Giang Ðoàn 26 Xung Phong Tại Chiến Trường Tân Châu – Hồng Ngự (1973)

Trần Ðỗ Cẩm
https://i0.wp.com/doanket.orgfree.com/dkpict/gd26xp3.jpg

I. Bối Cảnh Lịch Sử

Vào năm 1973, tuy hiệp định ngưng bắn Paris đã được ký kết nhưng những trận đánh giữa hai phe Quốc – Cộng để dành quyền chủ động tại chiến trường miền Nam Việt Nam mỗi lúc một trở nên khốc liệt. Trong lúc quân lực Hoa Kỳ coi như đã “rút lui trong danh dự” không còn tham chiến, Cộng quân được “bật đèn xanh” công khai xua quân xâm chiếm miền Nam. Hình thức chiến tranh chuyển từ du kích chiến sang trận địa chiến bằng những trận đánh dữ dội với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn chủ lực có những vũ khí nặng như chiến xa, đại pháo hỗ trợ.

Nhìn chung, chiến trường sôi động nhất tại các vùng giới tuyến và biên giới Lào – Việt tại miền Trung và Miên – Việt tại miền Nam. Cộng quân từ vùng phi quân sự hay từ các căn cứ địa an toàn bên Lào, Cam Bốt ngang nhiên tràn qua lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, trong lúc phe Quốc Gia vì không còn đủ sức tấn công dành quyền chủ động nên chỉ có thể dùng toàn lực ngăn chặn trong tư thế phòng thủ.

Trong lúc các quân binh chủng bạn như Không Quân, Bộ Binh, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v… tung hết lực lượng để đối đầu với địch quân, thì phần đóng góp của các đơn vị Hải Quân trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này cũng không phải là nhỏ. Tại Vùng I và Vùng II Chiến Thuật nơi các trận đánh thường xảy ra dọc theo duyên hải, các