngắn. Nó háo hức trôi đi tựa cái bong bóng xà phòng, kéo theo những sợi tua dài gần một mét màu đỏ tía chết chóc ngầm trong nước.

“Agua mala”, lão nói.

“Đồ điếm”. Từ nơi khẽ đưa mái chèo, lão nhìn xuống nước và thấy những con cá nhỏ có cùng màu với đám sợi tua đang bơi giữa chúng và cả dưới cái bóng nhỏ mà con sứa kia tạo ra khi trôi đi. Lũ cá ấy có khả năng đề kháng với nọc độc sứa. Nhưng con người thì không và có dạo mấy sợi tua ấy vướng vào dây câu, bám ở đó, đỏ tía, nhờn nhợt rồi trong lúc xoay xở với con cá ông lão đã chạm phải làm cả cánh tay lẫn bàn tay nhức nhối như thể khi chạm phải một dây trường xuân độc hay loài sồi độc. Chỉ khác là chất độc từ sứa agua mala khuếch tán nhanh hơn, tựa nhát roi quất vụt xuống. Cái giống sứa lấp lánh ngũ sắc trông thật đẹp. Nhưng chúng là loài man trá nhất đại dương, ông lão thích nhìn những con rùa biển lớn xơi thịt chúng. Loài rùa nhìn thấy, tiếp cận chúng trực diện, rồi nhắm nghiền mắt để che chắn toàn thân đoạn xông tới chén sạch cả mớ tua lẫn người ngợm của chúng. ông lão ưa nhìn loài rùa chén thịt chúng và lão thích giẫm nát khi chúng bị bão đánh giạt vào bờ để nghe tiếng lốp bốp khi bị giẫm lên và những mảnh sứa lựt sựt nát ra dưới bàn chân. Lão yêu giống rùa xanh, lưng khòm, duyên dáng, nhanh nhẹn và giá trị lớn của chúng; lão có tình cảm suồng sã theo kiểu bè bạn với cái giống to đầu, nặng nề, đần đần, da vàng phía trong mai, giao cấu theo kiểu kỳ quặc và hồ hởi chén thịt sứa với đôi mắt nhắm tịt ấy.

Lão chẳng còn lạ gì về giống rùa ấy nữa bởi đã nhiều năm làm nghề săn rùa. Lão xót thương cho cả họ hàng nhà chúng, thậm chí cả với loài lưng hộp khổng lồ, dài bằng chiếc thuyền và cân nặng cả tấn. Hầu hết mọi người đều ác độc với rùa bởi trái tim rùa vẫn đập trong nhiều giờ sau khi đã bị xẻ thịt phanh thây. Nhưng lão nghĩ, trái tim ta cũng như vậy, kể cả đôi chân và đôi tay cũng giống của chúng. Lão ăn những quả trứng rùa trắng để tăng thêm sức lực. Lão ăn suốt cả tháng năm để đến tháng chín, tháng mười khỏe lên đợi con cá lớn thật sự. Hằng ngày lão cũng uống một lá dầu gan cá mập ở cái thùng lớn trong căn lều nơi nhiều ngư dân cất dụng cụ. Chỗ dầu ấy dành cho bất cứ ngư dân nào muốn. Đa phần trong số họ ghét mùi vị của nó. Nhưng điều đó thì chẳng có tệ hơn việc phải thức dậy vào đúng cái giờ để ra khơi, hơn nữa nó chống cảm lạnh, cúm và rất tốt cho cả thị lực. Bây giờ ông lão nhìn lên và thấy con chim lại lượn vòng.

“Nó tìm thấy cá”, lão nói lớn. Không có con cá chuồn nào tung mình lên mặt biển và cũng chẳng có con cá mồi nào lượn lờ. Nhưng khi ông lão quan sát, một con cá thu nhỏ phóng lên, vặn mình, lao đầu xuống nước. Con cá lấp lánh trong ánh nắng, sau khi nó rơi xuống thì lần lượt nhiều con khác nhảy lên, chúng túa ra khắp mọi hướng, quẫy tung nước, phóng những bước dài đuổi theo con mồi. Chúng quây tròn con mồi và xâu xé. Nếu chúng không bơi nhanh quá thì mình sẽ đuổi kịp, ông lão nghĩ và nhìn đàn cá quẫy tung bọt nước trắng xóa, con chim bây giờ buông mình sà xuống đàn cá mồi do hoảng sợ nên đã trồi hẳn lên mặt nước.

“Con chim được việc thật”, ông lão nói. Chỉ khi ấy sợi dây ở đuôi thuyền giật giật dưới chân, nơi lão buộc hờ; lão buông tay chèo và cảm thấy độ nặng của một chú cá thu nhỏ đang giật giật khi lão nắm chặt sợi dây, từ từ kéo vào. Sức giãy giụa tăng lên khi lão kéo đến gần và có thể nhìn thấy sống lưng xanh thẫm của con cá trong làn nước và cả màu vàng bên sườn nó trước khi lão kéo bổng nó lên đưa qua mạn vào thuyền. Con cá nằm ở phía đuôi thuyền, trong ánh nắng, trùi trũi như một viên đạn; đôi mắt to đờ đẫn của nó lồi ra khi cái đuôi gọn ghẽ cứ quật, nảy liên hồi trên ván thuyền tìm lối thoát. Động lòng trắc ẩn, ông lão nện vào đầu nó rồi đá cái thân hãy còn run rẩy vào dưới tấm ván sau lái.

“Cá thu”, lão nói lớn.

“Nó sẽ là con mồi tuyệt hảo. Gần năm ki lô chứ chẳng chơi”. Lão không nhớ lần đầu tiên lão nói to một mình như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có một mình, khi thằng bé ra đi. Nhưng lão không nhớ. Ngày lão và thằng bé còn câu cùng nhau, hai ông cháu chỉ nói khi thật cần thiết. Họ nói vào ban đêm hay những khi trời đổ gió mưa. Những người đi biển kiêng nói chuyện nhảm; ông lão luôn thực hiện và tôn trọng điều đó. Nhưng giờ thì lão đã nói rõ lớn ý nghĩ của mình hằng bao nhiêu lần bởi chẳng còn ai có thể nghe thấy để bực mình.

“Nếu người khác nghe mình nói lớn thì chắc họ nghĩ mình điên mất”, lão nói lớn.

“Nhưng vì không điên nên mình chẳng quan tâm. Cánh nhà giàu có radio để bầu bạn trên thuyền và ngay cả trên sân bóng nữa”. Giờ thì không phải là lúc nghĩ về bóng biếc, lão nghĩ. Giờ là lúc chỉ nghĩ về một điều duy nhất. Ta sinh ra để làm gì? Chắc là có một con lớn quẩn quanh đàn cá ấy, lão nghĩ. Mình chỉ tóm được một tên đi lạc trong đàn cá thu đang kiếm mồi. Nhưng chúng di chuyển rất nhanh và đã đi quá xa.

Mọi vật xuất hiện trên mặt biển hôm nay sao lại cứ vùn vụt chuồn về hướng Đông Bắc. Có phải là tại giờ khắc trong ngày? Hay đấy là dấu hiệu của thời tiết mà mình không biết? Bây giờ lão không còn nhìn thấy viền xanh của bờ mà chỉ còn thấy đỉnh của mấy ngọn đồi trắng xóa như thể phủ đầy tuyết, cả những đám mây tựa như ngọn núi tuyết đùn cao bên trên chúng. Biển đen ngòm, ánh nắng tạo thành những hình lăng trụ trong nước. Những cụm rong bể dày đặc bây giờ đã bị nhòa đi bởi mặt trời lên cao và ánh sáng chỉ còn là những khối lăng trụ đồ sộ trong làn nước thẫm; nơi mấy sợi dây câu của lão chìm sâu xuống đáy, lão thấy, sâu hơn cả ngàn rưỡi mét. Đàn cá thu, dân chài gọi tất cả họ hàng nhà cá này như thế và chỉ phân biệt tên chúng khi mang đi bán hoặc đổi cá mồi, lại lặn sâu xuống nước. Bây giờ mặt trời nóng bỏng, ông lão cảm thấy cái nóng rọi trên gáy và mồ hôi tứa xuống lưng khi lão chèo. Lão nghĩ mình có thể để thuyền trôi và chợp mắt một chốc trong lúc quấn một đầu dây câu vào ngón chân để nó đánh thức mình dậy. Nhưng hôm nay đã tám mươi lăm ngày và mình vẫn đủ sức để câu suốt cả ngày. Đúng lúc ấy, quan sát mấy sợi dây, lão thấy một trong mấy cái phao xanh chìm nhanh xuống.

“Nào”, lão nói.

“Nào”, và thu mái chèo, tránh để va vào mạn thuyền. Lão vươn tay phải khẽ cầm sợi dây bằng ngón trỏ và ngón cái. Lão không cảm thấy sức kéo hay độ nặng nào và lão cứ thận trọng giữ sợi dây như thế. Lát sau, sự tiếp xúc lại xuất hiện. Lần này là một cú kéo thăm dò, không dứt khoát và cũng chẳng mạnh mẽ tí nào; lão biết ngay đấy là con gì. Cách xa một trăm sải nước, con cá kiếm đang ăn đám cá mòi che đầu mũi và thân lưỡi câu nơi phần lưỡi câu thòi ra khỏi đầu của con cá thu mồi nhỏ. ông lão giữ hờ sợi dây, tay trái nhẹ nhàng tháo nó khỏi phao gỗ. Lúc này lão có thể để nó dễ dàng lướt qua mấy ngón tay để con cá không cảm thấy chút vướng víu gì nữa. Vào tháng này, xa bờ đến thế, hẳn nó là con cá khổng lồ, lão nghĩ. Đớp mồi đi, cá. Đớp mồi đi. Xin hãy đớp mồi đi. Chúng mới tươi ngon làm sao trong làn nước lạnh, tối om nơi mày ở cách gần hai trăm mét. Hãy lượn một vòng trong làn nước tối và quay lại đớp mồi đi. Lão cảm thấy một cú giật nhẹ rồi một nhát kéo mạnh hơn khi cái đầu của con cá mòi hẳn là khó rứt ra khỏi lưỡi câu. Lát sau hoàn toàn im ắng.

“Tiếp tục đi”, ông lão nói lớn.

“Hãy quay lại. Thử ngửi xem. Chúng không hấp dẫn sao? n ngay đi, cả con cá thu nữa. Cứng, mát lạnh và hấp dẫn. Đừng xấu hổ cá à. n chúng đi”. Lão cầm sợi dây giữa ngón cái và ngón trỏ chờ đợi, theo dõi nó và mấy dây câu khác trong cùng lúc, phòng trường hợp con cá bơi lên hay lặn sâu xuống. Thoáng chốc, dây câu ấy lại bị kéo nhẹ.

“Nó sắp đớp mồi”, ông lão nói lớn.

“Xin Chúa hãy giúp nó đớp mồi”. Nhưng con cá không đớp. Nó bỏ đi, ông lão cảm thấy chống chếnh.

“Nó không thể đi”, lão nói.

“Chúa biết là nó không thể đi. Nó đang lượn vòng. Có lẽ trước đây nó đã bị dính câu nên nó nhớ đôi điều về chuyện ấy”. Lúc ấy lão cảm thấy sợi dây khẽ giật, lão hớn hở.

“Nó chỉ lượn một vòng thôi mà”, lão nói.

“Nó sẽ cắn câu”. Lão sung sướng cảm nhận cái giật khẽ và rồi lão thấy cái gì đó nặng chịch, căng, không thể nào tưởng tượng nổi. Đấy là độ nặng của con cá và lão để sợi dây tuồn xuống, xuống, xuống mãi hết cuộn dây đầu tiên trong số hai cuộn dây dự trữ. Khi sợi dây tuột xuống, lướt nhẹ qua mấy ngón tay, lão vẫn cảm thấy độ cực nặng mặc dù áp lực của ngón cái và ngón trỏ của lão hầu như chỉ là con số không.

“Một con cá ra trò”, lão nói.

“Bây giờ lưỡi câu đã được ngậm trong miệng và nó đang lôi đi”. Lát nữa nó sẽ lượn lại và nuốt, lão nghĩ. Lão không nói ra điều ấy bởi lão biết nếu người ta nói ra điều tốt lành thì nó sẽ không xảy ra. Lão biết đấy là con cá khổng lồ và lão hình dung nó bơi trong vùng nước tối, miệng cắp ngang con cá thu. Vào lúc đó, lão cảm thấy nó ngừng di chuyển nhưng sức nặng vẫn cứ trĩu xuống. Rồi sức nặng gia tăng, lão nới thêm dây. Lão dùng ngón cái và ngón trỏ cố níu sợi dây lại một lúc nhưng sức nặng vẫn không ngừng tăng lên, lôi tuột sợi dây xuống.

“Nó đã đớp mồi”, lão nói.

“Giờ thì ta sẽ để cho nó nuốt hẳn”. Vẫn để sợi dây tuồn qua mấy ngón tay, lão dùng tay trái nối đầu sợi dây vào cả hai cuộn dây dự trữ kia. Lúc này lão đã sẵn sàng. Lão đã có ba cuộn dây dự trữ với tổng chiều dài là một trăm hai mươi sải cùng với cuộn lão đang sử dụng.

“Nuốt thêm tí nữa đi”, lão nói.

“Nuốt ngay đi”. Nuốt làm sao để mũi lưỡi câu đâm vào tim và giết chết mày, lão nghĩ. Hãy ngoan ngoãn trồi lên để tao cắm phập mũi lao này. ổn thôi. Mày sẵn sàng chưa? Đánh chén như thế là đã đủ rồi chứ?

“Nào!”, lão nói lớn và dùng cả hai tay kéo mạnh được chừng một mét dây rồi lại kéo, kéo nữa, tay nọ tiếp tay kia, dồn hết sức mạnh của cánh tay và của cả cơ thể lên sợi dây. Nhưng chẳng được gì, con cá vẫn chậm rãi bơi đi và ông lão thì chẳng thể nhúc nhích nổi nó dẫu chỉ một phân. Dây câu của lão rất bền, được bện để câu cá lớn; lão kéo căng sợi dây qua lưng cho đến lúc những giọt nước lăn ra khỏi nó. Thoáng chốc, sợi dây bắt đầu phát ra những âm thanh trầm trầm trong làn nước và lão vẫn giữ chặt, tì lên chỗ ngồi chèo thuyền, ưỡn người ra sau và kéo. Con thuyền bắt đầu từ từ tiến về hướng Tây Bắc. Con cá vẫn một mực bơi đi và họ di chuyển chầm chậm trên mặt biển phẳng lặng. Những cái mồi khác vẫn còn ở dưới nước nhưng lão chẳng biết xoay xở ra sao nữa.

“Giá mà ta có thằng bé”, ông lão nói lớn.

“Ta đang bị con cá kéo đi và ta là cái cọc kéo thuyền. Ta có thể buộc sợi dây lại. Nhưng như thế con cá sẽ bứt đứt. Mình phải giữ sợi dây cho đến lúc sức tàn lực kiệt và nới thêm dây khi nó cần. Đội ơn Chúa, nó cứ bơi ngang chứ không lặn xuống”.

“Mình sẽ làm gì nếu nó quyết định lặn xuống, mình không biết. Mình sẽ làm gì nếu nó lặn xuống và chết, mình cũng không biết. Nhưng mình sẽ làm cái gì đó. Có nhiều thứ mình có thể làm”. Lão tì sợi dây vào lưng và nhìn độ nghiêng của nó trên mặt nước, con thuyền cứ lững thững trôi về hướng Tây Bắc. Thế này sẽ giết nó, lão nghĩ. Nó không thể cứ kéo mãi thế này. Nhưng bốn giờ sau, con cá vẫn bình thản bơi ra khơi, kéo theo chiếc thuyền và cả ông lão đang giữ chặt sợi dây vắt qua lưng.

“Mình câu được nó vào quãng trưa”, lão nói.

“Nhưng mình chưa được nhìn thấy nó”. Lão đã đẩy chiếc mũ rơm sụp mạnh xuống đầu trước lúc câu được con cá, cái mũ cứa đau trán lão. Lão cũng khát nước bèn quì gối xuống, cẩn thận không làm giật sợi dây, rán vươn người quờ tay về phía mũi thuyền lôi ra chai nước. Lão mở nắp, uống một ngụm. Rồi lão tựa lưng vào mũi thuyền. Lão ngồi nghỉ trên đống cột buồm, cố không nghĩ ngợi điều gì, ngoại trừ việc chịu đựng. Khi nhìn về phía sau, lão không còn thấy bóng dáng đất liền đâu nữa. Chẳng có gì khác đâu, lão nghĩ. Mình luôn có thể quay về dựa vào ánh đèn từ Havana. Còn hai giờ nữa mặt trời mới lặn và có lẽ con cá sẽ trồi lên trước lúc trời tối. Nếu chưa ngoi lên thì có lẽ nó sẽ ngoi lên khi trăng mọc. Nếu cũng không thì chắc bình minh nó sẽ nổi lên. Mình không bị chuột rút và mình cảm thấy khỏe mạnh. Chính nó đã bị lưỡi câu móc vào miệng. Nhưng thử hỏi có con cá nào kéo được như nó. Miệng nó hẳn ngậm chặt đoạn dây thép. Mình ước mình có thể nhìn thấy nó. oeớc chi mình có thể nhìn thấy nó dẫu chỉ một lần để biết đối thủ của mình là ai. Con cá chẳng hề giảm tốc độ và đổi hướng suốt đêm ấy như lão có thể xác định bằng cách quan sát các vì sao. Trời lạnh sau lúc mặt trời lặn và mồ hôi của lão khô lạnh trên lưng, trên cánh tay và cả đôi chân già nua của lão. Lúc ban ngày, lão đã lấy cái bao tải đậy thùng đựng mồi ra trải phơi khô. Sau khi mặt trời lặn, lão cột nó quanh cổ, để phủ xuống lưng và bây giờ lão cẩn thận chèn nó xuống dưới sợi dây vắt qua vai. Cái bao lót dưới sợi dây và lão tìm cách tựa vào mạn thuyền để cơ thể bớt căng thẳng. Tư thế ấy thực ra cũng chỉ bớt được đôi phần, nhưng lão nghĩ là rất thoải mái. Ta chẳng thể làm gì được nó và nó cũng chẳng làm gì được ta, lão nghĩ. Chẳng làm được gì nếu nó cứ kéo mãi thế này. Một lần lão đứng dậy, đái qua mạn thuyền, ngước nhìn sao kiểm tra hướng đi. Từ vai lão, sợi dây như thể một đường lân tinh dài xuyên thẳng làn nước. Bây giờ họ di chuyển chậm và ánh điện Havana cũng không quá rõ, vậy là lão biết dòng nước hẳn đang đưa họ về hướng Đông. Nếu mình không còn thấy ánh sáng Havana thì chắc chúng mình đang tiến xa về phía Đông, lão nghĩ. Vì nếu con cá cứ giữ đúng hướng của nó thì mình phải thấy Havana thêm một lúc nữa. Mình không rõ mấy trận đấu bóng chày giải ngoại hạng hôm nay ra sao nữa, lão nghĩ. Có một chiếc rađiô khi đi câu như thế này thì thật tuyệt diệu. Rồi lão nghĩ, cứ phải nghĩ mãi về nó. Nghĩ về cái việc mày đang làm. Mày chớ có làm điều gì ngu ngốc. Lát sau lão nói lớn.

“Ước chi mình có thằng bé. Để giúp mình và chứng kiến cái cảnh này”. Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng, lão nghĩ. Nhưng không thể nào tránh khỏi. Mình phải nhớ ăn con thu trước lúc nó hỏng để giữ sức khỏe. Hãy nhớ, dù mày chẳng muốn ăn tí nào, mày phải ăn nó vào sáng mai. Nhớ đấy, lão tự nhủ. Suốt đêm ấy, hai con cá heo bơi đến gần thuyền, lão có thể nghe tiếng chúng trở mình và thở. Lão có thể nhận biết sự khác nhau giữa tiếng thở dốc của con đực và tiếng thở dài của con cái.

“Chúng thật đáng yêu”, lão nói.

“Chúng chơi đùa, nghịch ngợm và yêu nhau. Chúng là anh em của ta như đàn cá chuồn kia vậy”. Rồi lão bắt đầu lo ngại cho con cá lớn mà lão đã câu. Nó tuyệt vời, kỳ lạ và tuổi tác của nó là sao nhỉ, lão nghĩ. Chưa bao giờ mình gặp một con cá nào kiêu hùng và hành động quá đỗi kỳ lạ như nó. Có lẽ nó cũng thừa khôn ngoan để không nhảy lên. Bởi nếu cứ phóng lên hoặc lao chạy thì nó có thể hủy hoại mình. Nhưng chắc trước kia cu cậu đã nhiều lần nếm mùi dây câu nên đã biết đây là cách chiến đấu tốt nhất. Nó không thể biết chỉ có mỗi một người duy nhất đang đương đầu với nó và cũng chẳng hay rằng đấy là một lão già. Nhưng cu cậu đúng là chú cá vĩ đại và sự vĩ đại ấy còn được thể hiện ở phản thịt nơi chợ nếu thịt nó hãy còn tươi khi được mang đến đó. Cu cậu đớp mồi hệt một trang nam tử và cái cách cu cậu kéo cũng là của đấng hào hoa; cu cậu chống cự không một chút hoảng sợ. Ta phân vân chẳng biết nó có mưu đồ gì không hay cũng chỉ cố gỡ gạc như cái thân của ta thôi? Lão nhớ lần lão câu được một con trong cặp cá kiếm. Con đực luôn để con cái ăn trước và khi bị dính câu, con cái giãy giụa kinh hoàng, tuyệt vọng vẫy vùng thoát thân mạnh đến nỗi chẳng mấy chốc đã kiệt sức, suốt thời gian đó, con đực luôn ở bên bạn, bơi qua bơi lại dưới sợi dây và lượn tròn cùng bạn trên mặt nước. Nó bơi gần đến nỗi ông lão sợ nó có thể tiện phăng sợi dây câu bằng cái đuôi có hình dáng, kích cỡ và sắc tựa lưỡi hái. Khi ông lão móc con cá cái, giữ chặt cái kiếm xù xì tựa giấy nhám của nó và vung chày quật vào đỉnh đầu cho đến khi da nó chuyển sang màu như màu thủy ngân tráng phía sau gương, và rồi với sự trợ giúp của thằng bé, lão lôi con cá lên thuyền trong lúc con cá đực vẫn cứ sán lại bên mạn thuyền. Rồi trong lúc lão đang rửa sợi dây câu và xem xét lại cây lao, con cá đực tung mình nhảy vọt lên lửng lơ trong không trung bên cạnh chiếc thuyền để xem con cá cái ở đâu, rồi rơi lặn sâu xuống; đôi cánh màu đỏ hồng, tức đôi vây hai bên ngực, xòe rộng phô hết ra những đường sọc đỏ hồng rộng. Nó thật đẹp, ông lão nhớ, và nó thủy chung. Đấy là chuyện buồn nhất mà mình từng chứng kiến qua đôi cá ấy, ông lão nghĩ. Thằng bé cũng buồn và bọn mình cầu xin nó tha thứ trước khi vội xả thịt nó.

“Giá mà thằng bé ở đây”, lão nói lớn rồi trở người tì vào chỗ ván uốn cong phía trước mũi thuyền và cảm nhận được sức mạnh của con cá khổng lồ qua sợi dây lão giữ vắt qua vai, đang đều đều tiến theo hướng nó lựa chọn.

Một khi mình đã giở mẹo thì việc con cá chọn một lối thoát là rất thỏa đáng, ông lão nghĩ. Sự lựa chọn của nó là ở trong vùng nước sâu thẳm, tối om, cách xa hết thảy những lưỡi câu, cạm bẫy, lừa lọc. Còn mình thì lại chọn lối đến tìm nó ở nơi cách xa với loài người. Cách xa tất cả loài người trên trái đất. Bây giờ mình và nó dính chặt vào nhau kể từ buổi trưa. Và chẳng có ai giúp đỡ mình hoặc nó. Lẽ ra ta đừng làm ngư dân, lão nghĩ. Nhưng đấy là việc ta sinh ra để làm. Ta phải nhớ kỹ là phải ăn con cá thu sau khi trời sáng. Vào lúc gần sáng, có con gì đó đớp một trong mấy miếng mồi phía sau lão. Lão nghe tiếng phao gỗ gãy và sợi dây bắt đầu bị kéo xuống, qua mạn thuyền. Trong bóng tối, lão rút con dao trong vỏ ra, dồn hết trọng lực lên vai trái, ngã người cắt sợi dây vướng vào mấu gỗ ở mép trên mạn thuyền. Rồi lão cắt đến sợi dây gần đấy và trong bóng tối, lão nối đầu dây của các cuộn dự trữ lại. Lão nối rất điêu luyện chỉ với một bàn tay rồi giẫm chân lên giữ khi lão thắt chặt múi nối. Bây giờ lão đã có sáu cuộn dây dự trữ, bốn cuộn từ hai cái mồi lão đã cắt bỏ và hai cuộn từ miếng mồi con cá đang tha, tất cả đã được nối vào nhau. Khi trời sáng rõ, lão nghĩ, mình sẽ xem xét miếng mồi bốn mươi sải và cũng sẽ cắt bỏ để nối những cuộn dây dự trữ. Mình sẽ bị mất hai trăm sải dây Catalan loại tốt, lưỡi câu và cả chì nữa.

Số tài sản ấy có thể được bù đắp. Nhưng cái gì sẽ đền bù nổi con cá này nếu mình câu được vài con cá khác và chúng sẽ làm đứt sợi dây kia? Giờ thì mình không rõ con cá đớp mồi kia thuộc loại gì. Có thể đấy là một con cá kiếm, một con mõm lớn hay một con cá mập. Mình không nhận ra. Mình phải rũ bỏ nó quá nhanh. Lão nói lớn,

“Giá như mình có thằng bé”. Nhưng mày không có thằng bé đâu, lão nghĩ. Mày chỉ có một thân một mình và tốt hơn là mày nên quay lại với sợi dây câu còn lại kia, tối hay không tối thì cũng phải cắt phăng nó đi rồi nối nốt hai cuộn dây dự trữ lại. Lão làm như thế. Trong bóng tối, công việc quả khó khăn và một dạo con cá lồng lên kéo lão ngã sấp mặt xuống, đứt một vệt bên dưới mắt. Máu rỉ xuống má lão. Nhưng nó đông lại và khô trước khi bò đến cằm, lão lần về phía mũi thuyền, tựa lưng vào mạn. Lão chỉnh lại cái bao và thận trọng nhích sợi dây để nó hằn sang vùng vai khác, giữ và dùng vai neo chặt; lão cẩn thận dò sức kéo của con cá rồi nhúng tay xuống nước xem tốc độ thuyền. Mình không rõ nó nhảy lên để làm gì, lão nghĩ. Đoạn dây thép đáy hẳn quét trên mỏm lưng đồ sộ của nó. Chắc chắn lưng nó không thể đau bằng lưng mình đâu. Nhưng nó không thể cứ kéo mãi con thuyền như thế được dẫu cho nó khổng lồ đến mức nào. Giờ thì mình đã dọn sạch mọi thứ vướng víu và mình lại có cả đống dây dự trữ; con người ta chỉ cần có thế thôi.

“Cá này”, lão dịu giọng nói,

“tao sẽ cầm cự với mày cho đến chết”. Nó cũng sẽ cầm cự với mình, mình chắc thế, ông lão nghĩ rồi đợi trời sáng. Giờ đây trước khi trời sáng, không khí lạnh lẽo, lão nép sát mạn thuyền tìm hơi ấm. Mình có thể chịu đựng lâu như nó, lão nghĩ. Và trong ánh bình minh, sợi dây câu kéo dài, chếch đâm xuống nước. Con thuyền vẫn một mực thẳng tiến và khi mặt trời hé lên, tia nắng đầu tiên đậu lên vai phải lão.

“Nó bơi về phương Bắc”, ông lão nói. Dòng nước sẽ cuốn ta dạt xa về phương đông, lão nghĩ. Mình mong nó xuôi theo dòng nước. Lúc ấy chứng tỏ nó đã thấm mệt. Khi mặt trời lên cao hơn, ông lão nhận thấy con cá vẫn chưa mệt. Chỉ có một dấu hiệu đáng mừng duy nhất. Độ chếch của sợi dây cho thấy nó không còn bơi sâu nữa. Dấu hiệu ấy không thực sự có nghĩa con cá sẽ nhảy lên. Nhưng nó có thể.

“Cầu Chúa làm nó nhảy lên”, ông lão nói.

“Mình còn đủ dây để chinh phục nó”. Có lẽ nếu ta kéo căng dây một tí thì nó sẽ bị đau và nhảy lên, lão nghĩ. Bây giờ đã ban ngày ban mặt, nó cứ nhảy lên đi để những chiếc túi dọc theo xương sống chứa đầy không khí khiến nó không thể lặn sâu xuống chết. Lão cố kéo, nhưng sợi dây vẫn cứ căng đến mức chuẩn bị đứt tung như từ lúc lão mới câu được con cá và khi ưỡn người ra để kéo, lão cảm nhận được sức cản ấy và biết là mình không thể dồn thêm lực vào đó. Mình không nên giật mạnh, lão nghĩ. Mỗi cú giật sẽ nới rộng thêm chỗ lưỡi câu móc vào rồi khi nhảy lên, con cá có thể tuột thoát. Dẫu sao thì mặt trời đã làm mình dễ chịu hơn và lần này thì mình không phải nhìn trực diện về phía mặt trời. Những mảng rong biển màu vàng bám vào dây câu nhưng lão biết chúng chỉ làm tăng thêm sức cản, lão hài lòng. Đấy là giống rong vàng vùng Nhiệt lưu, ban đêm tỏa nhiều lân tinh.

“Cá này”, lão nói,

“tao rất yêu và ngưỡng mộ mày. Nhưng tao sẽ giết mày trước khi ngày kết thúc”. Ta hãy hy vọng thế, lão nghĩ. Từ phương Bắc, một con chim nhỏ bay về phía thuyền. Nó thuộc giống warbler và bay rất thấp trên mặt nước. ông lão có thể nhận thấy con chim đã thấm mệt. Con chim bay đến đuôi thuyền, đậu xuống. Lát sau nó lượn vòng quanh đầu ông lão và đáp xuống sợi dây nơi nó cảm thấy thoải mái hơn.

“Mày bao nhiêu tuổi rồi?”, ông lão hỏi con chim.

“Có phải đây là chuyến đi đầu tiên của mày không?” Con chim nhìn lão khi lão nói. Nó thậm chí đã quá mệt để kiểm tra sợi dây và khi đôi chân mảnh mai đáp nhanh trên sợi dây, con chim lảo đảo.

“Nó chắc đấy”, lão bảo con chim.

“Nó chắc lắm. Sau một đêm lặng gió lẽ ra mày chưa mệt mới phải. Loài chim nào sắp đến đây?” Đám diều hâu, lão nghĩ, sẽ ra khơi săn chúng. Nhưng lão không nói điều ấy với con chim bởi làm sao mà nó có thể hiểu được lão và đâu có thể lập tức hiểu ngay được lũ diều hâu.

“Cứ nghỉ ngơi thoải mái đi, chú chim nhỏ”, lão nói.

“Rồi bay vào bờ, tận hưởng vận may như bất kỳ con người, con chim hay con cá nào”. Con chim khuyến khích lão nói chuyện bởi suốt đêm lưng lão đã tê cứng còn bây giờ thì thực sự nhức nhối.

“Hãy ở lại nhà ta nếu chú mày muốn, chim à”, lão nói.

“Ta lấy làm tiếc là không thể giương buồm nương theo làn gió nhẹ đang thổi đưa chú mày vào đất liền. Bởi ta đang bận tiếp một người bạn”. Đúng lúc ấy, bất thình lình con cá giật mạnh, kéo lão ngã sấp xuống mũi thuyền và suýt lôi lão xuống biển nếu lão không gồng hết sức níu giữ và nới thêm dây. Con chim bay vụt lên khi sợi dây giật mạnh và ông lão thậm chí cũng không nhìn thấy nó bay đi. Lão thận trọng đưa tay phải sờ sợi dây và thấy bàn tay mình đang chảy máu.

“Đúng là có cái gì đó làm đau nó”, lão nói lớn và kéo dây lại để xem có thể lay chuyển được con cá không. Nhưng khi ráng đến điểm căng nhất thì lão đành giữ chặt và quay lại chống đỡ sức kéo của sợi dây.

“Giờ thì mày sắp nếm mùi rồi đấy, cá à”, lão nói.

“Và lạy Chúa, cả tao cũng vậy”. Lúc này lão nhìn quanh tìm con chim bởi lẽ lão muốn có nó làm bè bạn. Con chim đã bay đi. Mày không chịu ở lâu với tao rồi, lão nghĩ. Nhưng suốt đoạn đường vào bờ mày sẽ chịu gian nan hơn đấy. Làm sao mà mình lại để con cá cắt đứt tay bằng cú quẫy chớp nhoáng ấy? Hẳn mình đang hóa ngu đần rồi. Hay có lẽ tại mình mải nhìn con chim và nghĩ về nó. Giờ đây mình sẽ tập trung vào việc của mình và lát nữa mình phải ăn con thu để không bị đuối sức.

“Mình ước thằng bé ở đây và có một ít muối”, lão nói lớn. Chuyển sợi dây nặng trĩu sang vai trái và cẩn thận quì xuống, lão rửa bàn tay trong đại dương rồi ngâm chứng hơn một phút, mắt nhìn những vệt máu loang ra và sự di chuyển đều đều của mặt nước táp vào tay khi con thuyền trôi đi.

“Nó đã chậm lắm rồi”, lão nói. ông lão hẳn thích ngâm tay trong nước mặn thêm lát nữa nhưng lão sợ con cá lại thình lình quẫy, lão đứng dậy, gượng giữ thăng bằng và đưa bàn tay ra đón ánh nắng. Chỉ một cú giãy nảy lên là đã cắt đứt thịt da lão. Mà nó lại nhằm đúng cái phần hoạt động của bàn tay. Lão biết lão cần đôi tay cho đến khi trận đấu này kết thúc và lão lại càng không muốn bị cứa đứt trước khi trận đấu bắt đầu.

“Nào”, lão nói khi bàn tay đã khô.

“Mình phải ăn con thu nhỏ. Mình có thể lấy cái móc khều nó ra và cứ ngồi đây ăn cho thoải mái”. Lão quì xuống, tìm con thu dưới đuôi thuyền, dùng cái móc gỡ nó ra khỏi đống dây dợ, kéo về phía mình. Vẫn giữ sợi dây bên vai trái, dồn lực lên bàn tay trái và cánh tay, lão gỡ con cá thu ra khỏi cái móc và đặt cái móc về vị trí cũ. Lão tì đầu gối lên con cá, cắt dọc những miếng thịt đỏ thẫm từ sau đầu đến đuôi. Thịt cá được rạch theo hình chữ V, lão tiếp tục xẻ từ sống lưng xuống rìa vùng bụng. Khi cắt được sáu lát lão trải chúng ra trên tấm gỗ đằng mũi thuyền, chùi con dao vào quần, nhấc cái đuôi kéo theo cả phần còn lại của con cá quẳng ra ngoài thuyền.

“Mình không chắc là có thể ăn hết cả miếng cá”, lão nói rồi đưa dao cắt đôi một khúc thịt. Lão cảm thấy sợi dây vẫn kéo mạnh đều và bàn tay trái của lão đã bị chuột rút. Lão bực bội nhìn bàn tay quắp chặt lấy sợi dây câu nặng.

“Tay tiếc quái quỉ gì mày”, lão nói.

“Nếu muốn thì mày cứ co quắp đi. Biến thành cái vuốt ấy. Cũng sẽ chẳng làm mày tốt lành hơn gì đâu”. Thế đấy, lão nghĩ rồi nhìn làn nước đen ngòm chỗ sợi dây chếch xuống. n cá ngay đi, nó sẽ lấy lại sức lực cho bàn tay. Đấy không phải lỗi của bàn tay bởi mày đã cầm cự quá lâu với con cá. Nhưng mày vẫn có thể đương đầu với con cá mãi mãi. n con thu đi thôi. Lão nhặt một miếng, đút vào miệng, từ từ nhai. Cũng chẳng đến nỗi nào. Nhai thật kỹ, lão nghĩ và nuốt hết nước. Sẽ không tệ nếu được ăn kèm với một quả quất nhỏ, với chanh hoặc với muối.

“Mày cảm thấy thế nào rồi hở tay?”, lão hỏi bàn tay bị chuột rút cứng đến mức gần như là bàn tay của cái xác chết lạnh ngắt.

“Vì mày, tao sẽ cố ăn thêm một ít”. Lão ăn phần còn lại của khúc thịt đã cắt ra lúc nãy. Lão nhai cẩn thận rồi nhổ bỏ da.

“Thế nào rồi hả tay? Hay hãy còn quá sớm để hoàn hồn?” Lão lấy cả miếng thịt dài khác và nhai nó.

“Con cá này chắc thịt và nhiều máu”, lão nghĩ.

“Mình may mà tóm được nó thay vì đám cá dorado kia. Thịt cá dorado ngọt quá. Con cá này thịt không ngọt nhưng chất bổ dưỡng trong nó thì nhiều và vẫn ngon sau khi chết”. Dẫu sao thì thực tiễn cũng luôn thắng mọi giả định, lão nghĩ. oeớc chi mình có được ít muối. Mình không rõ liệu mặt trời sẽ làm hỏng hoặc sấy khô số cá còn lại, vậy nên tốt hơn là chén tất dẫu cho cái bụng không đói. Con cá bình tĩnh và kiên cường. Mình sẽ ăn hết cả chỗ cá này rồi mình sẽ sẵn sàng.

“Hãy kiên nhẫn, tay à”, lão nói.

“Tao làm điều này vì mày đấy”. Giá mà ta có thể cho con cá ăn, lão nghĩ. Nó là người anh em của ta. Nhưng ta phải giết nó và giữ gìn sức khỏe để làm điều đó. Từ tốn và tỉ mẩn, lão ăn hết sạch những miếng cá hình chữ V. Lão đứng dậy, chùi tay vào quần.

“Nào”, lão nói.

“Tay này, mày có thể buông sợi dây ra được rồi đó, tao sẽ điều khiển nó với mỗi bàn tay phải cho đến khi mày từ bỏ cái trò ngớ ngẩn ấy”. Lão giẫm chân trái lên sợi dây nặng mà bàn tay phải đã nắm giữ và ưỡn người làm giảm bớt sức nặng dồn lên lưng lão.

“Xin Chúa hãy giúp con trừ bỏ cái chứng chuột rút này đi”, lão nói.

“Bởi lẽ con không biết rồi đây con cá sẽ làm gì”. Nhưng dường như nó cứ điềm tĩnh, lão nghĩ, thực hiện kế hoạch của mình. Nhưng kế hoạch của nó là gì, lão thầm nhủ. Thế còn kế hoạch của ta? Của ta, ta phải ứng biến kịp thời với nó bởi kích thước khổng lồ ấy. Nếu nó nhảy lên thì ta có thể giết nó. Nhưng sao nó cứ ở mãi dưới đó. Vậy thì ta cũng sẽ cầm cự luôn với nó dưới đó mãi mãi. Lão xát bàn tay bị chuột rút vào quần dài và cố cử động mấy ngón tay. Song nó vẫn không duỗi ra. Có lẽ mặt trời sẽ làm nó duỗi, lão nghĩ. Có lẽ nó sẽ lại cử động khi chỗ thịt cá thu sống bổ dưỡng ấy được tiêu hóa. Nếu phải sử dụng nó thì ta sẽ cố mở bằng bất cứ giá nào. Nhưng bây giờ ta chưa muốn dùng sức với nó. Cứ để nó tự duỗi ra và quay lại với chức năng của chính mình. Tình thực tối qua ta đã lạm dụng nó quá mức khi lẽ ra nó cần được nghỉ ngơi, không vướng mắc với mớ dây dợ kia.

Lão nhìn quanh biển và biết lúc này lão cô đơn biết nhường nào. Nhưng lão vẫn có thể nhìn thấy những khối hình trụ trong làn nước đen sẫm sâu, cả sợi dây câu thẳng chếch phía trước mặt và những gợn sóng bình thản đến kỳ lạ. Theo làn gió mậu dịch, giờ đây những đám mây ùn lên, lão nhìn ra trước mặt và thấy một đàn vịt trời in lên nền trời trên biển, thoắt ẩn, thoắt hiện và lão biết chẳng có ai phải cô đơn trên biển cả. Lão nghĩ đến kiểu sợ của nhiều người lúc lênh đênh trên thuyền nhỏ mà không nhìn thấy đất liền và biết họ đúng, bởi trong nhiều tháng thời tiết sẽ thất thường. Bây giờ họ đang ở vào những tháng cuồng phong, song những khi không có bão thì thời tiết trong những tháng cuồng phong lại tốt nhất trong năm. Nếu có bão thì khi đi biển người ta sẽ luôn thấy dấu hiệu của nó trên bầu trời từ vài hôm trước. Nhưng những người ở trên bờ thì không thấy bởi họ chẳng biết quan sát để làm gì, lão nghĩ. Đất liền rõ là khác hẳn, hình dáng những đám mây ấy mà. Nhưng bây giờ thì chưa có bão. Lão nhìn lên bầu trời và thấy những đám mây trắng xếp lên nhau tựa chồng bánh kem ngon lành, còn bên trên là những quầng mây mỏng nhẹ tênh trên bầu trời tháng chín sâu thẳm.

“Gió nhẹ”, lão nói.

“Cá này, thời tiết thuận cho ta hơn là cho mày”. Bàn tay trái của lão vẫn co quắp nhưng lão đã khẽ duỗi được một tí. Mình căm thù chứng chuột rút, lão nghĩ. Đây là ngón đồi bại của chính thể xác. Thật là nhục nhã khi trước mặt người khác mà lại ỉa chảy hay nôn mửa do ngộ độc thức ăn. Nhưng trò chuột rút, lão nghĩ, rõ đúng là một calambre, lại đặc biệt nhục nhã khi xảy ra với kẻ một thân một mình. Nếu thằng bé ở đây thì nó sẽ xoa bóp cánh tay, bàn tay và làm nó duỗi ra, lão nghĩ. Nhưng tự nó cũng sẽ khỏi. Tiếp đó bàn tay phải của lão cảm nhận sức nặng của sợi dây có phần khang khác trước khi lão thấy độ nghiêng của nó thay đổi trên mặt nước. Rồi khi giữ chặt sợi dây, đập nhanh và mạnh bàn tay trái vào đùi, lão thấy sợi dây chênh chếch từ từ nổi lên.

“Nó đang trồi lên”, lão nói.

“Thôi nào tay. Hãy cố lên”. Sợi dây cứ lững thững, điềm tĩnh nhô lên và lúc mặt biển vỡ toang phía trước thuyền, con cá tung mình lên. Nó nhô lên bất tận, nước đổ ròng ròng từ hai bên lườn. Thân hình bóng nhẫy trong ánh nắng; đầu và lưng màu tím sẫm; trong ánh nắng, những đường sọc hai bên mình nó nom đồ sộ, phớt hồng. Cái kiếm của nó dài bằng cây gậy bóng chày, thon như một lưỡi kiếm; nó vươn hết độ dài thân hình lên khỏi mặt nước rồi nhẹ nhàng lao xuống như một tay thợ lặn; ông lão nom thấy cái đuôi hình lưỡi hái đồ sộ chìm xuống và sợi dây câu lại hút theo.

“Nó dài hơn chiếc thuyền chừng năm sáu tấc”, ông lão nói. Sợi dây tuồn nhanh xuống, nhưng đều đặn, chứng tỏ con cá không hề hoảng sợ. ông lão dồn cả hai tay hãm sợi dây nhưng chỉ trong mức an toàn, tránh để bị đứt. Lão biết, nếu lão không kìm chậm tốc độ của con cá thì nó có thể lôi tuột hết cả dây và bứt đứt. Chú cá thật kiêu hùng và mình phải chinh phục nó, lão nghĩ. Ta phải không để nó biết rằng nó khỏe cũng như nếu nó cứ bơi hoài như thế thì nó cũng sẽ chẳng mảy may biết chuyện đã gây ra cho ta. Nếu ta là nó thì ta sẽ dốc hết sức bình sinh kéo cho dây câu đứt tung hết cả lên. Nhưng, tạ ơn Chúa, loài vật thì chẳng thông minh bằng kẻ tiêu diệt chúng; mặc dù chúng cao thượng và hùng tráng hơn. ông lão đã từng thấy nhiều cá lớn. Lão đã tận mắt chứng kiến nhiều con cân nặng hơn nửa tấn và trong đời chính lão cũng đã bắt được hai con lớn như thế, nhưng không phải chỉ một mình.

Giờ đây, chỉ mình lão, đất liền lại khuất xa tầm mắt mà lão lại tóm được con cá lớn nhất, một con cá lão chưa từng thấy và lớn hơn cả những con được cánh chài lưới truyền tụng, trong lúc bàn tay trái của lão vẫn quắp chặt như cái vuốt của con đại bàng lúc co vào. Dẫu sao thì nó cũng sẽ khỏi, lão nghĩ. Chắc chắn nó sẽ duỗi ra để giúp bàn tay phải. Có ba thứ là anh em ta: con cá và hai bàn tay. Nó phải thôi cái thói chuột rút ấy đi. Bị chuột rút thì chẳng còn chút giá trị gì nữa. Con cá lại giảm tốc độ và tiến đều đều như trước. Mình thắc mắc tại sao nó lại nhảy lên nhỉ, lão nghĩ. Nó nhảy lồng lên như thể nó để mình biết nó lớn nhường nào. Dẫu sao thì bây giờ mình đã biết; lão nghĩ. Giá mà mình có thể cho nó thấy mình thuộc loại người nào. Nhưng ngộ nhỡ nó nhìn thấy bàn tay bị chuột rút. Cứ để cho nó nghĩ mình khỏe hơn chính bản thân mình và mình sẽ là như thế. oeớc gì ta là con cá, lão nghĩ, với mọi phẩm chất nó có chỉ trừ khát vọng và trí tuệ của ta. Lão lựa chiều tựa người thoải mái hơn vào mạn thuyền, rán sức chịu đựng trọng lực dồn tới khi con cá bình thản bơi va con thuyền chầm chậm trôi trên làn nước thẫm. Khi gió từ hướng Đông thổi lại, mặt biển khẽ cồn lên và đến trưa, bàn tay trái của lão hết bị chuột rút.

“Tin xấu cho mày đây, cá”, lão nói và dịch sợi dây trên chiếc bao phủ vai lão. Đã chọn được tư thế thoải mái nhưng lão vẫn thấy đau nhức dẫu cho lão chẳng bận tâm đến cơn đau ấy tí nào.

“Mình vô thần”, lão nói.

“Nhưng mình sẽ đọc mười lần bài kinh Lạy Cha và mười lần bài kinh Mừng Đức Mẹ để mình có thể bắt được con cá này và mình hứa mình sẽ hành hương đến nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre nếu mình bắt được nó. Mình xin hứa như thế”. Lão bắt đầu máy móc đọc kinh. Đôi chỗ, do quá mệt nên lão không thể nhớ bài kinh rồi tiếp đó lão đọc nhanh đến nỗi bài kinh như động ùa ra. Kinh Mừng Đức Mẹ dễ đọc hơn kinh Lạy Cha, lão nghĩ.

“Kính Đức Mẹ Maria ơn sâu, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phước lạ hơn mọi phụ nữ và Jesus cùng Bà gồm nhiều phước lạ. Thánh nữ Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen”. Rồi lão đọc thêm:

“Đức Mẹ Đồng Trinh đầy phép lạ, cầu cho con cá này chết đi. Dẫu cho nó có là chú cá siêu phàm”. Đọc xong mấy bài kinh của mình, cảm thấy đỡ hơn nhiều nhưng cơn đau nhức vẫn nguyên như cũ, có lẽ lại tăng thêm chút ít, lão tựa vào mạn mũi thuyền và bắt đầu máy móc cử động mấy ngón tay ở bàn tay trái. Bây giờ mặt trời nóng bức dẫu cho cơn gió nhẹ đang thoảng qua.

“Tốt hơn là ta móc lại sợi dây câu nhỏ ấy rồi thả qua đuôi thuyền”, lão nói.

“Nếu con cá quyết định nán thêm một đêm nữa thì mình cần có cái để ăn, vả lại trong chai, nước sắp hết rồi. Nơi này mình không hy vọng bắt được loài nào khác ngoài cá dorado. Nhưng nếu mình ăn lúc nó còn tươi rói thì thịt nó cũng không đến nỗi tồi. Mình ước tối nay một con cá chuồn bay lạc lên thuyền. Nhưng mình không có đèn để dụ nó. Thịt cá chuồn ăn sống thì tuyệt cú mèo và mình sẽ không cần cắt ra. Giờ thì mình phải giữ gìn sức lực. Lạy Chúa, mình không biết nó lớn quá”.

“Nhưng ta sẽ giết nó”, lão nói.

“Dẫu cho con cá có vĩ đại và kiêu hãnh đến nhường nào”. Dẫu sao thì cũng thật bất công, lão nghĩ. Nhưng mình phải cho con cá thấy những gì con người có thể làm và khả năng chịu đựng của hắn.

“Mình đã bảo thằng bé, mình là lão già kỳ lạ”, lão nói.

“Giờ là lúc mình phải chứng minh điều đó”. Đã hàng ngàn lần lão chứng minh nhưng rồi cũng chẳng có nghĩa lý gì. Bây giờ lão lại đang chứng minh. Mỗi lần đều mới mẻ và lão chẳng hề nghĩ về quá khứ khi lão làm điều đó. Mình mong nó ngủ và mình có thể ngủ và mơ về những con sư tử, lão nghĩ. Tại sao đàn sư tử lại là hình ảnh đậm nét nhất trong ký ức? Đừng nghĩ nữa, lão già ạ, lão tự nhủ. Bây giờ hãy tựa vào mạn thuyền nghỉ ngơi một lát và đừng nghĩ ngợi về bất cứ điều gì cả. Con cá thì mải kéo. Còn mày thì hạn chế di chuyển đến mức có thể.

Phần 2

Trời dần sang chiều, con thuyền vẫn lừ đừ tiến một cách vững chắc. Nhưng giờ thì đã xuất hiện trợ lực, gió Đông đẩy thuyền đi và ông lão nhấp nhô theo những con sóng nhỏ, nỗi nhức nhối của sợi dây hằn trên lưng đã dịu đi, mềm mại. Trong buổi chiều ấy, sợi dây lại nổi lên một lần nữa. Nhưng con cá vẫn tiếp tục bơi ở tầng nước cao hơn một tí. Mặt trời rọi lên cánh tay trái, vai và lưng lão. Vậy nên lão biết con cá đã chuyển sang hướng Đông Bắc. Bây giờ, khi đã trông thấy nó, lão có thể hình dung con cá đang bơi trong đại dương, bộ vây đỏ hồng dang rộng như đôi cánh, còn cái đuôi dựng đứng đồ sộ đang rẽ nước trong vùng tối đen. Mình không biết nó có nhìn rõ ở độ sâu ấy không, lão nghĩ. Mắt nó to lắm và loài ngựa mắt nhỏ hơn nhiều vẫn có thể nhìn xuyên qua bóng tối. Có hồi mình có thể nhìn khá rõ trong bóng tối. Không phải tối đen kịt đâu. Nhưng có thể nói là sáng gần như mắt mèo. Mặt trời và việc cử động bền bỉ mấy ngón tay của lão đã làm bàn tay trái giờ đây hoàn toàn hết bị chuột rút và lão bắt đầu dồn thêm áp lực lên nó; lão gồng các bắp thịt trên lưng cố nhích sợi dây đau điếng sang một tí.

“Cá này, nếu mày không mỏi mệt”, lão nói lớn,

“Thì mày quả thật đúng là dị thường”. Lúc này, lão cảm thấy rất mệt, lão biết bóng tối sắp ập đến và lão cố nghĩ sang chuyện khác. Lão nghĩ về Liên đoàn Big mà lão gọi là Gran Ligas và lão biết đội Yankee của New York đang đấu với đội Tigers của Detroit. Bây giờ đã sang ngày thứ hai mà mình không biết kết quả các trận đấu, lão nghĩ. Nhưng mình phải tin tưởng và phải xứng đáng với tài danh Di Maggio vĩ đại, người luôn xử lý mọi việc hoàn hảo dẫu cho phải mang cái gót chân đau vì chứng nẻ cựa gà. Chứng nẻ cựa gà là gì nhỉ? Lão tự hỏi. Una espuela de Hueso. Chúng mình không mắc bệnh ấy. Nó có đau như cựa của một chú gà chọi đâm vào gót chân không nhỉ? Mình không nghĩ mình có thể chịu đựng được điều ấy hay việc mất một mắt, hai mắt mà vẫn tiếp tục chiến đấu theo kiểu của đám gà chọi. Bên cạnh giống chim và loài thú vĩ đại thì con người chẳng thấm tháp gì nhiều. Vậy nên mình thích làm con cá ở dưới kia, lội trong vùng tối đen của đại dương.

“Miễn là đừng gặp lũ cá mập”, lão nói lớn.

“Nếu cá mập đến, cầu Chúa hãy rủ lòng thương lấy con cá và cả con nữa”. Mày có chắc Di Maggio vĩ đại sẽ cầm cự với một con cá lâu như tao đã cầm cự với chú cá này không? Lão nghĩ. Mình nghĩ anh ta có thể và thậm chí có thể lâu hơn nữa bởi anh ta trẻ trung, cường tráng. Cha anh ta cũng là dân chài lưới. Nhưng cái chứng nẻ cựa gà có làm anh ta đau nhiều không nhỉ?

“Ta không biết”, lão nói lớn.

“Ta không bao giờ mắc cái chứng ấy”. Khi mặt trời lặn, lão hồi tưởng, để tự củng cố thêm niềm tin, về cái hôm ở quán rượu tại Casablanca khi lão chơi vật tay với anh chàng da đen lực lưỡng quê ở Cienfuegos, người được xem là khỏe nhất ở cảng ấy. Hai người đấu suốt một ngày và một đêm; khuỷu tay đặt trong vòng phấn trên bàn, cánh tay dựng thẳng, hai bàn tay nắm chặt lấy nhau. Người nào cũng cố vật tay của đối thủ xuống bàn. Người ta đặt cược rất nhiều và cứ đi vào đi ra căn phòng sáng ánh đèn dầu; lão nhìn cánh tay, bàn tay rồi nhìn mặt anh chàng da đen. Sau tám giờ đầu, người ta quyết định cứ bốn tiếng thì thay trọng tài để họ có thể đi ngủ. Máu từ tay lão và tay anh chàng da đen tứa ra kẽ móng tay. Hai đấu thủ nhìn vào mắt, vào bàn tay, cánh tay của nhau; dân đánh cược cứ ra ra vào vào và ngồi trên những chiếc ghế cao tựa vào tường theo dõi. Mấy ngọn đèn hắt bóng họ lên những bức tường gỗ sơn màu xanh biếc. Bóng tay da đen nom đồ sộ, cứ chập chờn trên vách mỗi khi gió nhẹ lùa vào mấy ngọn đèn. Suốt đêm, tình thế trận đấu vẫn chưa ngã ngũ, người ta cho tay da đen uống rượu rum và châm thuốc mời hắn. Rồi thì anh chàng da đen, sau ngụm rum đã dốc hết nỗ lực phi thường và có lúc đã đè nghiêng tay lão, người lúc ấy chưa già mà là Santiago El Campeón, chừng bảy phân. Nhưng lão đã đẩy bật trở về vị trí ban đầu. Lúc đó lão chắc là lão sẽ thắng tay da đen, một vận động viên điền kinh cừ khôi, sung sức. Rồi ngày ló rạng, khi những người cá cược đang đề nghị xem trận đấu là hòa và trọng tài đang lắc đầu thì lão dồn hết gân cốt đè bàn tay của anh chàng da đen xuống, xuống nữa cho đến khi chạm hẳn mặt bàn. Trận đấu bắt đầu vào sáng chủ nhật và kết thúc vào sáng thứ hai. Nhiều tay cá độ đề nghị hòa vì họ phải ra cảng bốc vác các bao đường hay làm việc cho Công tá than Havana. Nếu không thế thì mọi người hẳn muốn đợi xem cho đến lúc kết thúc. Nhưng dẫu sao thì lão cũng kết thúc trận đấu trước lúc mọi người phải đi làm. Trong suốt thời gian dài sau sự kiện ấy, mọi người đều gọi lão là Nhà Vô Địch; dĩ nhiên còn có cả trận phục thù vào mùa xuân nữa kia. Nhưng tiền đặt cược không nhiều và lão đã chiến thắng quá dễ dàng bởi đã đập tan lòng tin của tay da đen ở Cienfuegoạ trong trận chạm trán đầu tiên. Sau chiến thắng ấy, lão còn đấu vài trận nữa rồi nghỉ hẳn. Lão biết lão có thể đánh bại bất cứ ai nếu lão thực sự khao khát và lão cũng hiểu rằng bàn tay phải của lão sẽ kém đi khi câu cá. Lão đã thử vài trận đấu luyện với bàn tay trái. Nhưng tay trái lão luôn là kẻ phản bội, không chịu làm theo ý chí lão nên lão không thể tin cậy nó. Lúc này, mặt trời đã làm nó đủ ấm, lão nghĩ. Nó sẽ không bị chuột rút nữa nếu ban đêm không bị lạnh quá. Mình không rõ, đêm nay chuyện gì sẽ đến đây. Một chiếc máy bay vượt qua bầu trời trên đường đến Miami, lão thấy cái bóng của nó làm cả đàn cá chuồn hoảng sợ.

“Nhiều cá chuồn đến thế thì ở đó chắc có cá dorado”, lão nói rồi trì sợi dây lại xem thử có khả năng đoạt được đoạn dây nào từ con cá kia không. Nhưng lão không thể, nó cứ trơ trơ, sợi dây rung rung bắn cả nước cơ hồ như sắp đứt. Chiếc thuyền vẫn bình lặng tiến về phía trước và lão dõi theo chiếc máy bay cho đến khi không còn nhìn thấy nó. Ngồi trong máy bay chắc là lạ lắm, lão nghĩ. ở độ cao ấy, mình không biết mặt biển trông ra sao? Họ có thể thấy rõ con cá nếu không bay cao quá. Mình thích bay thật chậm ở độ cao hai trăm sải để quan sát cá từ trên cao. Những lần theo thuyền săn rùa, mình đứng trên xà ngang của cột buồm tiền và chỉ với độ cao ngần ấy mình cũng đã nhìn rõ ra phết. Đám cá dorado trông xanh hơn từ trên đấy và bạn có thể nhìn thấy những đường sọc, những đốm đỏ tía trên mình chúng và có thể thấy hết cả đàn khi chúng bơi. Tại sao tất thảy các loài cá bơi nhanh trong vùng nước tối thì lưng lại tím sẫm và luôn có vằn và đốm tím? Loài cá dorado có màu xanh thẫm là vì da chúng vàng ruộm. Nhưng khi chúng đi kiếm mồi, vào những lúc đói ngấu thì mấy cái vằn tím hai bên lườn trông giống hệt như vằn của loài cá kiếm. Có phải là do giận dữ hay là do tốc độ lớn mà da chúng có hiện tượng ấy?

Ngay trước khi trời tối, lúc vượt qua đảo rong biển Sargasso mênh mông đang ngả nghiêng dập dềnh trong sóng nhẹ như thể đại dương đang làm tình với ai đó dưới cái mền vàng, thì sợi dây câu nhỏ của lão đã móc vào họng một con cá dorado. Lão thấy nó lần đầu tiên khi nó nhảy lên mặt nước, vàng ruộm trong sắc nắng còn nán lại, uốn cong mình vẫy vùng loạn xạ trong không trung. Nó lại cứ tiếp tục lao lên, lần nữa, rồi lần nữa trong cơn hoảng sợ tột cùng và ông lão lom khom lần về phía đuôi thuyền, bàn tay phải và cả cánh tay giữ sợi dây câu lớn, còn tay trái lão lôi con cá vào, chân trái chận giữ những đoạn dây thu được. Khi vào gần mạn thuyền con cá cứ nhào lên lặn xuống hoảng loạn trong cơn tuyệt vọng, ông lão cúi người qua mạn, nhấc con cá vàng cháy lốm đốm vệt tím sẫm vào thuyền. Mồm nó cứ há ra rồi ngoạp liên hồi xuống lưỡi câu rồi cứ nảy trong lòng thuyền bằng cái thân dẹt dài, bằng cả đầu và đuôi nữa cho đến lúc ông lão quật mạnh xuống cái đầu vàng nhẫy thì nó mới rùng mình nằm im. ông lão tháo lưỡi câu khỏi con cá, móc lại mồi bằng một con cá mòi khác rồi buông qua mạn thuyền. Lão dò dẫm trở lại mũi thuyền. Lão rửa tay trái và chùi vào quần. Đoạn lão chuyền sợi dây nặng từ tay phải sang tay trái rồi rửa tay phải trong lúc quan sát mặt trời đang chìm xuống biển và độ chếch của sợi dây lớn.

“Nó chẳng thay đổi chút nào”, lão nói. Nhưng khi nhìn sức cản của nước dội vào tay, lão biết tốc độ đã có phần giảm đi.

“Ta sẽ buộc hai mái chèo sau lái chéo vào nhau để làm chậm con cá vào ban đêm”, lão nói.

“Về đêm nó khỏe và ta cũng thế”. Tốt hơn là để lát nữa mới mổ thịt con cá, như thế mới giữ được máu trong thịt, lão nghĩ. Lát nữa ta làm việc ấy và cả việc buộc hai mái chèo để làm vật cản luôn thể. Bây giờ ta nên để con cá yên thì tốt hơn và không nên quấy nó quá vào lúc hoàng hôn. Hoàng hôn là khoảng thời gian khó khăn đối với tất cả các loài cá. Lão để bàn tay cho gió thổi khô rồi nắm sợi dây, thả lỏng cơ thể hết mức, nương theo đà kéo, nép vào mạn thuyền để con thuyền chia đều áp lực hay chiếm hơn phần lực đè lên lão. Mình biết cách rồi đấy, lão nghĩ. Dẫu sao thì đấy cũng là một trong những mẹo. Rồi lão nhớ con cá chưa hề ăn thứ gì kể từ lúc cắn câu; nó là con cá khổng lồ nền cần phải ăn nhiều. Mình đã ăn hết con cá thu. Ngày mai mình sẽ ăn con dorado. Mình gọi loài dolphin này là dorado. Có lẽ ta nên ăn một ít khi đã mổ thịt. Thịt nó sẽ khó ăn hơn thịt con thu. Nhưng giờ đây, có gì là dễ đâu.

“Mày cảm thấy thế nào hở cá ?  » lão hỏi lớn.

“Còn tao thì thấy khỏe, bàn tay trái cũng đã khá hơn. Tao có đủ thức ăn cho một đêm, một ngày nữa. Có giỏi thì cứ kéo thuyền đi, cá”. Lão không thật sự cảm thấy khỏe khoắn bởi nỗi nhức nhối do sợi dây hằn lên lưng lão đã vượt qua giới hạn đau để đi vào miền tê dại mà lão chẳng thể nào lường nổi. Nhưng ta đã từng gặp chuyện tồi tệ hơn thế, lão nghĩ. Bàn tay chỉ bị cứa nhẹ một tí, còn chứng chuột rút thì đã đi đâu mất rồi. Đôi chân còn khỏe chán. Đấy là chưa kể ta còn nhỉnh hơn nó về khoản thịt cá kia. Giờ thì trời đã tối, đêm tháng chín, bóng tối ập xuống rất nhanh ngay sau lúc mặt trời lặn. Lão ngả người tựa vào mạn thuyền và cố nghỉ ngơi thư thái. Những ngôi sao đầu tiên xuất hiện. Lão không biết tên vì Rigel nhưng lão nhìn thấy nó và biết chẳng mấy nữa, cả trời sao sẽ hiện lên và lão sẽ có những người bạn ở nơi xa xôi kia.

“Con cá cũng là bạn ta”, lão nói lớn.

“Ta chưa hề được nhìn thấy hay nghe nói về một con cá nào như thế. Nhưng ta phải giết nó. Ta lấy làm mừng vì chúng ta không phải cố giết những vì sao”. Hãy tưởng tượng hằng ngày con người phải cố giết cả mặt trăng. Mặt trăng sẽ lánh xa. Nhưng thử hình dung nếu có ngày có người phải giết cả mặt trời. Chúng ta được sinh ra may mắn, lão nghĩ. Rồi lão xót xa cho con cá lớn đã không có cái gì để ăn và dẫu cho có xót xa như thế thì quyết tâm giết con cá của lão cũng không hề suy giảm. Bao nhiêu người sẽ ăn thịt con cá này, lão nghĩ. Nhưng liệu họ có đủ tư cách để ăn thịt nó không. Không, đương nhiên là không. Chẳng một ai có đủ tư cách để ăn thịt nó bởi cái cách cư xử đĩnh đạc và phong độ của nó. Mình không hiểu những chuyện này, lão nghĩ. Nhưng thật dễ chịu khi chúng ta không phải cố giết mặt trời, mặt trăng hay những vì sao. Sống nương vào biển và giết người anh em thực sự của chúng ta là đã quá đủ rồi. Bây giờ, lão nghĩ, mình phải nghĩ về chuyện hãm bớt. Việc này thì có phần lợi và cũng có phần hại. Nếu con cá dốc sức chạy và hai cái chèo cản nước làm con thuyền mất độ nhẹ thì chắc mình cũng phải buông hết dây rồi để mất con cá. Con thuyền càng nhẹ thì càng kéo dài nỗi khổ của mình lẫn con cá nhưng đấy lại là điểm an toàn của mình bởi sức lực của con cá hãy còn rất dồi dào và nó chưa dùng hết. Dù gì đi nữa thì mình cũng phải mổ thịt con dorado để nó không bị hỏng và ăn vài miếng để lấy sức. Bây giờ mình sẽ nghỉ thêm một tiếng nữa để xem nó có còn lừng lững và ngoan cố trước khi mình quay ra sau lái quyết ra tay thử xem sao. Nhưng trong khi chờ đợi mình hẵng quan sát xem cách thức nó hành động và liệu nó có giở trò gì ra không. Buộc chèo là mẹo tốt nhất nhưng đã đến lúc cuộc chơi phải an toàn. Nó vẫn còn sung sức, mình thấy lưỡi câu móc vào khóe miệng và nó cứ ngậm chặt miệng. Nỗi đau đớn của lưỡi câu chẳng nghĩa lý gì cả. Nhưng sự hành hạ của cái đói cùng với việc không hiểu rõ mình đang chống lại cái gì là cả vấn đề đối với con cá. Giờ thì hãy nghỉ đi, lão già ạ, và cứ để nó kéo cho đến khi nhiệm vụ sắp tới của mày đến. Lão nghỉ độ chừng hai tiếng. Mặt trăng chưa mọc bây giờ nhưng lát nữa sẽ mọc; lão không có cách nào đoán thời gian. Và cái việc nghỉ ngơi của lão cũng lơ mơ nốt. Lão vẫn cứ chịu sức kéo của con cá dồn lên vai tuy đã đặt bàn tay trái lên mép mạn thuyền trước mũi để trút bớt, bớt nữa gánh nặng của con cá lên chiếc thuyền. Thật đơn giản làm sao nếu ta có thể buộc sợi dây, lão nghĩ. Nhưng chỉ với một cú quẫy nhẹ, con cá sẽ giật đứt. Mình phải đưa thân ra làm chiếc đệm cho sợi dây và lúc nào cũng sẵn sàng cả hai tay nới thêm dây.

“Nhưng mày vẫn chưa ngủ, lão già ơi”, lão nói lớn.

“Đã nửa ngày và một đêm còn bây giờ lại sang một ngày nữa mà mày vẫn chưa ngủ tí nào cả. Nếu con cá cứ lặng lẽ và kéo đều như thế thì mày phải thu xếp để ngủ đi một lát. Nếu mày không ngủ thì đầu óc không chừng sẽ rối tung lên mất”. Đầu mình vẫn còn tỉnh táo, lão nghĩ. Quá tỉnh táo nữa là đằng khác. Mình tỉnh như những vì sao anh em kia. Nhưng mình phải ngủ. Sao ngủ, mặt trăng, mặt trời ngủ và ngay cả đại dương đôi khi cũng ngủ vào những hôm nào đó khi dòng hải lưu ngừng trôi và mặt nước phẳng lặng. Nhưng hãy nhớ chợp mắt, lão nghĩ. Cố ngủ đi và hãy nghĩ ra một kế gì đó đơn giản nhưng bảo đảm về mấy sợi dây câu. Bây giờ hãy lùi lại mổ thịt con cá dorado kia. Nếu mày phải ngủ thì chớ có liều mạng buộc chèo làm vật cản. Ta có thể chịu đựng mà không cần ngủ, lão tự nhủ. Nhưng như thế thì thật là quá nguy hiểm. Lão bắt đầu dò dẫm bò về phía đuôi thuyền, thận trọng không làm giật sợi dây. Có lẽ nó cũng đang lơ mơ ngủ, lão nghĩ. Nhưng mình không muốn nó được nghỉ ngơi. Nó phải kéo cho đến khi chết. Ra đến lái, lão xoay người để bàn tay trái giữ chặt sợi dây và dồn sức mạnh lên cả hai vai rồi rút con dao ra khỏi vỏ bằng tay phải. Lúc này ánh sao chiếu sáng, lão nhìn rõ con cá dorado, cắm lưỡi dao vào đầu và lôi nó ra khỏi tấm ván sau lái. Lão đè chân lên con cá, rạch phăng một nhát từ phía dưới bụng dọc lên đến mõm hàm dưới. Rồi lão đặt dao xuống, dùng tay phải moi sạch ruột và móc hết mang ra. Cảm thấy cái dạ dày con cá nặng và trơn trơn nên lão mổ nó ra. Có hai con cá chuồn trong đó. Chúng còn tươi rói, lão đặt nằm cạnh nhau rồi quẳng mớ lòng lẫn mang qua mạn thuyền. Khi chìm, chúng kéo thành vệt lân tinh dài trong nước.

Con cá dorado lạnh ngắt, trong ánh sao, chỗ thịt trắng nhợt màu phong hủi; lão lột một bên da trong lúc đạp chân phải lên đầu cá. Rồi lão lật lại lột nốt nửa kia và lóc thịt cả hai bên từ đầu đến đuôi. Lão quẳng xương xuống biển và nhìn xem thử có xoYy nước không. Nhưng chỉ có ánh lân tinh khi cái xương từ từ chìm xuống. Rồi lão quay lại đặt hai con cá chuồn vào giữa hai miếng thịt cá; đút dao vào vỏ, lão chầm chậm quay về phía mũi thuyền. Lưng lão oằn xuống bởi độ nặng của sợi dây; tay phải lão cầm mấy miếng thịt cá. Đến mũi, lão đặt chỗ thịt cá lên tấm ván, hai con cá chuồn xếp bên cạnh. Sau đó lão nhích sợi dây sau vai sang chỗ mới, tay trái lại giữ nó và tì lên mạn thuyền. Rồi lão nghiêng người qua mạn rửa con cá chuồn và để ý tốc độ nước vỗ vào tay. Tay lão dính lân tinh khi lột da con cá, lão nhìn dòng nước xói vào chỗ ấy. Dòng nước không còn xiết nữa và khi lão miết mu bàn tay vào ván thuyền, nhiều mảnh lân tinh bong ra, từ từ trôi về phía lái.

“Hoặc là nó đang mệt hoặc là nó đang nghỉ”, ông lão nói.

“Bây giờ ta cố ăn chỗ thịt cá dorado này, rồi nghỉ ngơi và ngủ một tí”. Dưới trời sao, trong đêm thâu mỗi lúc một lạnh, lão ăn hết nửa miếng cá dorado và một con cá chuồn sau khi đã móc ruột và cắt bỏ đầu.

“Thịt cá dorado này càng tuyệt vời khi nấu chín bao nhiêu”, lão nói,

“thì lại càng dở ẹc khi ăn sống bấy nhiêu. Mình sẽ không bao giờ ra khơi mà lại không mang theo muối hay quất nữa”. Nếu biết trù tính thì mình đã đổ nước biển lên ván mui phơi khô để lấy muối, lão nghĩ. Nhưng mãi cho tới lúc gần tối thì mình mới bắt được con dorado. Dẫu sao thì cũng đã thiếu sự chuẩn bị. Nhưng mình sẽ nhai kỹ và cố không bị nôn. Từ hướng Đông, mây đang giăng lên bầu trời và lần lượt từng ngôi sao lão thấy chìm đi. Bây giờ lão như thể đang trôi vào hẻm mây lớn và gió đã ngừng thổi.

“Trời sẽ trở trong vòng ba bốn hôm nữa”, lão nói.

“Nhưng tối nay và ngày mai thì chẳng sao. Bây giờ trong lúc con cá đang bơi bình tĩnh, đều đặn thì hãy quên mọi chuyện và cố ngủ đi, lão già ạ”. Bàn tay phải nắm chặt sợi dây, đùi lão kẹp lấy bàn tay khi lão dồn hết sức nặng tựa vào mạn thuyền. Rồi lão đẩy sợi dây trên lưng xuống thấp một tí và quàng tay trái qua giữ lấy. Tay phải của mình có thể giữ chắc sợi dây cho đến khi nó còn nắm chặt, lão nghĩ. Nếu trong lúc ngủ nó buông sợi dây ra thì tay trái sẽ đánh thức mình dậy. Tay phải sẽ chịu khổ đấy. Nhưng nó đã quen chịu đựng rồi. Dẫu cho mình có ngủ hai mươi phút hay nửa tiếng thì nó cũng không sao. Nằm quắp người tới trước, dồn hết trọng lượng cơ thể đè lên sợi dây, lên bàn tay phải, lão chìm vào giấc ngủ. Lão không mơ về sư tử, thay vào đó là đàn cá heo đông như kiến cỏ, trải dài tám đến mười dặm; đấy là mùa chúng giao phối, nhảy lên và rơi xuống đúng điểm nhảy trên mặt nước. Rồi lão mơ, lão đang ở làng, đang trên giường, gió bấc thổi làm lão lạnh cóng, cánh tay phải của lão tê buốt vì lão đã gối đầu lên thay gối. Sau đó lão bắt đầu mơ về bãi cát dài vàng rực, lão thấy con sư tử đầu tiên bước ra trong bóng tối chập choạng rồi tiếp đó là những con khác, còn lão thì tựa lên mạn con tàu đang thả neo trong làn gió nhẹ buổi tối từ đất liền thổi đến; lão cứ đợi xem thử còn có thêm con nào nữa không, lão hạnh phúc. Trăng mọc đã lâu mà lão vẫn ngủ vùi, con cá vẫn lững thững kéo, còn con thuyền thì chui vào đường hầm mây. Lão choàng tỉnh bởi cú đập từ nắm tay phải va vào mặt, sợi dây bỏng rát trong lòng bàn tay phải. Lão không có cảm giác về bàn tay trái nhưng đã dồn hết sức lên tay phải, hãm sợi dây khi bị kéo đi. Cuối cùng tay trái lão cũng đã tìm thấy sợi dây, lão oằn người ra giữ và bây giờ lưng và bàn tay trái lão bị sợi dây làm bỏng rát; độ căng dồn lên bàn tay trái, cắt nát nó. Lão nhìn lại mấy cuộn dây và thấy nó nhẹ nhàng tuôn ra.

Đúng lúc ấy, con cá nhảy lên, xé toang một mảng đại dương rồi rơi ầm xuống. Nó cứ tiếp tục nhảy, con thuyền lao đi vùn vụt mặc dù dây vẫn không ngừng tuôn ra; ông lão cứ tiến đến điểm sắp đứt, làm chùng xuống rồi cứ lặp đi lặp lại. Rốt cuộc lão bị kéo sập xuống mũi thuyền, mặt đập vào chỗ thịt cá dorado và nằm bất động. Đây là những gì ta chờ đợi, lão nghĩ. Vậy thì ta hãy nhận ngay đi. Bắt nó trả sợi dây, lão nghĩ. Bắt nó trả sợi dây. Lão không thể nhìn thấy những cú nhảy của con cá mà chỉ nghe thấy tiếng rách của đại dương và tiếng đập xuống nặng nề khi con cá rơi. Tốc độ của sợi dây đang cứa nát hai bàn tay lão nhưng do lường trước được chuyện này sẽ xảy ra nên lão đã cố giữ sợi dây lướt trên vùng chai sần, không để nó tuồn qua lòng bàn tay hay cứa đứt mấy ngón tay. Nếu thằng bé ở đây thì nó sẽ thấm ướt mấy cuộn dây, lão nghĩ. Đúng đấy. Nếu thằng bé ở đây. Nếu thằng bé ở đây. Sợi dây cứ tuồn, tuồn, tuồn ra mãi nhưng giờ thì nó chậm dần và lão chỉ để con cá nhích, nhích dần từng tí một. Lúc này lão đã ngẩng đầu lên khỏi tấm ván và miếng cá mà lão đã đập má vào. Lão quì gối rồi từ từ đứng lên. Lão đang tiếp tục nới thêm dây nhưng luôn giữ cho chậm hơn. Lão lần lại nơi lão có thể đưa chân sờ được cuộn dây mà mắt lão không nhìn thấy. Vẫn còn nhiều dây và bây giờ con cá phải đeo thêm cái gánh nặng của cả số dây vừa mới bị kéo chìm xuống nước.

Phải đấy, lão nghĩ. Đến giờ nó đã nhảy hơn mười hai lần và đã lùa đẩy không khí vào những chiếc túi dọc lưng nó; nó không thể lặn xuống sâu mà chết ở nơi mình không thể kéo lên. Chốc nữa nó sẽ bắt đầu lượn vòng và lúc ấy mình sẽ ra tay. Mình không rõ chuyện gì làm nó bất thình lình giật mình như vậy? Có phải cơn đói khiến nó liều mạng hay là đêm tối có cái gì làm nó sợ hãi? Có lẽ đột nhiên nó cảm thấy sợ. Nhưng nó là con cá điềm tĩnh, khỏe mạnh cực kỳ cơ mà, như thể nó chẳng biết sợ là gì và rất tự tin. Lạ thật.

“Tốt hơn là mày không được sợ và hãy tự tin”, lão nói.

“Mày đã kìm được nó nhưng chẳng thu về được tí dây nào. Chẳng mấy nữa con cá sẽ lượn vòng”. Bây giờ ông lão dùng tay trái và vai giữ con cá rồi cúi người đưa bàn tay phải vốc nước rửa chỗ cá dính trên mặt. Lão sợ mùi cá khiến lão buồn nôn và khi nôn thì lão mất sức. Khi mặt đã sạch, lão rửa bàn tay phải bên mạn thuyền rồi ngâm nó trong làn nước mặn trong lúc dõi theo tia nắng đầu tiên hắt lên từ phía mặt trời mọc. Con cá gần như bơi về hướng Đông, lão nghĩ. Đấy là dấu hiệu chứng tỏ nó đã thấm mệt, phải xuôi theo dòng nước. Chốc nữa nó sẽ phải lượn vòng. Khi ấy công việc của chúng ta mới thực sự bắt đầu. Sau khi nghĩ bàn tay phải đã ngâm lâu trong nước, lão nhấc lên quan sát.

“Cũng không đến nỗi tồi”, lão nói.

“Và nỗi đau nhức thì chẳng hề gì đối với một người đàn ông”. Lão thận trọng nắm sợi dây để nó không lọt xuống những đường vừa bị cứa và di chuyển người để bàn tay trái có thể nhúng xuống nước bên phía mạn thuyền kia.

“Kể ra mày cũng được việc đấy”, lão nói với bàn tay trái.

“Nhưng có lúc tao đã không tìm thấy mày”. Tại sao ta không được sinh ra với hai bàn tay khỏe? Lão nghĩ. Có lẽ đấy là lỗi của ta vì ta không chịu tập luyện đúng cách. Nhưng Chúa biết nó có đủ cơ hội để học hỏi. Dẫu sao tối qua nó cũng không đến nỗi quá tồi. Nếu nó lại bị chuột rút thì ta cứ để sợi dây cắt phăng nó đi. Khi nghĩ như thế, lão biết đầu lão không còn minh mẫn nữa và lão nghĩ nên ăn thêm ít thịt cá dorado. Nhưng mình không thể, lão tự nhủ. Thà rằng hơi váng đầu một chút còn hơn là bị xuống sức do nôn. Kể từ lúc mặt mình vùi vào đó, mình biết mình chẳng kiềm được nôn nếu mình ăn chỗ cá ấy. Mình sẽ để đấy đến lúc thật cần thiết dẫu cho nó có hỏng thì thôi. Bây giờ đã quá muộn để giữ gìn sức khỏe dẫu cho đấy có là chất bổ dưỡng gì đi nữa. Mày thật ngốc, lão tự mắng. n ngay con cá chuồn kia đi. Con cá nằm đó, sạch sẽ và sẵn sàng; lão đưa tay phải nhặt lên, nhai xương thật cẩn thận, ăn hết, từ đầu đến tận đuôi. Thịt cá chuồn nhiều đạm hơn nhiều loài cá khác, lão nghĩ. Chí ít thì cũng giúp mình phục hồi sức đến mức cần thiết. Giờ thì mình đã làm xong những việc có thể, lão nghĩ. Nó cứ lượn vòng đi và trận đấu hãy bắt đầu. Mặt trời đang mọc lên lần thứ ba kể từ lúc lão ra khơi thì con cá bắt đầu lượn vòng. Lão chưa thể nhìn độ nghiêng của sợi dây để biết con cá đang bơi tròn. Hãy còn quá sớm cho điều đó. Lão chỉ cảm nhận áp lực của sợi dây hơi chùng lại và dùng tay phải, lão nhẹ nhàng kéo vào. Sợi dây chững lại, như mọi khi, nhưng lão kéo đến điểm sắp đứt thì sợi dây bắt đầu thu vào. Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu từ từ kéo nhịp nhàng. Lão dùng cả hai tay, lắc người, dồn hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo. Đôi chân già nua và vai lão bắt nhịp với mỗi cử động qua lại của đôi tay.

“Vòng tròn rất lớn”, lão nói.

“Nhưng con cá đã quay tròn”. Rồi sợi dây không nhích thêm tí nào nữa, lão kéo cho tới lúc lão thấy trong ánh nắng, những giọt nước từ sợi dây bắn ra. Thế rồi sợi dây bị kéo xuống, ông lão quì gối để nó lao hút trở lại vào trong vùng nước tối.

“Bây giờ nó đang lượn đến chỗ xa nhất của vòng tròn rồi đấy”, lão nói. Mình phải dốc sức ra mà níu lại, lão nghĩ. Độ căng sẽ dần thu hẹp các vòng lượn. Có lẽ độ tiếng nữa mình sẽ nhìn thấy nó. Bây giờ mình phải khuất phục nó rồi sau đó mình phải giết nó. Nhưng con cá vẫn chậm rãi lượn vòng và hai giờ sau mồ hôi ướt đẫm người ông lão, lão mệt đến tận xương. Bây giờ vòng tròn đã hẹp hơn nhiều; nhìn độ chếch của sợi dây lão có thể biết con cá dần ngoi lên trong lúc bơi. ông lão thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, mồ hôi làm mắt lão cay xè, vết cắt trên trán và mắt lão ran rát. Lão không ngại chuyện hoa mắt. Chứng ấy bình thường khi cứ phải căng người ra mà kéo sợi dây. Nhưng đã hai lần lão cảm thấy chóng mặt và choáng váng; điều ấy khiến lão sợ.

“Ta không thể lả người chết vì một con cá như thế này được”, lão nói.

“Bây giờ là lúc ta đưa nó lên một cách thật hoàn hảo, Chúa giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể”. Cứ xem như mình đã hứa, lão nghĩ. Mình sẽ đọc sau vậy. Đúng lúc đó lão cảm thấy sợi dây nảy mạnh, đột ngột; lão dùng cả hai tay giữ. Sợi dây nặng nề, nghiến mạnh, bỏng rát. Lưỡi kiếm của con cá đang quật vào đoạn dây thép đáy, lão nghĩ. Chuyện ấy tất xảy ra. Nó phải làm như thế. Nhưng điều đó sẽ làm con cá nhảy lên, bây giờ mình muốn nó hãy lượn vòng đi thôi. Những cú nhảy cũng cần để nó chứa đầy không khí. Nhưng sau mỗi lần nhảy, chỗ lưỡi câu móc vào sẽ bị rộng hơn rồi nó có thể hất văng ra.

“Đừng nhảy, cá”, lão nói.

“Đừng nhảy”. Con cá quật sợi dây thêm vài lần nữa và cứ mỗi lần nó văng đầu, ông lão lại nới thêm chút dây. Mình phải giữ cho nó đừng đau quá, lão nghĩ. Nỗi đau của ta thì không thành vấn đề. Ta có thể chế ngự. Nhưng nỗi đau của con cá thì có thể khiến nó cuồng lên. Lát sau, con cá không quật dây đáy nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm. Bây giờ ông lão thong thả thu dây. Nhưng lão lại cảm thấy choáng váng. Lão đưa tay trái vốc ít nước biển vỗ lên đầu. Rồi lão tiếp tục vỗ thêm, xoa cả xuống gáy.

“Ta không để bị chuột rút”, lão nói.

“Chốc nữa nó sẽ ngoi lên và ta có thể cầm cự. Mày phải cầm cự. Chớ có nói lằng nhằng”. Lão tì gối vào mạn thuyền một lúc rồi lại quàng sợi dây lên lưng. Bây giờ mình sẽ nghỉ một lát trong lúc nó mải lượn vòng dưới kia rồi khi nó ngoi lên mình sẽ đứng dậy chiến đấu, lão quyết định. Được nghỉ ngơi ở đằng mũi thuyền, để mặc con cá bơi vòng mà không phải kéo dây thì quả thật là cám dỗ quá mức. Nhưng khi độ căng của sợi dây cho thấy con cá quay về phía thuyền, ông lão nhổm người dậy, xoay, lắc người dốc sức kéo sợi dây vào. Chưa bao giờ mình mệt như thế này, lão nghĩ, bây giờ gió mậu dịch đang nổi lên. Hướng gió thuận lợi để đưa con cá vào bờ. Mình rất cần thứ gió này.

“Lát nữa nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”, lão nói.

“Ta cảm thấy đỡ hơn nhiều. Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ giáp mặt với nó”. Chiếc mũ rơm của lão trật ra sau gáy, để ý sức kéo của sợi dây, khi cảm thấy con cá lượn lại, lão ngồi xuống mũi thuyền. Bây giờ mày cứ lượn đi, cá, lão nghĩ. Tao sẽ đợi khi mày quay lại. Biển dậy sóng. Nhưng gió ấy chỉ xuất hiện vào những lúc thời tiết tốt và lão cần nó để trở về đất liền.

“Ta chỉ việc lái theo hướng Tây Nam”, lão nói.

“Người ta không bao giờ lạc trên biển và xứ sở của mình lại là một hòn đảo dài”. Đến vòng thứ ba, lão thoáng thấy con cá. Thoạt tiên lão thấy một cái bóng đen trùi trũi vượt dài qua dưới con thuyền, đến mức lão không thể tin nổi độ dài của nó.

“Không”, lão nói.

“Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng đúng là con cá lớn như thế và đến cuối đường vòng, chỉ cách chừng hai lăm mét, nó trồi lên và lão nom thấy cái đuôi nhô lên khỏi mặt nước. Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tím sẫm trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to lớn bên sườn đang xòe rộng. Lần lượn này, ông lão có thể nhìn thấy mắt con cá và cả hai con cá chét xám bơi bên cạnh. Thỉnh thoảng hai con cá này rúc vào mình nó. Rồi có lúc chúng giạt ra. Chốc chốc chúng nhẹ nhàng bơi trong bóng của con cá lớn. Mỗi con dài cả thước và khi bơi nhanh, chúng vặn vẹo toàn thân như thể loài lươn. Bây giờ ông lão đang toát mồ hôi đầm đìa nhưng không phải vì mặt trời mà là vì một nguyên nhân khác.

Cứ mỗi vòng bơi bình lặng của con cá thì lão lại thu dây vào và lão chắc chỉ chừng hai vòng nữa thôi thì lão sẽ có cơ hội phóng lao vào nó. Nhưng mình phải để nó đến gần, gần, thật gần, lão nghĩ. Mình không cần nhằm vào đầu. Mình phải nhằm thẳng vào tim.

“Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”, lão nói. Vòng lượn tiếp theo, lưng con cá đã nhô lên nhưng hãy còn khá xa thuyền. Vòng tiếp theo đó, nó vẫn ở xa nhưng đã nhô mình lên cao hơn và ông lão tin chắc rằng nếu thu thêm dây thì con cá sẽ cặp sát thuyền. Lão đã chuẩn bị mũi lão trước đấy khá lâu; cuộn dây nhỏ của nó để trong cái xô tròn và một đầu dây đã được buộc vào cái mấu ở mũi thuyền. Bây giờ con cá lại tiếp tục lượn theo vòng tròn của nó, chỉ có cái đuôi đồ sộ cử động, trông điềm tĩnh và tuyệt đẹp. ông lão dốc hết sức ra kéo con cá vào gần hơn. Con cá khẽ nghiêng mình trong chốc lát. Rồi trở mình thẳng dậy và bắt đầu lượn thêm vòng nữa.

“Ta đã điều khiển nó”, ông lão nói.

“Ta đã điều khiển được nó rồi”. Lúc này lão thấy xây xẩm mặt mày nhưng vẫn gượng hết sức bình sinh ra mà kéo. Mình khuất phục được nó, lão nghĩ. Có lẽ lần này mình sẽ cho nó đi đứt. Kéo đi, tay ơi, lão thầm giục. Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ khử nó. Nhưng khi lão tập trung hết sức lực, chuẩn bị dốc kiệt ra trước khi con cá bơi song song với mạn thuyền thì con cá chao mình tránh ra, lật thẳng người lên bơi đi.

“Cá ơi”, ông lão nói.

“Cá này, dẫu sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?” Cứ cái đà này thì không ổn rồi, lão nghĩ. Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, nhưng lúc này lão không thể với lấy chai nước. Lần này mình phải kéo nó cặp mạn, lão nghĩ. Cứ thêm vài vòng nữa thì mình sẽ đuối sức. Không, mày khỏe, lão tự nhủ. Mày sẽ luôn khỏe.

Vòng lượn tiếp theo, lão gần như kìm được con cá. Nhưng lần nữa nó lại lách mình, từ từ bơi ra xa. Mày đang giết tao, cá à, ông lão nghĩ. Nhưng mày có quáền làm như thế. Tao chưa bao giờ thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai. Giờ thì đầu óc mày đang lú lẫn lên hết cả rồi, lão nghĩ. Mày phải giữ đầu óc tỉnh táo. Hãy giữ đầu óc tỉnh táo và biết cách chịu đựng như một con người. Hay như một con cá, lão nghĩ.

“Đầu ơi, hãy tỉnh táo”, lão nói bằng giọng mà bản thân hầu như không còn nghe nổi.

“Hãy tỉnh táo”. Con cá điềm nhiên lượn thêm hai vòng nữa. Mình không biết, ông lão nghĩ. Lão có cảm giác như lão có thể đổ sụp xuống bất cứ lúc nào. Mình không biết. Nhưng mình sẽ cố thêm lần nữa. Lão cố thêm lần nữa và khi kìm con cá, lão tưởng như mình đang ngất đi. Con cá lại giãy ra, chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Mình sẽ lại cố thêm, ông lão hứa mặc dù hai tay lão đã rã rời và mắt lão không thể nhìn rõ vì hoa quá. Lão lại cố và mọi chuyện vẫn như cũ. Thế đấy, lão nghĩ và lão cảm thấy xây xẩm cả mặt mày trước lúc bắt đầu. Mình sẽ lại cố thêm một lần nữa. Cố nén cơn đau, dồn hết tàn lực, dốc hết lòng kiêu hãnh còn lại lão mang ra đương đầu với nỗi đớn đau vô bờ của con cá; con cá tiến gần mạn thuyền, từ từ bơi nghiêng, mõm nó gần như chạm vào ván thuyền và sắp sửa vượt qua, dài, sâu, rộng, ánh bạc, vằn tím sẫm và bất tận trong dòng nước. ông lão buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ rồi nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh, cộng thêm sức lực lão vừa huy động trong người, phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão. Cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì người lên ấn sâu xuống rồi dồn hết trọng lực lên cán lao. Con cá sực tỉnh; mang cái chết trong mình, nó phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền.

Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền. ông lão cảm thấy choáng váng, đau đớn; lão không thể nhìn rõ. Nhưng lão vẫn kịp đón sợi dây của ngọn lao rồi để nó từ từ chạy qua đôi tay xây xát, và khi đã nhìn rõ, lão thấy con cá nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời. Cán lao nhô ra từ cái hốc sau vây cá, còn biển thì đang đổi màu bởi máu đỏ loang ra từ tim cá. Thoạt tiên, làn máu đen sẫm trông như bãi cát ngầm trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước. Rồi nó lan rộng nom tựa đám mây. Con cá trắng bạc, thẳng đơ, bồng bềnh trên sóng. ông lão thận trọng quan sát khi thị lực còn tỏ. Rồi lão quấn sợi dây mũi lao hai vòng quanh cái mấu ở đầu thuyền và gục đầu vào lòng bàn tay.

“Hãy giữ đầu óc tỉnh táo”, lão nói khi tựa vào mạn thuyền.

“Ta là lão già mệt mỏi. Nhưng ta đã giết con cá này, người anh em ta, và bây giờ ta phải làm cái việc nhọc nhằn”. Lúc này mình phải chuẩn bị dây và thòng lọng để buộc con cá vào mạn thuyền, lão nghĩ. Dẫu cho mình có hai người để nghiêng thuyền kéo nó lên rồi tát nước ra thì chiếc thuyền này cũng không thể chứa nổi nó. Mình phải chuẩn bị mọi thứ, kéo nó vào buộc chặt rồi dựng cột, giong buồm trở về. Lão kéo con cá cặp sát thuyền để có thể luồn sợi dây qua mang, ra mõm rồi buộc nó vào mũi thuyền. Mình muốn ngắm nó, lão nghĩ, muốn chạm và sờ vào mình nó. Con cá là vận may của ta, lão nghĩ. Nhưng đấy không phải là lý do để ta muốn sờ nó. Ta chắc ta đã sờ trúng tim, lão nghĩ. Khi ta ấn cái cán lao lần thứ hai. Bây giờ phải kéo nó vào, buộc chặt; tròng một chiếc thòng lọng vào giữa thân và một chiếc nữa vào đuôi để buộc nó vào thuyền.

“Làm ngay đi, lão già ơi”, lão nói. Lão hớp một ngụm nước rất nhỏ.

“Bây giờ khi trận đấu đã kết thúc, vẫn phải làm một công việc hết sức nhọc nhằn”. Lão ngước nhìn bầu trời rồi cúi nhìn con cá. Lão chăm chú quan sát mặt trời. Chỉ vừa xế trưa thôi, lão nghĩ. Và gió mậu dịch đang thổi. Cả đám dây câu ấy bây giờ không quan trọng. thằng bé sẽ cùng mình nối lại khi về đến nhà.

“Đến đây, cá”, lão nói. Nhưng con cá không nhúc nhích. Thay vào đó, lúc này nó nằm dầm mình trong nắng và ông lão phải lôi con thuyền lại chỗ nó. Khi đến bên con cá và kéo đầu nó tì sát mũi thuyền, lão không thể nào tin được kích thước của nó. Lão tháo sợi dây ở cán lao ra khỏi cái mấu, luồn nó qua mang cá ra miệng, quấn một vòng quanh cái kiếm rồi lại đút sợi dây qua miệng ra mang kia, quấn một vòng quanh miệng cá, gút hai mối dây lại rồi cột vào cái mấu đằng mũi thuyền. Sau đó lão cắt sợi dây mang ra sau lái buộc thòng lọng vào đuôi cá. Da cá chuyển từ màu gốc, tím sẫm ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc cũng có cùng màu tím nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng, còn mắt nó trông đờ đẫn như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như mắt một vị Thánh trong đám rước.

“Đấy là cách duy nhất để giết nó”, ông lão nói. Kể từ lúc uống nước, lão cảm thấy khỏe hơn và biết lão sẽ không bị ngất, đầu óc lão tỉnh táo. Với cái lối này thì con cá chắc phải nặng hơn nửa tấn, lão nghĩ. Có lẽ còn hơn cả thế. Nếu chỉ tính hai phần ba số lượng thịt từ trọng lượng ấy với giá ba mươi cent một pound thì sẽ được bao nhiêu?

“Ta cần một cái bút chì để tính”, lão nói.

“Đầu ta không thạo tính toán. Nhưng ta nghĩ Di Maggio vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay. Ta không mắc chứng nẻ cựa gà. Nhưng đôi tay và lưng thì thực sự nhức nhối”. Mình chẳng hay chứng nẻ cựa gà là gì, lão nghĩ. Không chừng mình đã mắc chứng ấy mà không biết. Lão buộc chặt con cá vào mũi, đuôi thuyền và cả vào cái gióng ngang giữa thuyền. Con cá lớn đến nỗi trông như thể ông lão buộc một con thuyền khác lớn hơn nhiều vào thuyền mình. Lão cắt một mẩu dây mang đến buộc chặt cái hàm dưới của con cá vào miệng để miệng nó không há ra, để con thuyền lướt đi càng êm càng tốt. Rồi lão dựng cột, căng buồm với thanh đỡ là cái sào móc ở bên trên và cây sào dài giữ ở bên dưới; cánh buồm vá căng phồng, con thuyền bắt đầu lướt đi; tựa ngả người lên đuôi thuyền, lão lái về hướng Tây Nam. Lão không cần địa bàn để biết hướng Tây Nam. Lão chỉ cần nương theo hướng gió mậu dịch và chiều xoay trở của cánh buồm. Tốt hơn là mình nên buông một cái vó buộc vào sợi dây nhỏ để kiếm cái gì đó bỏ bụng và làm dịu cơn khát. Nhưng lão chẳng tìm thấy nó, còn mấy con cá mòi thì đã ươn ình. Vậy nên lão dùng cái móc khua một đám rong vàng vùng Nhiệt Lưu lên thuyền khi đám rong đó trôi qua và rũ bắt những con tôm nhỏ rơi xuống lòng thuyền. Chừng hơn mười con và chúng nhảy búng chân như loài bọ chét trên cát. ông lão dùng ngón cái và ngón trỏ rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi. Mấy con tôm rất bé nhưng lão biết chúng giàu chất dinh dưỡng, vả lại mùi vị của chúng thật dễ chịu. ông lão vẫn còn trong chai độ hai ngụm nước và sau khi ăn xong chỗ tôm ấy, lão uống hết một nửa. Con thuyền vẫn lướt êm bất chấp vật cản kia; ông lão cặp tay lái vào nách, lái thuyền đi. Lão có thể nhìn thấy con cá, và chỉ khi nhìn đôi tay và cảm nhận cái mạn thuyền dưới lưng, lão biết việc này đã thực sự xảy ra chứ đâu phải trong mơ. Đã có lúc khi cuộc đấu sắp kết thúc, người lão rệu rã đến nỗi lão nghĩ chuyện con cá hẳn là trong mơ. Rồi khi lão thấy con cá tung mình lên khỏi mặt nước, lơ lửng bất động trong không trung trước lúc rơi xuống thì lão chắc chắn là có điều gì đó thực sự quái đản và lão không thể nào tin nổi. Khi ấy lão không thể nhìn rõ, nhưng bây giờ mắt lão lại tỏ như thường.

Bây giờ lão biết con cá, đôi bàn tay và lưng lão đâu phải là mơ. Ta sẽ chóng lành, lão nghĩ. Mình đã rửa sạch máu và nước biển sẽ làm chúng bình phục. Dòng nước tối sẫm của chính vùng Nhiệt Lưu là phương thuốc làm nhanh lành da tay kì diệu nhất. Những gì phải làm bây giờ là giữ cho đầu óc tỉnh táo. Đôi tay đang làm bổn phận của chúng, chúng ta đi nhanh. Với cái miệng bị buộc chặt, cái đuôi dựng thẳng dứng, nhấp nhô, con cá và mình lướt đi như thể hai anh em. Rồi đầu óc lão bắt đầu hơi lẫn lộn, lão nghĩ, nó đang đưa ta vào bờ hay ta đang đưa nó? Nếu ta đang kéo nó phía sau thì chẳng cần phải thắc mắc gì nữa. Nếu con cá ở trên thuyền và dáng vẻ hiên ngang của nó tiêu tan hết thì cũng chẳng cần phải thắc mắc gì nữa. Nhưng cả con cá lẫn ông lão lại đang cặp kè lướt đi nên lão nghĩ, cứ để nó đưa ta vào bờ nếu việc đó làm hài lòng nó. Ta chỉ thạo hơn nó ở mỗi cái trò mánh lới; còn nó thì đâu có làm hại ta chút mảy may. Thuyền đi nhanh, ông lão nhúng hai bàn tay xuống nước mặn và cố giữ đầu óc tỉnh táo. Nhìn những đám mây tầng vươn cao và những dải mây tơ bên trên, ông lão biết gió nhẹ sẽ còn thổi suốt đêm. ông lão thường xuyên nhìn con cá để chắc chắn là nó có thực. Đấy là giờ đồng hồ đầu tiên trước khi con cá mập tấn công. Con cá mập này không phải là tình cờ. Nó ngoi lên từ phía biển sâu khi đám mây máu đen sẫm được hình thành rồi lan nhanh xuống vùng nước sâu hơn ngàn thước. Nó bơi lên rất nhanh và hoàn toàn bất cẩn đến mức đã xé tung mặt nước xanh thẳm, nhao mình trong ánh nắng. Thoáng chốc, nó rơi tõm xuống biển, bắt mùi bơi theo chiếc thuyền và con cá. Thỉnh thoảng nó bị lạc đường. Nhưng nó lập tức bắt lại mùi, hay một dấu hiệu gì đó, rồi cật lực bơi nhanh về hướng ấy. Nó là loài cá mập Mako cực lớn, cơ thể được cấu trúc để bơi nhanh như bất kì loài cá nào bơi nhanh nhất trên đại dương; mọi thứ trên người nó đều đẹp chỉ trừ bộ hàm. Lưng nó cũng xanh như lưng loài cá kiếm, bụng nó ánh bạc, da đẹp và bóng mượt. Thân hình nó nom tựa một con cá kiếm, trừ bộ hàm đồ sộ lúc này đang ngậm chặt khi lao nhanh mấp mé mặt nước, chiếc vi cao ngồng trên lưng sừng sững cắt đôi mặt biển. Bên trong cặp môi đôi mím chặt của bộ hàm, tám hàng răng nghiêng chếch vào trong. Chúng không phải là những chiếc răng bình thường có hình kim tự tháp như răng của những loài cá mập khác. Hình dạng chúng như ngón tay của con người quắp lại khi bị chuột rút. Chúng dài gần bằng ngón tay ông lão và sắc bén cả hai mặt. Đây là giống cá được cấu tạo để ăn thịt tất cả các loài cá khác ở đại dương, chúng nhanh nhẹn, khỏe mạnh và được trang bị lợi hại đến mức chúng chẳng còn có bất kỳ đối thủ nào nữa. Bây giờ khi bắt được mùi rõ hơn, con cá tăng tốc, cái vi xanh vùn vụt cắt mặt nước. Khi nhìn thấy nó lao đến, lão biết đấy là con cá mập không hề biết sợ hãi và sẽ thực hiện đúng những gì nó muốn. Trong lúc quan sát con cá mập tiến đến, lão chuẩn bị cây lao và buộc dây vào. Sợi dây ngắn bởi vì lão đã cắt bớt để buộc con cá. Bây giờ, đầu óc lão tỉnh táo, bình thản; lão có nhiều quyết tâm nhưng lại ít hi vọng. Cái quá tốt đẹp thì chẳng bền, lão nghĩ. Khi theo dõi con cá mập đang đến gần, lão liếc nhìn con cá kiếm khổng lồ. Cứ như thể là giấc chiêm bao ấy, lão nghĩ. Mình không thể ngăn nó đừng tấn công nhưng có lẽ mình sẽ giết được nó. Dentuso, lão nghĩ. Mẹ mày. Con cá mập áp nhanh mạn thuyền và khi nó đớp con cá, ông lão trông thấy cái mồm rộng, đôi mắt kì lạ và hàm răng bổ đánh cách một tiếng khi nó cắm phập vào chỗ thịt phía trên đuôi.

Đầu con cá mập nhô khỏi mặt nước, lưng nó cũng đang bềnh lên và ông lão có thể nghe thấy tiếng da thịt từ con cá lớn bị rứt đứt khi lão cắm phập mũi lao xuống đầu con cá mập, ngay điểm giao nhau giữa những đường kẻ ngang mắt và đường chạy thẳng từ mũi nó vắt ra sau. Chẳng có những đường như vậy đâu. Chỉ có cái đầu xanh nhẫy, nặng nề, đôi mắt lớn, tiếng răng nghiến xuống, và tiếng kéo nuốt. Nhưng đấy là vị trí của não và ông lão đã đâm trúng. Lão đâm bằng cả hai bàn tay tứa máu, dốc hết sức lực ấn sâu mũi lao xuống. Lão đâm không bằng hi vọng mà bằng quyết tâm và cả lòng căm hận. Con cá trằn mình ra, ông lão thấy nó dại đi và khi lật người sang phía kia, con cá tự quấn sợi dây quanh mình hai vòng. ông lão biết con cá đã chết nhưng nó không thừa nhận điều đó. Lát sau, nằm phơi bụng lên trời, đuôi quật mạnh, hai hàm răng đớp cạch cạch, con cá mập cằn đi trên mặt nước như chiếc thuyền đua. Chỗ đuôi nó quật xuống, nước tung trắng xóa, ba phần tư người nó nhô khỏi mặt nước khi sợi dây bị kéo căng, rung rung rồi bật đứt. Con cá mập nằm im một lúc trên mặt nước; ông lão ngắm nó. Rồi nó lặn xuống, rất chậm.

“Nó đớp khoảng hai mươi cân rồi”, ông lão nói lớn. Nó cũng đoạt luôn mũi lao và cả dây nữa, lão nghĩ, còn bây giờ, con cá của mình lại chảy máu rồi những con khác sẽ kéo đến. Lão chẳng còn muốn nhìn con cá thêm chút nào nữa kể từ lúc nó bị đớp tosc cả thịt da. Lúc con cá bị cắn thì như thể chính bản thân lão cũng đang bị cắn. Nhưng ta đã giết con cá mập cắn con cá của ta, lão nghĩ. Nó là con dentuso lớn nhất mà ta đã từng thấy. Chúa chứng giám rằng ta đã thấy nhiều con cá lớn. Cái quá tốt đẹp thì khó bền, lão nghĩ. Bây giờ mình ước giá mà chuyện này chỉ như là một giấc mơ và mình chưa hề câu được con cá và hãy còn nằm ngủ một mình trên lớp giấy báo lót giường. Nhưng con người sinh ra không phải để thất bại”, lão nói.

“Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị khuất phục”. Dẫu sao thì mình cũng lấy làm ân hận vì đã giết chết con cá, lão nghĩ. Bây giờ sắp đến lúc vất vả và mình thì lại không có lấy một mũi lao. Con dentuso đấy độc ác, nham hiểm, khỏe mạnh và liều lĩnh. Nhưng mình thì lại khôn ngoan hơn nó bội phần. Có lẽ không, lão nghĩ. Có lẽ mình chỉ giỏi giang khi còn vũ khí.

“Đừng nghĩ nữa, lão già ạ”, ông lão nói lớn.

“Cứ giong buồm theo hướng này và hãy sẵn sàng đối đầu khi sự việc xảy đến”. Nhưng mình phải tư duy, lão nghĩ. Bởi vì đấy là tất cả những gì mình còn lại. Tư duy và bóng chày. Mình không chắc Di Maggio vĩ đại có thích cái cách mình đâm mũi lao vào não con cá không? Việc ấy chẳng to tát gì, lão nghĩ. Ai cũng có thể làm được. Nhưng anh ta có nghĩ đôi tay ta cũng can đảm trong lúc bị thương như chứng nẻ cựa gà kia không? Ta không thể biết. Gót chân ta chưa bao giờ mắc bệnh gì cả chỉ trừ hồi con cá nhám cựa châm nọc vào khi bị ta đạp phải lúc đang bơi; nọc độc làm tê liệt cả phần chân dưới và nhức nhối không tài nào chịu nổi.

“Nghĩ về chuyện gì vui vui đi, lão già ơi”, lão nói.

“Lúc này cứ mỗi phút thì mày lại gần đến nhà hơn. Mất đi hai mươi cân cá thì mày lướt nhẹ hơn”. Khi vào đến giữa dòng nước thì lão biết rõ chuyện gì có thể xảy ra. Nhưng lúc này thì chẳng thể làm được gì nữa.

“ừ, phải đấy”, lão nói lớn.

“Ta có thể buộc lưỡi dao vào đầu một mái chèo”. Cặp tay lái vào nách, chận chân lên dây lèo buồm lão làm ngay điều đó.

“Bây giờ”, lão nói,

“ta vẫn là một lão già. Nhưng ta đã có vũ khí”. Lúc này gió mát rượi, lão lướt nhanh. Lão chỉ nhìn phần phía trước của con cá và hi vọng lại lóe lên. Có mà ngốc mới không hi vọng, lão nghĩ. Thêm nữa, mình tin chắc đấy là tội lỗi. Đừng nghĩ về tội lỗi nữa, lão nghĩ. Bây giờ, trừ cái chuyện tội lỗi ra thì cũng đã có quá đủ rắc rối rồi. Vả chăng mình đâu có hiểu gì về nó. Mình đâu có hiểu gì về nó và mình cũng không chắc là mình tin có tội lỗi. Có lẽ giết con cá là tội lỗi. Mình cứ cho là thế mặc dù mình làm điều đó để nuôi sống mình và nhiều người khác. Nhưng nếu thế thì mọi việc đều là tội lỗi hết. Đừng nghĩ về tội lỗi nữa. Đã quá muộn để ân hận và đã có nhiều người được trả lương để làm việc đó. Cứ để họ nghĩ về điều đó. Mày được sinh ra để làm ngư dân như con cá kia được sinh ra để làm cá. San Pedro là dân chài lưới, cha của Di Maggio vĩ đại cũng vậy. Bởi vì không có gì để đọc và chẳng có radio nên lão cứ nghĩ về mọi thứ có liên quan đến lão, lão nghĩ lan man và cứ tiếp tục nghĩ về tội lỗi. Mày giết con cá không chỉ để giữ mạng sống và để đổi lương thực, lão nghĩ. Mày còn giết nó vì lòng kiêu hãnh và vì mày là người đánh cá. Mày yêu nó khi nó còn sống và mày cũng yêu nó sau đó. Nếu mày yêu con cá thì chẳng có tội lỗi gì khi giết nó. Còn gì nữa không?

“Mày nghĩ quá nhiều, lão già ạ”, lão nói lớn. Nhưng mày hả dạ khi giết con dentuso, lão nghĩ. Nó sống bằng những con cá sống như mày. Nó không phải là loài vật tìm thịt thối để ăn và cũng không phải là cái dạ dày biết bơi như lũ cá mập kia. Nó đẹp đẽ, cao thượng và chẳng sợ bất cứ thứ gì.

“Ta giết nó chỉ để tự vệ”, ông lão nói lớn.

“Và ta đã giết được nó”.

Ngoài ra, lão nghĩ, bằng cách này hay cách khác thì vạn vật cũng sát hại lẫn nhau. Nghề câu cá hại ta y hệt như đã nuôi sống ta vậy. Thằng bé giúp ta sống, lão nghĩ. Ta chớ tự lừa dối mình quá nhiều. Lão cúi người qua mạn rứt mẩu thịt cá chỗ con cá mập ngoạm dứt. Lão nhai và cảm nhận chất cá và mùi vị dễ chịu của nó. Thịt con cá săn, nhiều nước như chất thịt súc vật, nhưng không đỏ bằng. Thịt con cá không dai, lão biết loại thịt này sẽ được giá cao nhất trên thị trường. Nhưng chẳng có cách nào ngăn không cho mùi cá tỏa trong đại dương và lão biết rằng giai đoạn rất cam go đang đến gần. Gió vẫn thổi đều. Hướng gió hơi chuyển sang Đông Bắc và lão biết điều đó có nghĩa là gió sẽ không tắt. Nhìn thẳng phía trước, lão chẳng hề thấy một lá buồm, một bóng thuyền hay một làn khói tàu nào cả. Chỉ có đàn cá chuồn phóng lên từ dưới mũi thuyền, bay giạt sang phía kia và những vệt rong vàng của vùng Nhiệt Lưu. Thậm chí lão không còn thấy bóng dáng của một con chim nào nữa. Trong suốt hai tiếng đồng hồ, lão lái thuyền đi và sau khi tựa người sau lái, thỉnh thoảng nhai một mẩu thịt cá kiếm, cố nghỉ ngơi để phục hồi sức thì lão nom thấy con đầu tiên trong hai con cá mập.

“Ay”, lão thốt lớn. Không thể nào diễn nghĩa được từ này và có lẽ nó chỉ là thứ âm thanh vô tình thốt lên khi một người cảm thấy cái đinh xuyên qua tay mình ghim vào gỗ.

“Galanos”, lão nói lớn. Bây giờ lão mới trông thấy chiếc vây thứ hai bám sau con thứ nhất; nhìn chiếc vây hình tam giác màu nâu và cách thức quẫy đuôi, lão nhận dạng đó là loài cá-mập-mũi-xẻng. Chúng bắt được mùi, háo hức và trong cơn điên cuồng do bị cái đói thôi thúc, chúng lạc lối rồi lại huyên náo khi định hướng mùi vị. Nhưng mỗi lúc chúng lại đến gần hơn. ông lão buộc chặt dây lèo buồm, nêm kỹ bánh lái. Rồi lão cầm mái chèo đã buộc sẵn lưỡi dao. Lão ráng nâng lên từ từ bởi hai bàn tay lão đang nhức nhối. Rồi lão cứ khẽ buông, nắm mái chèo để đôi tay quen dần. Lúc này lão nắm chặt để chúng quen với cơn đau; không nao núng, lão nhìn hai con cá mập đang đến. Giờ thì lão có thể nhìn thấy mấy cái đầu dẹt, phẳng, nhọn như hai mũi xẻng và những chiếc ông vi bên sườn rộng, viền chóp trắng của chúng. Những con cá mập đáng ghét, thối tha, những kẻ săn tìm thịt chết và cũng là những kẻ giết thịt; khi đói chúng đớp cả mái chèo hay cả bánh lái của con thuyền. Loài cá mập này có thể cắt đứt phăng chân và chân chèo của loài rùa khi chúng ngủ lơ mơ trên mặt nước; nếu đói thì chúng tấn công cả con người dưới nước dẫu cho người ấy không có mùi máu cá hay chút nhớt cá nào trên mình.

“Ay”, ông lão gọi.

“Galanos! Hãy đến đây galanos”. Chúng đến nhưng lại không theo kiểu của con Mako. Một con lắc mình, lặn khuất dưới thân thuyền; lão có thể nhận thấy chiếc thuyền rung lên khi nó đớp và rứt thịt con cá. Còn con kia giương đôi mắt vàng ti hí nhìn lão rồi há rộng cái mõm như nửa vòng tròn của nó, bất thình lình xáp vào đớp con cá ngay nơi đã bị đớp. Đường nhăn hằn rõ trên đỉnh đầu nâu xám vắt ngược ra sau nơi não của con cá mập nối với xương sống, ông lão cắm mũi dao đầu mái chèo vào chỗ ấy, rút ra đâm vào đôi mắt vàng như mắt mèo của nó. Con cá mập buông mồi, chìm xuống, nuốt vội chỗ thịt đã ngoạm được trong cơn hấp hối. Chiếc thuyền vẫn cứ chao đảo bởi sức tàn phá của con cá mập còn lại vào con cá; ông lão buông chùng dây lèo buồm để con thuyền lạng sang bên làm con cá mập phải hiện ra. Khi nhìn thấy, lão cúi người qua mạn phóng mũi dao vào nó. Lão mới chỉ chạm vào phần thịt bởi da cá mập rất cứng và lão khó có thể thọc sâu lưỡi dao xuống. Cú đâm dội lại không chỉ làm buốt đôi tay mà còn làm đau cả vai lão nữa. Nhưng con cá mập lại trồi nhanh đầu lên, ông lão đâm thẳng xuống đỉnh đầu bẹt khi mũi nó nhô khỏi mặt nước, áp chặt vào con cá. ông lão rút dao ra rồi đâm trở lại ngay chính chỗ ấy. Nó vẫn bám chặt con cá bởi bộ hàm đã ngoạm vào, ông lão đâm vào mắt trái. Con cá mập vẫn cứ đeo cứng.

“Không hả”?”, ông lão nói rồi phóng dao đâm vào giữa điểm nối xương sống và não. Lúc này, cú đâm đã dễ dàng, lão cảm thấy chỗ xương sụn vỡ tan. ông lão rút mái chèo lách lưỡi dao vào giữa hàm con cá mập, cạy mở. Lão xoYy lưỡi dao và khi con cá mập buông ra Lão nói.

“Cút đi galanos. Cứ chìm sâu cả ngàn thước. Đi mà gặp bạn mày, hay gặp con mẹ mày ấy”. ông lão chùi lưỡi dao rồi đặt cây chèo nằm xuống. Lão tìm dây lèo buồm, cánh buồm no gió, lão đưa con thuyền vào bờ.

“Bọn chúng đã xơi hết một phần tư con cá, mà lại vào chỗ thịt ngon nhất nữa cơ chứ”, lão nói lớn.

“Giá mà đây chỉ là giấc mộng và ta chưa hề câu được nó. Ta lấy làm tiếc về điều đó, cá à. Nó khiến mọi chuyện hỏng bét cả rồi”. Lão ngừng lại và bây giờ không muốn nhìn con cá nữa. Kiệt máu và bềnh bồng trên sóng, trông con cá có màu bạc xỉn của lớp thủy tráng gương nhưng những cái sọc của nó vẫn rõ nét.

“Lẽ ra ta đừng nên đi quá xa, cá à”, lão nói.

“Không nên đối với mày và cả đối với ta. Ta lấy làm tiếc, cá à”. Nào, lão tự nhủ. Hãy nhìn sợi dây buộc dao xem nó có bị đứt không. Rồi chuẩn bị sẵn sàng bởi vì những con khác sẽ đến.

“Giá mà mình có hòn đá mài dao”, lão nói sau lúc kiểm tra xong sợi dây buộc lưỡi dao vào mái chèo.

“Lẽ ra mình nên mang theo hòn đá ấy”. Lẽ ra mày phải mang theo nhiều thứ, lão nghĩ. Nhưng mày đã không mang, lão già ơi. Giờ thì không phải lúc nghĩ về những thứ mày mang hay không mang. Hãy nghĩ về những việc mày có thể xoay xở với những dụng cụ có sẵn ở đây.

“Mày răn bảo tao quá nhiều lời hay hớm rồi đấy”, lão nói lớn.

“Tao mệt mỏi lắm rồi”. Lão cặp tay lái vào nách và nhúng cả hai bàn tay xuống nước khi con thuyền lướt về phía trước.

“Lạy Chúa, cái con cuối cùng ấy đớp mới nhiều làm sao”, lão nói.

“Nhưng bây giờ con thuyền đã nhẹ hơn nhiều”. Lão không muốn nghĩ đến cái bụng dưới rách nát của con cá. Lão biết mỗi cú giật rung của con cá mập thì một mảng thịt bị rứt đi và bây giờ con cá lại để lại một vệt máu loang rộng, trải dài như con đường cao tốc trên đại dương cho họ hàng lũ lĩ nhà cá mập kia. Con cá này có thể nuôi sống một người suốt cả mùa đông, lão nghĩ. Đừng nghĩ về điều đó nữa. Hãy nghỉ ngơi và xoa dịu đôi tay để bảo vệ chỗ thịt cá còn lại. Bây giờ với tất cả khối mùi vị ấy trong nước, mùi máu từ đôi tay mình sẽ chẳng nghĩa lý gì cả. Vả lại chúng không chảy nhiều máu. Bất kì vết cắt nào cũng đâu phải hoàn toàn vô giá trị. Không chừng, chỗ máu chảy kia sẽ ngăn bàn tay trái khỏi chứng chuột rút. Bây giờ mình có thể nghĩ về cái gì nhỉ? Lão nghĩ. Chẳng gì cả. Mình phải không suy nghĩ và chờ đợi những con sắp đến. Giá mà chuyện này chỉ là giấc mơ thật, lão nghĩ. Nhưng ai biết được? Không chừng nó lại hóa ra tốt lành. Con cá mập tiếp theo đi một mình, thuộc loài mũi

-xẻng. Nó lao tới như con lợn xông vào máng ăn nếu con lợn ấy có cái mõm rộng đủ để bạn đút lọt đầu mình vào. ông lão chờ nó đớp con cá rồi phóng mũi dao đầu mái chèo vào não nó. Con cá mập trằn mạnh người ra sau, lúc nó lăn tròn lưỡi dao gãy. ông lão cầm lấy tay lái. Thậm chí lão cũng chẳng buồn nhìn con cá mập đồ sộ từ từ chìm xuống nước, lúc đầu còn giữ nguyên kích cỡ, rồi nhỏ dần chỉ còn một chấm nhỏ. Cảnh ấy luôn hấp dẫn lão. Nhưng bây giờ lão cũng chẳng buồn liếc mắt nhìn.

“Bây giờ ta còn cây sào móc”, lão nói.

“Nhưng cây sào ấy chẳng giúp ích gì nhiều. Ta cũng còn hai mái chèo, tay lái và cái chày ngắn”. Giờ thì chúng thắng ta rồi, lão nghĩ. Còn ta thì đã quá già để có thể vung chày đập chết lũ cá mập kia. Nhưng ta sẽ cố cầm cự nếu trong tay còn hai mái chèo, cái chày ngắn và tay lái. Lão lại nhúng tay xuống biển. Chiều đang xế, lão chẳng nhìn thấy gì cả ngoài mặt biển và bầu trời. Gió thổi mạnh hơn lúc trước, và lão hi vọng chẳng mấy chốc lão sẽ về đến đất liền.

“Mày đã rã rời, lão già kia”, lão nói.

“Mày rã rời đến tận xương tủy”. Lũ cá mập không tiếp tục tấn công mãi cho đến ngay trước khi mặt trời lặn. ông lão nhìn thấy mấy chiếc vi xám lao theo vệt hơi rộng mà con cá kiếm hẳn đã để lại trong nước. Chúng thậm chí không thèm tản ra đánh hơi. Cùng sánh đôi, chúng bơi thẳng đến con thuyền. Lão chèn tay lái, buộc chặt dây lèo buồm rồi đưa tay xuống đuôi thuyền tìm cái chày. Đấy là khúc cán được cưa từ mái chèo gãy, dài chừng tám tấc. Lão chỉ có thể sử dụng nó hiệu quả bằng một tay bởi chỗ tay nắm của nó chỉ vừa vặn với một bàn tay; tay phải lão đã nắm chắc cái chày trong lúc lão nhìn lũ cá mập xông đến. Cả hai con thuộc loài galanos. Mình phải để con đầu tiên ngoặm chặt rồi mới nện nó vào ngay giữa mũi hay giã thẳng vào đỉnh đầu, lão nghĩ. Hai con cá mập cùng tiến sát và khi thấy con gần lão há mồm cắn phập vào bên lườn ánh bạc của con cá thì lão nâng cao cái chày, dốc sức bình sinh giáng ngay xuống đỉnh đầu rộng của con cá mập. Khi chạm xuống, lão cảm thấy cái chày chùng lại như chạm phải lớp cao su rắn. Nhưng lão cũng cảm nhận được độ cứng của xương rồi lão giáng thêm một đòn cật lực vào chóp mũi của con cá mập khi nó trượt khỏi con cá. Con cá mập kia cứ nhào vào táp rồi lùi ra, bây giờ nó lại ngoác to mồm xông vào. ông lão có thể nhìn thấy những dải thịt cá kéo thành vệt trắng trong khóe hàm con cá mập khi nó lao vào con cá kiếm và khớp mõm xuống. Lão chồm người bổ một đòn nhưng chỉ trúng vào đầu nó, con cá mập nhìn lão rồi bứt nốt chỗ thịt đã bị cắn rời ra. ông lão lại vung chày giã xuống khi nó lảng ra nuốt, cái chày chỉ đánh trúng lớp thịt dày, chắc như cao su.

“Nhào vô đi, GALANOS”, ông lão nói.

“Hãy lại nhào vô xem”. Con cá mập xốc thẳng tới và khi nó vập hàm xuống, lão giáng cho nó một chày. Lão giáng cật lực từ độ cao mà lão có thể nâng cái chày hết cỡ. Lần này lão cảm nhận được lớp xương sọ, rồi lão lại quật tiếp vào ngay chỗ ấy trong lúc con cá mập lờ đờ kéo đứt miếng thịt chìm xuống. ông lão chờ nó lại xông đến nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Rồi lão thấy một con đang lượn vòng trên mặt nước. Lão không thấy vi của con kia. Mình không hi vọng giết được chúng, lão nghĩ. Như mình có thể làm thuở còn trai trẻ. Nhưng mình đã đánh chúng bị thương nặng và cả hai con cá mập ấy đều đã choáng váng. Nếu mình có thể cầm cái chày bằng cả hai tay thì chắc mình đã hạ gục con đầu tiên rồi. Thậm chí ngay cả bây giờ, lão nghĩ. Lão chẳng muốn nhìn con cá. Lão biết nó đã bị hủy hoại mất một nửa. Mặt trời đã lặn trong lúc lão đang kịch chiến với hai con cá mập.

“Chốc nữa trời sẽ tối”, lão nói.

“Rồi mình sẽ nhìn thấy ánh đèn Havana. Nếu mình đi quá xa về hướng Đông thì mình cũng thấy ánh đèn của một trong những bãi biển mới”. Bây giờ mình không còn xa quá nữa, lão nghĩ. Mình hy vọng không có ai phải lo lắng nhiều. Dĩ nhiên chỉ có mỗi thằng bé lo mà thôi. Nhưng mình chắc nó vẫn tin tưởng. Nhiều bạn chài luống tuổi cũng sẽ lo lắng. Nhiều người khác cũng vậy, lão nghĩ. Mình sống trong một thành phố nghĩa tình. Lão không thể nói chuyện với con cá được nữa bởi lẽ nó đã bị xâu xé nát tươm cả rồi. Lát sau đầu lão chợt nảy ra ý tưởng.

“Nửa con cá kia ơi”, lão nói.

“Cá à, trước khi mày là thế đấy. Ta ân hận vì đã đi quá xa. Ta đã hủy hoại cả hai chúng mình. Nhưng chúng ta đã tiêu diệt được nhiều cá mập, mày và ta, đã đánh trọng thương nhiều con khác. Mày đã từng giết được bao nhiêu con, hỡi anh bạn cá già kia? Cái lưỡi kiếm trên đầu mày chẳng phải vô cớ mà được sinh ra như thế”. Lão thích tưởng tượng về con cá và những gì nó có thể làm đối với một con cá mập nếu nó được tự do bơi lội. Có lẽ mình nên cắt cái lưỡi kiếm để dùng làm vũ khí chiến đấu, lão nghĩ. Nhưng chẳng có cái rìu nhỏ hay con dao nào cả. Nhưng nếu ta có và có thể buộc nó vào mái chèo thì đấy mới đích thực là vũ khí. Rồi chúng ta sẽ cùng chiến đấu với bọn chúng. Bây giờ mày sẽ làm gì nếu bọn chúng kéo đến vào ban đêm? Mày có thể làm gì?

“Chống lại chúng”, lão nói.

“Mình sẽ chống lại chúng cho đến lúc chết”. Nhưng lúc này, trong bóng tối, không một quầng sáng lấp lánh, không một ánh điện, chỉ có gió và con thuyền lững thững trôi, lão cảm nhận như thể lão đã chết tự bao giờ. Lão áp hai bàn tay vào nhau, sờ vào lòng bàn tay. Chúng chưa chết và lão có thể cảm nhận nỗi đau đớn bằng cách đơn giản là nắm, mở đôi bàn tay. Lão ngả người tựa lên đuôi thuyền và biết mình chưa chết. Đôi vai đã mách lão điều đó. Mình nhớ đọc tất cả những bài kinh khi mình bắt được con cá, lão nghĩ. Nhưng lúc này, mình đã quá mệt để đọc nổi nữa rồi. Tốt hơn là mình nên lấy cái bao đắp lên vai.

Lão nằm xuống phía sau thuyền, tay vẫn lái và mắt dõi nhìn quầng sáng hắt lên nền trời. Mình còn một nửa, lão nghĩ. Có lẽ vận may sẽ đến giúp mình mang nửa con cá này vào bờ. ít ra thì mình cũng phải có chút may mắn nào đấy. Không, lão nói. Cứ đi quá xa thế này thì mày đã tự làm tổn hại cái vận may của mày rồi.

“Đừng có ngốc”, lão nói lớn.

“Cố mà thức và lái thuyền đi. Không chừng mày lại gặp may nhiều đấy”.

“Ta muốn mua một ít may mắn nếu nó được bán ở bất cứ nơi nào”, lão nói. Thế ta lấy gì để mua nó đây? Lão tự hỏi. Ta có thể mua nó bằng ngọn lao mất, con dao gãy và đôi tay bị thương ư?

“Mày có thể”, lão nói.

“Mày cố mua nó bằng tám mươi tư ngày đi biển. Suýt nữa nó đã được bán cho mày”. Mình đừng nghĩ vớ vẩn nữa, lão nghĩ. Vận may là thứ đến với vô vàn dáng vẻ, ai có thể nhận diện ra nó? Dẫu sao thì mình sẽ nhận một ít trong bất cứ hình thức nào và trả bất kỳ giá nào mà người bán đòi hỏi. Giá mà mình có thể nhìn thấy ánh điện, lão nghĩ. Mình ao ước quá nhiều. Nhưng đấy là thứ mình cần bây giờ. Lão cố xoay trở cho thoải mái để lái thuyền và nhờ nỗi đau nhức lão biết mình chưa chết. Vào khoảng mười giờ tối, lão trông thấy ánh đèn thành phố hắt xuống nước. Thoạt tiên, đấy chỉ là thứ ánh sáng mang máng trên bầu trời như trước lúc mặt trăng mọc. Thoáng chốc chúng hiện rõ ra ở đằng kia đại dương, lúc này đang dậy sóng theo chiều gió mạnh. Lão lái thẳng vào giữa quầng sáng, lão nghĩ chẳng mấy chốc kể từ lúc này lão sẽ chạm đến mé dòng nước. Giờ thì đã xong, lão nghĩ. Có lẽ chúng sẽ lại tấn công ta. Nhưng trong đêm tối, không một tấc sắt trong tay, con người có thể làm gì để chống lại chúng? Lúc này lão đã tê cứng, nhức nhối và cái giá lạnh ban đêm càng làm những vết thương và tất cả những chỗ xây xát trên khắp cơ thể lão đau buốt. Mình hy vọng là sẽ không còn chạm trán với chúng, lão nghĩ. Mình rất hy vọng mình không phải chạm trán lại với bọn chúng. Nhưng vào lúc nửa đêm lão phải chiến đấu và lần này lão biết cuộc chiến đấu là vô vọng. Chúng kéo đến cả đàn, lão chỉ nhìn thấy những đường nước do vây chúng xẻ bơi và những vệt lân tinh khi chúng quăng mình vào con cá. Lão nện chày xuống mấy cái đầu, nghe tiếng răng bập và cảm thấy con thuyền chao đảo khi chúng luồn xuống dưới. Lão vung chày tuyệt vọng vào bất cứ chỗ nào lão có thể phỏng đoán hoặc nghe thấy, rồi lão cảm thấy có cái gì đó tóm lấy cái chày, lôi tuột đi. Lão giật cái tay lái ra khỏi ổ lái, cầm cả hai tay đâm, bổ dọc liên hồi kì trận. Nhưng bây giờ bọn chúng lại dồn hết đến đằng mũi thuyền, lần lượt thay phiên nhau, hay cả bọn cùng xông vào xâu xé con cá, chỗ thịt chúng rứt được lấp lánh dưới nước khi chúng trở mình để lại lao vào. Cuối cùng một con xáp đến đớp vào cái đầu cá, lão biết thế là hết. Lão vung tay lái quật ngang đầu con cá mập chỗ bộ hàm bị kẹp cứng trong xương đầu con cá kiếm mà không thể rứt ra được. Lão quật lần nữa, thêm lần nữa, rồi thêm nữa. Lão nghe tiếng cái tay lái gãy; dùng phần gãy lởm chởm, lão đâm vào con cá mập. Cảm thấy đoạn tay lái cắm phập vào, lão biết nó sắc rồi thọc sâu xuống. Con cá mập buông ra, lăn mình đi. Đấy là con cuối cùng của đàn cá mập. Chẳng còn gì nữa để chúng xâu xé. Lúc này lão nặng nề thở và cảm thấy có vị là lạ trong miệng. Vị ấy ngòn ngọt và có mùi tanh đồng; lão thoáng lo sợ. Nhưng chỗ mùi vị ấy không nhiều. Lão khạc nhổ xuống đại dương rồi nói:

“Đớp đi, lũ galanos kia. Và hãy tưởng tượng rằng bọn mày đã giết chết một con người”. Bây giờ lão biết mình đã bại trận hoàn toàn, không thể nào cứu vãn nổi; lão quay lại đằng lái, tìm đoạn tay lái gãy lởm chởm còn đủ dài để lắp vào ổ lái, đưa thuyền vào bờ. Lão khoác cái bao qua vai rồi lái thuyền theo hướng cũ. Bây giờ, tay lái lão nhẹ bẵng và lão chẳng còn nghĩ hay thoáng chút vương vấn gì nữa. Lúc này lão quên hết mọi chuyện và chỉ tập trung đưa con thuyền vào bến khéo léo và an toàn. Trong đêm, đàn cá mập kéo đến gặm bộ xương như kiểu ai đó nhặt những mẩu bánh vụn trên bàn. ông lão chẳng buồn bận tâm đến chúng và cũng không để ý đến bất cứ chuyện gì ngoài việc lái thuyền. Bây giờ lão chỉ lưu ý đến độ lướt nhẹ và đằm của con thuyền khi không còn phải đeo thêm cái gánh nặng bên mình.

Con thuyền vẫn còn tốt, lão nghĩ. Nó cũng chắc và chẳng hư hại gì ngoài cái tay lái. Cái đó thì dễ thay. Bây giờ lão có thể nhận thấy lão đã vào giữa dòng chảy; lão trông thấy ánh đèn trên những bãi biển dọc bờ. Lão biết bây giờ lão đang ở đâu và lối về thì chẳng còn là vấn đề gì nữa. Ngẫm cho cùng thì gió là bạn của ta, lão nghĩ. Rồi lão nghĩ tiếp, chỉ đôi khi. Và cả đại dương bao la với những người bạn lẫn kẻ thù của ta. Và giường chiếu nữa, lão nghĩ. Giường là bạn của ta. Chỉ có giường thôi, lão nghĩ. Giường chiếu hẳn là việc trọng đại. Đơn giản làm sao khi mày bị đánh bại, lão nghĩ. Ta chưa hề hình dung chuyện ấy lại đơn giản đến thế. Cái gì làm mày thất bại, lão nghĩ.

– Chẳng gì cả, lão nói lớn.

– Ta đã đi quá xa.

Khi đưa được thuyền về cái bến nhỏ, đèn nơi Terrace đã tắt, lão biết mọi người đã đi ngủ. Gió không ngừng lớn thêm và bây giờ đang thổi mạnh. Nhưng phía trong bến cảng vẫn yên ả, lão cập thuyền vào con lạch nhỏ, đầy sỏi bên dưới ghềnh đá. Do không có người giúp nên lão dốc sức đẩy con thuyền lên đến mức khả năng cho phép. Rồi lão nhảy ra buộc thuyền vào một tảng đá. Lão hạ buồm, quấn lá buồm lại và buộc chặt. Rồi lão vác cột buồm dợm chân leo lên. Chỉ đến khi ấy lão mới biết cơ thể lão rã rời đến mức nào. Lão dừng lại nghỉ một lát, ngoái nhìn và thấy ánh đèn đường phản chiếu lên cái đuôi to kềnh của con cá đang dựng thẳng đứng bên cạnh đuôi thuyền. Lão thấy cái xương sống vạch thành đường thẳng trụi trần, trắng hếu và cái đầu đồ sộ và đen ngòm với lưỡi kiếm nhô thẳng tới trước mà chẳng còn tí thịt da nào. Lão lại tiếp tục leo, lên đến đỉnh dốc lão ngã rồi nằm một lát, cột buồm vẫn vắt ngang qua vai. Lão gượng đứng dậy. Nhưng việc ấy lại quá khó nên lão cứ vác cột buồm ngồi đó nhìn con đường. Đằng xa, một con mèo đang băng qua đường tìm kiếm cái gì đó, lão nhìn nó. Lát sau lão chỉ nhìn con đường. Cuối cùng lão đặt cột buồm xuống, đứng dậy. Lão dựng cột buồm, vác lên vai rồi tiếp tục đi. Lão phải ngồi nghỉ năm lần trước khi về đến lều. Vào trong lều, lão dựng cột buồm tựa vào tường. Lão tìm trong bóng tối ra chai nước và uống một ngụm. Rồi lão nằm xuống giường. Lão kéo cái mền đắp qua vai, xuống lưng rồi chân; lão nằm ngủ úp mặt lên lớp báo, hai tay dang rộng, lòng bàn tay ngửa lên. Sáng hôm sau, khi thằng bé nhìn vào lều, ông lão đang ngủ. Trời đang nổi gió lớn đến nỗi thuyền câu không thể ra khơi; thằng bé dậy muộn rồi tạt qua lều ông lão như nó thường làm vào mỗi buổi sáng. Thằng bé thấy ông lão đang thở và khi nhìn vào đôi bàn tay, nó bật khóc. Nó rón rén bước ra đi mua cà phê mang về; suốt con đường dốc nó cứ thổn thức mãi. Nhiều người đánh cá quây quanh con thuyền, ngắm nhìn cái vật được buộc bên mạn, một người xắn quần lội xuống nước dùng dây đo chiều dài bộ xương. Thằng bé không xuống đấy. Nó đã đến từ trước và một trong những người đánh cá thay nó trông hộ con thuyền.

“Bác ấy sao rồi?”, một trong những người đánh cá hỏi vọng lên.

“Đang ngủ”, thằng bé đáp. Nó không bận tâm đến việc mọi người nhìn thấy nó khóc.

“Đừng để ai đến quấy rầy ông”.

“Từ mũi đến đuôi, con cá dài gần sáu mét”, người đang đo xướng lên.

“Cháu chắc là thế”, thằng bé nói. Nó đi vào Terrace và hỏi mua một lon cà phê.

“Thật nóng và cho nhiều sữa, đường vào”.

“Cần gì nữa không?”

“Thưa không. Để lát nữa cháu xem ông có thể ăn được gì”.

“Con cá thật ra trò”, chủ khách sạn nói.

“Chưa từng có một con cá nào như thế. Kể cả hai cái con đáng mặt mà cháu bắt hôm qua”.

“Mấy con cá quèn của cháu ấy mà”, thằng bé nói rồi lại khóc.

“Cháu có muốn uống chút gì không?”, chủ khách sạn hỏi.

“Thưa không”, thằng bé đáp.

“Nhờ bác nhắc hộ họ đừng đến quấy rầy ông Santiago. Cháu sẽ quay lại”.

“Chuyển hộ lời hỏi thăm của bác đến ông lão”.

“Cám ơn bác”. Thằng bé mang lon cà phê nóng lên lều ông lão và ngồi xuống bên cạnh cho đến khi lão thức giấc. Có lúc, trông ông lão như thể sắp tỉnh dậy. Nhưng lão lại chìm vào giấc ngủ vùi; còn thằng bé thì đi qua đường hỏi mượn ít củi về hâm nóng cà phê. Rốt cuộc thì lão cũng thức giấc.

“Ông khoan ngồi dậy hãy”, thằng bé nói.

“Cứ uống cái này đi đã”. Nó rót một ít cà phê ra ly. ông lão nhìn chỗ cà phê rồi uống.

“Chúng đánh bại ông, Manolin à”, lão nói.

“Chúng thật sự đã đánh bại ông”.

“Nó không đánh bại được ông. Kể cả con cá”.

“Anh Pedrico đang trông thuyền và dụng cụ. ông định làm gì với cái đầu cá kia?”

“Để Pedrico chẻ ra dùng bẫy cá”.

“Thế còn lưỡi kiếm?”

“Nếu cháu thích thì giữ lấy”.

“Cháu thích lưỡi kiếm”, thằng bé nói.

“Bây giờ ông cháu ta phải lên kế hoạch cho những việc khác”.

“Họ có đi tìm ông không?”

“Dĩ nhiên. Cả thuyền tuần tra bờ biển lẫn máy bay”.

“Đại dương vô cùng vô tận, thuyền câu thì quá ư nhỏ bé nên khó nhìn thấy”, ông lão nói. Lão nhận thấy được nói chuyện với ai đó thì dễ chịu hơn phải tự nói với chính bản thân mình hay với biển cả.

“Ông nhớ cháu”, lão nói.

“Cháu bắt được mấy con?”

“Hôm đầu được một con. Hôm thứ hai được một và hôm thứ ba được hai”.

“Giỏi lắm”.

“Bây giờ ông cháu ta lại cùng đi câu”.

“Đừng. ông không gặp may mắn. ông chẳng còn may chút nào”.

“Vứt quách cái chuyện may rủi ấy đi”, thằng bé nói.

“Cháu sẽ mang vận may của cháu theo”.

“Gia đình cháu sẽ nói gì?”

“Cháu không quan tâm. Hôm qua cháu bắt được hai con. Nhưng bây giờ ông cháu ta sẽ đi câu cùng nhau bởi cháu còn phải học hỏi nhiều điều”.

“Ta phải rèn một ngọn lao đâm cá thật tốt và luôn mang theo trên thuyền. Cháu nên cắt một lưỡi dao từ lá thép giảm sóc của chiếc xe Ford cũ. Chúng ta có thể mài nó ở Guanabacoa. Phải mài sắc chứ đừng mang nung lửa kẻo nó sẽ gãy. Dao của ông đã gãy”.

“Cháu sẽ cắt con dao khác và mang lá thép ấy đi mài. Chẳng biết đợt briạa lớn này sẽ kéo dài mất mấy ngày?”

“Có lẽ ba hôm. Không chừng lâu hơn đấy”.

“Cháu sẽ chuẩn bị sẵn sàng đủ mọi thứ”, thằng bé nói.

“Ông nhớ chăm sóc hai bàn tay cho lành”.

“Ông biết cách chữa trị. Hồi đêm ông khạc ra cái gì đó thật lạ và cảm thấy cái gì đó trong ngực bị vỡ”.

“Cũng để cái đó bình phục luôn”, thằng bé nói.

“Ông hãy nằm nghỉ đi, ông ạ; cháu sẽ mang chiếc sơ mi sạch của ông đến cho ông. Thêm cái gì đó để ăn”.

“Nhớ mang bất cứ tờ báo nào trong khoảng thời gian ông đi vắng đến nhé”, ông lão dặn.

“Ông phải khỏe lại thật nhanh vì còn nhiều thứ cháu cần phải học và ông có thể dạy cháu mọi điều. Chắc ông đã chịu đựng quá nhiều?”

“Nhiều lắm”, ông lão đáp.

“Cháu sẽ mang thức ăn và báo đến”, thằng bé nói.

“Ông cứ nghỉ cho lại sức. Cháu sẽ mua thuốc chữa tay từ hiệu thuốc nữa”.

“Đừng quên bảo Pedrico cái đầu cá ông cho anh ấy đấy”.

“Vâng. Cháu nhớ”. Khi thằng bé ra khỏi cửa, đi xuống con đường rải đá san hô vụn, nó lại khóc. Chiều hôm ấy có đoàn du khách ở Terrace và nhìn xuống khoảng nước ngổn ngang lon bia rỗng và xác cá nhồng, một người phụ nữ trông thấy bộ xương sống dài, trắng phau, cực lớn với chiếc đuôi đồ sộ dính đằng cuối dập dềnh, đung đưa theo làn sóng trong lúc gió Đông thổi trên vùng biển cồn sóng không ngớt phía ngoài cửa cảng.

“Cái gì kia?”, bà ta hỏi anh bồi và đưa tay chỉ chiếc xương sống dài của con cá khổng lồ, bây giờ chỉ là đồ rác thải đang đợi thủy triều cuốn đi.

“Tiburon”, anh bồi đáp.

“Cá mập ấy mà”. Anh ta hàm ý giải thích chuyện gì đã xảy ra.

“Tôi không ngờ cá mập lại đẹp như thế, dáng đuôi thật duyên dáng”.

“Anh cũng thế”, bạn trai của bà ta nói. Phía trên đường, trong căn lều, ông lão lại ngủ. Lão vẫn nằm úp mặt ngủ; thằng bé ngồi bên cạnh nhìn lão. Ông lão đang mơ về những con sư tử.

Dịch theo bản tiếng Anh « The Old Man and the Sea  » Bantam Book 1965

Source  :

https://vnthuquan.net/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn0nqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn

Chuyến tàu trên sông Hồng

Chuyến tàu trên sông Hồng

Mai Thảo

Hình dung thấy một cái bến tỉnh lẻ. Buổi chiều mùa đông. Những trụ xi măng ướt sương. Ánh đèn dầu le lói hắt ra từ những quán lá thấp. Đám người ngồi chen vai trên những hàng ghế nối liền, xây lưng ra mặt bến. Những đứa con gái mặc quần đen, áo cánh trắng, ngoài khoác áo bông đột chỉ như bàn cờ tướng, áo len xanh đỏ đan hình quả trám, hình tổ ong, hình dây thừng, thoăn thoắt múc đồ ăn từ những chậu sành da hươu vàng đậm ra những cái đĩa quả đào. Thịt ba chỉ kho, nước thịt nâu đậm nhếch nhoáng, sao mỡ nổi dầy trên mặt, đậu nhồi lốm đốm những cuộn hành xanh non, món giả ba ba có ốc ang chuối chát và giềng mẻ quyền quyệt lổn nhổn, cá chép kho sắt từng khoanh mỏng, mỗi khoanh còn nguyên một thỏi trứng vàng. Mưa lất phất ngoài trời. Người mại bản Trung Hoa cởi trần ngồi trong một túp lều dựng ở đầu cầu đi xuống con tàu phì phà thở khói.

Và thẳng nhỏ đứng đó. Nó đội mũ trắng, quai mũ kéo căng xuống cằm. Quần trúc bâu sột soạt. Cái áo an-ba-ga quá khổ may dài đón tuổi thùng thình tới mắt cá chân, tay áo phải bện lên đến hai vòng, thả hết sẽ chùm kín ngón. Bữa cơm đầu ghế trong những quán lá thấp kia sao mà vui ấm ồn ào, sao mà ngon miệng ngon mắt đến thế. Đứa nhỏ muốn vào ngồi đó, gọi đồ ăn, cầm đũa cầm bát như người lớn. Nhưng mẹ nó đã gói sẵn cho nó một bữa ăn đêm đến trên tàu rồi. Một gói muối vừng rang mặn, mẹ ngồi xổm rang vừng trên cái bếp kiềng ba chân, trong căn nhà bếp sát vách chuồng trâu khói rơm kết đóng thành bồ hóng phủ kín như một lớp rêu đen nhẫy trên các đầu kèo, mẹ giã vừng trên cái nia tre nhỏ, rồi gói vào lá chuối tươi cùng với khoanh cơm nắm nhuyễn như bột mẹ nấu trong cái niêu đất nhỏ bằng gạo tám thơm để dành trong hũ sành đặt dưới gậm bàn thờ, bằng nước mưa mùa hè chảy xuống cái bể rêu có ống máng cau dẫn nước từ đầu trái xuống. Và đứa nhỏ ngoan ngoãn nuốt nước miếng quay đi, nghĩ rằng chuyến đi đầu tiên trong đời nó phải có cái bữa ăn dọc đường thanh đạm ấy. Nó đi thẩn thơ chờ giờ khởi hành. Ra khỏi bờ ao có bè rau muống thả dài dưới bóng cây sung, cây mít, có luống khoai ngứa lá to bản đỏ tía bờ ao bên kia, có cá chuối dưới chân cầu ao, cá bống mít vươn cái bụng trắng phau phau những buổi trưa nắng êm ả điểm từng tiếng động lộp bộp của trái rụng trong vườn, ra khỏi cái ngõ ruối những tinh sương xanh, nó cầm cái nỏ cao su gạc ổi chờ rình con chim chào mào sáng nào cũng đến đậu trên ngọn cây soan, ra khỏi căn nhà lá ba gian hai chái có bàn thờ ông bà ông vải kê chính giữa đằng sau bộ trường kỷ trên để một khay chén tống chén quân và một bình trà Ninh Thái chữ tầu đỏ chói, buổi chiều tuổi nhỏ ấy, đứa nhỏ đã vượt qua con đường tàu chìm khuất dưới đám cỏ bồng, đi qua vùng ngoại ô là xóm cô đầu ngày trước, tới chân bức tường thành cổ ngập ngụa lá sấu lá bàng, rồi là những con đường đầy than và những chuyến xe goòng, rồi là những ống khói của nhà máy dệt sau những bức tường màu xám cao ngất, và nó đã đứng đó, chờ đợi chuyến tàu thứ nhất trong đời ngược dòng chở nó vào cái thế giới hiện lên trong tưởng tượng ấu thơ như một chân trời cách trở nghìn trùng là Hà Nội.

Hình dung thấy một con tàu nằm sát kề mặt bến. Cái ống khói đen chũi, lầm lì thả ra những đợt khói trắng vật vờ trên miệng. Một con tàu già nua, ọp ẹp, nước sông rỉ rề lênh láng suốt ba khoang hầm tàu, bọn phu cởi trần đêm ngày thay phiên nhau múc nước đổ òm ọp ra sông, tát ra tới đâu nước vào tới đó. Một cái cầu mong mảnh vắt chênh vênh từ kè đá bến xuống cửa khoang tàu ướt nhẫy. Đứa nhỏ hoàn hồn thở ra khi đi hết cái cầu dập dình nguy hiểm, nó run chân, nó lạnh người, chỉ sợ bước hụt lộn nhào xuống lòng sông. Đám người xuôi ngược nằm ngồi ngổn ngang giữa đám hàng hóa chất đống. Muối bể đựng trong bao tải ướt nhẹp, mặt bao đánh dấu từng tên của hàng. Bao muối quật mạnh xuống sàn tàu vỡ toang, muối nhỏ hạt hồng hồng phù sa chảy ứa từng đống lớn. Gạo cám và ngô khoai toát ra mùi ẩm mốc ngai ngái. Trứng vịt trứng gà xếp đầy trong những cái dành đặt ở những xó góc riêng tránh xa những lối đi. Đòn gánh, quang thúng, vỉ buồm, tay nải thòi lòi từ những gậm ghế chạy dài suốt khắp hai mạn. Ánh đèn sáng trưng. Cái ống khói vượt khỏi hầm tàu chiếm một khoảng rộng chính giữa con tàu thở phì phà. Hơi nóng rừng rực choáng váng phả lên từ cái lò than vĩ đại dưới hầm. Đứa nhỏ lần bước về mũi tàu, chọn được một chỗ ngồi trên đống hàng hóa, len lén ngồi xuống. Gió sông ném mưa vào mặt nó, làm tỉnh táo hẳn cái trạng thái lạc lõng kỳ thú của cuộc phiêu lưu đầu đời. Cặp mắt con chim ra ràng mở thao láo, ngó nghiêng nghiêng, đựng đầy hình ảnh. Đống dây xích sắt quất nhiều vòng quanh cái trụ bóng loáng. Những cabin đánh số chiếm một khoảng riêng, người chủ tàu ngậm tẩu bệ vệ đi đi lại lại trên khoảng hành lang cách ngăn bằng một cánh cửa thấp. Rồi mặt sông mà bóng tối đã phủ xuống cùng mưa bay bỗng vang động những tiếng còi hú dài lanh lảnh. Tiếng lạt sạt của cái cầu gỗ được kéo lên. Dây thừng, cây cầu, được kéo lên. Dây cáp rời trụ buộc trên bến buông thả lõm bõm xuống mặt nước. Bốn người phu cởi trần gò mình chạy quanh trục neo, cái neo rút lên từ từ lẩn vào mũi tàu. Đứa nhỏ nghển cổ nhìn lại. Mặt bến xa dần, hẫng đi trong khoảng cách biệt bắt đầu. Những ngọn đèn vàng ệch. Những bóng người nhá nhem chuyển dịch trên cái bến trống thoáng chợt rộng hẳn vì con tàu đã thôi án ngữ. Tiếng nước chảy ngược gào réo hai mạn. Nghiêng đầu ngó ra mặt sông tối om thoang thoáng vệt nước trắng xóa. Con tàu ngược dòng sông Hồng, ra khỏi tỉnh và những bờ bãi hoang vu, những làng xóm im lìm bắt đầu.

Hình dung thấy đứa nhỏ ngồi đó và nó nghĩ. Nghĩ đến cái thôn xóm hẻo lánh bên đường xe lửa nó vừa giã từ, đến cái tuổi nhỏ như một bông hoa đồng, một ngọn cỏ nội nó vừa bỏ lại. Những ngày mưa bão ở quê cũ, nước dềnh mặt ao, mấp mé đầu thềm, nó đầu đội mưa bắt cá lạc, nhặt trái rụng, cái mặt tái mét, quần áo dán chặt vào thân thể nhợt nhạt run rẩy nhưng tâm hồn mừng vui như mở hội. Đứa nhỏ yêu những ngày nước lụt, những ngày mưa bão như thế. Ban đêm nó tỉnh dậy khi nhạc mưa rào rào trên mái, khi gió quật đập dữ dội làm những kèo nhà cót két lay chuyển, khi những hàng xóm những tiếng í ới hò nhau chống nhà vang động trong mưa. Buổi sáng, nó nhảy cẫng xuống đất, chạy vội ra đầu chái nhìn lên. Mây hoang hoang đầy trời bão động. Mẹ nó kéo lết vào bắt mặc áo bắt đi guốc. Nó thoát khỏi tay mẹ, chạy ra lấy thau đồng hứng nước mưa từ đầu gianh trút xuống, ngồi thu lu. Nước chảy tràn lan khắp cùng ngõ trước sâu sau. Nước băng băng dồn đổ, đâu đâu cũng là nước, cái cảnh tượng ngập lụt của tuổi nhỏ ấy là sự mê thích sảng khoái rất tạo vật rất thiên nhiên mà đứa nhỏ đang hồi tưởng từ một chuyến tàu đang ngược dòng về thành phố lớn.

Hình dung thấy con tàu đó trên con sông đó. Con sông Hồng. Như dòng máu đỏ tươi chảy băng băng khắp vùng trí nhớ bâng khuâng. Con sông như một đời sống vĩ đại. Bên này bãi lở. Bên kia bãi bồi. Tiếng sóng giữa dòng trùng trùng ca hát. Tiếng sóng dập cái tiếng dập mênh mông đầu ghềnh nơi tả ngạn bị hút xoáy mải miết, nước xôn xao róc rách đẩy lùi mãi những bãi dâu và những nương khoai vào những chân tre cũ. Nơi tả ngạn, ngọn sóng hiền lành mùa lũ này qua mùa lũ khác. Đứa nhỏ trôi theo con tàu trên dòng trường giang hùng vĩ chợt nhớ tới những con sông làng thon mềm dải lụa có trâu đầm từng đàn dưới bóng đa nghiêng, có những chiếc cầu đá dẫn tới một phiên chợ sớm đầu đình, có những cầu gạch mở vào những cái ngõ lang thang mất hút, có cỏ gà trên gò đống, cỏ ống trên mồ mả, có những cầu tre tay vịn chòng chành, đêm đêm có anh đom đóm lập lòe, có ánh trăng mướt chở tới những khoảng sân gạch Bát Tràng nồng ấm hương lúa đầu mùa. Tiếng quạt thóc, tiếng đập thóc rào rào. Màu lúa vàng diệp dưới ánh trăng nhễ nhại. Tiếng cười tiếng đùa ròn rã là âm thanh đầm ấm của những năm tháng được mùa thỏa thuê trong hạnh phúc quê mùa và yên vui đơn giản. Đứa nhỏ nhớ mãi cái cảm giác lạo xạo dưới lòng chân khi nó dang tay đi rê rê, miệng ngậm một cọng rơm tươi giữa đám thợ gặt từ những phương trời khác đeo hái tới làng, lại đeo hái lên đường tới những cánh đồng chưa gặt hái khác. Nó thấy người ta nói chuyện tiếu lâm, người ta tự tình, người ta yêu nhau. Và khi đám con trai lạ bỏ làng đi, nó cũng đứng tần ngần dưới chân đê nhìn theo cái hàng một dài tắp kéo dài trong ánh bình minh rồi nhỏ dần, nhỏ dần như một sợi chỉ và mất hút. Nhớ tiếng trống làng thùng thùng. Tiếng chuông chầu buổi tối. Tiếng mõ niệm buổi trưa. Tiếng gà gáy sớm. Tiếng chó sủa đêm. Nhớ những âm thanh mộc mạc nghìn đời của đất của đồng của hoa của cỏ. Nhớ tiếng ếch tiếng nhái ão uộp dưới ao bèo Nhật Bản, tiếng ve ran ran, tiếng sáo diều vi vu bất tận trên nền trời rộng, tiếng đòn gánh kẽo kẹt rập rình, tiếng chân đi nằng nặng của đám tuần vác mõ canh đêm, là những tiếng động cũ kỹ, thuần túy của xóm làng có ao sen đầu đình giếng đá đầu quán, có những chuyến xe buýt cà rịch cà tang thở khói khét lẹt trên mặt đê cao. Đứa nhỏ sống trong thứ thời gian rất thơ và rất xanh, của bốn mùa, thứ không gian tình cờ của mưa mưa nắng nắng, nó sống trong cái thế giới của chuồng trâu bếp lửa, của khói rạ lượn lờ trên mái tranh, của hương hoàng lan thoang thoảng trong cây, của hương bồ kết cay cay trong tóc. Nó nhớ lại tuổi nhỏ như một con chuồn chuồn ngất ngư trong biển nắng, cái tuổi nhỏ như say rượu, cái tuổi nhỏ nằm tròn thành một giọt sương mai giữa đất trời, cái tuổi nhỏ ru nó bằng nhịp võng đưa, cái tuổi nhỏ thật nhỏ, cũng thật hiền, thật non và cũng thật xanh, cái tuổi nhỏ của cái mũ trắng nó đang đội, của cái quần trúc bâu sột soạt nó đang mặc, của tóc mới đâm cứng như rễ tre, của da mới vỡ đầy vết lang ben, của tiếng nói khao khao như tiếng gà trống, cái tuổi nhỏ thật là tuổi hồng, cái tuổi nhỏ ở đồng chưa từng biết thế nào là ánh điện, là đường nhựa, là ngã tư, là phố phường.

Hình dung thấy chuyến đi đó, trên con tàu, trên Hồng Hà. Đêm trên sông lớn trải khắp bốn hướng mênh mông. Đứa nhỏ ríu mắt gục xuống cái mũ trắng trên đầu gối, thiếp đi. Bỗng nó bàng hoàng thức dậy. Con tàu ngược dòng như lãng đãng trườn đi trong khói sương và chiêm bao mơ hồ. Rồi là một hồi còi. Từ cái đỉnh ống khói, tiếng còi được ném lên vòm trời khởi sự là một thứ âm thanh đặc quánh hơn nước, tiếng còi vụt lên thật cao, còi rùng mình rồi phóng về hai phía, vẽ lên, bằng cái âm thanh ngân ngân vang vang kỳ lạ của nó tất cả những bờ bãi, những cuối mỏm, những đầu ghềnh, những khúc quanh, những ngã ba nhạt nhòa trong bóng tối. Tiếng còi vang động một vùng làng xóm ngủ thiếp, lọt vào những cánh cổng đóng kín, lan tới những khoảng sân vắng, những cái bếp tro than nguội lạnh, những bờ ao kín đặc trong sương, tự lòng sông chuyển cả không gian mịt mùng, chuyển cả thời gian thăm thẳm, chuyển những vì sao lạc, những ánh trăng suông, cái điệp điệp trùng trùng của trường giang, cái mênh mông ngút mắt của bãi bờ, của cửa biển, của khơi xa, của núi rừng vào những làng xóm, làng xóm trùm kín lấy, và lắng đọng bồi hồi mãi mãi. Con tàu đi vào một khúc sông khác. Nhưng tiếng còi đêm còn lại, vĩnh viễn, với Hồng Hà. Đứa nhỏ nghe tiếng còi và tiếng còi bao nhiêu tháng năm sau này, còn ám ảnh thần trí nó, kết tinh thành cái âm thanh của tuổi nhỏ mất dần từ một đêm bỏ làng ra phường phố. Lớn lên, đi qua một con sông nào, dừng lại ở một bến tàu nào, đứng ngắm một dòng nước nào, trong đầu óc đứa nhỏ lại nổi dậy cái âm thanh não nùng lê thê của tiếng còi trên dòng sông Hồng của một chuyến đi tuổi nhỏ. Cúi đầu xuống và nhắm mắt lại mà theo dõi cái âm thanh không bao giờ mất ấy trong dòng hồi tưởng, nó lại như thấy vẽ ra trước mắt con tàu cũ, cái bến xưa, và tất cả những hình ảnh của một tuổi nhỏ chới với như một cánh bướm ma ẩn ẩn hiện hiện trong sương mù quá khứ. Đó là đợt gió lùa vào tiềm thức. Tiếng nức nở của tuổi thơ. Tiếng thở dài của quá khứ khi hình hài và tâm hồn nó bây giờ đã đổi khác. Đó là âm thanh khởi đầu cho một trình tự hồi tưởng xa thẳm, khi nó muốn nhỏ lại như tuổi nào, để được ngậm một cọng rơm tươi, chạy miết trên những con đường đồng dẫn đưa vào thiên đường cũ.

Hồi tưởng lại một buổi sáng nhợt nhạt. Con tàu ghé bến Hà Nội rồi. Phường phố lớn chập chùng. Đứa nhỏ bàng hoàng đi lên. Và con sông Hồng, và tiếng còi và chuyến tàu đã bỏ lại sau lưng cùng tuổi nhỏ.

Source : https://vnthuquan.net/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn3n3nmn31n343tq83a3q3m3237nvn

Chim Bay Về Biển

Chim Bay Về Biển

 

Phạm Tín An Ninh

 

Một mai chim bỏ bay về biển

Ta đứng một mình ngó nhánh sông

Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy

Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng

(Sương Mai)

 Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha Trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của nhưng người Nha Trang xa xứ.  Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.

Nha Trang xưa dưới thời VNCH

Nha Trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha Trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nha Trang, sống với Nha Trang gần trọn một đời.

Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nha Trang, đã viết:

“Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bi xóa khỏi bản đồ trái tim.

… tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về”( trích trong “Nhà Từ Đường” tháng 5.2013- trên VOA)

Cầu Xóm Bóng – Nha Trang thời VNCH

Một chị bạn, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nội vào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nha Trang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất  trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ở Nha Trang lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang. Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha Trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha Trang của mình ngày trước”.

Cù lao Xóm Bóng – Nha Trang thời VNCH

Hai người bạn học cùng lớp với tôi. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nha Trang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với Nha Trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha Trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: « không ra đi như mi, tớ ở lại với Nha Trang mà vẫn không tìm ra Nha Trang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương! ». Và họ chỉ còn gặp lại Nha Trang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa như trong tiền kiếp:

chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc

mảnh trăng khuya vòi või chờ ai

trong cỏ ướt dế buồn thao thức

giữa quê nhà sao mãi hoài hương.

Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc

nghe âm u gió tạt mùa xa

người đứng giữa trời không – luyến tiếc

nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.

Bao năm tìm lại con đường

nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa

chiều thu xứ ấy mù sa

tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.

(đ.ư.v)

Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều khi tưởng mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn chưa lành.

Lần trở lại Nha Trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ.

Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.

Một thằng bạn rất thân,cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nha Trang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố Nha Trang xưa của nó.

Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha Trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa.

Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha Trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.

Cũng chính vì Nha Trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ.

Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.

Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!

Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.

Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.

Tôi quay sang bảo thằng bạn:

– Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.

Nó xua tay:

– Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.

Tôi đùa:

– Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.

Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã:

-Mày thấy không, cái thành phố Nha Trang mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nha Trang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?

Tôi thực sự chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một điều gì đó không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.

Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên chiến trường. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nha Trang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá.  Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nha Trang xưa. Nha Trang của nàng và của đám bọn tôi. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ của nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.

Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán chường cuộc sống, lội xuống biển Nha Trang tự vẫn, để lại một thằng con trai năm tuồi. Nơi người ta tìm ra thi thể của chị, chính là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn hò, thuở hai người mới quen nhau.

Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày phải ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng”. Nó chưa bao giở về lại Nha Trang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý ( Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình.

“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức”.

Đọc xong thấy lòng đau đớn như có nhiều vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được.

Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha Trang.

Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, cùng học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có tấm lòng và rất khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và quê hương đất nước. Quyết liệt, kiên cường trước những bất công, bạo lực. Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi mất, chị vẫn  liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị ở quê nhà với  nhiều hy vọng, và tiếc là không thể sống lâu hơn để chứng kiến ngày chế độ cộng sản man rợ độc tài cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình, người thân và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò, sau khi chị mất xin gia đình hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà, bên kia bờ đại dương, ở đó có bãi biển Nha Trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung đây không phải là cánh hải âu mà là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ vừa bay về với biển.

Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào hoa vui tính. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha Trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.

Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.

Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.

Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng là những cánh chim bay về với biển.

Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời.  Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.

Nguồn: http://saigontimesusa.com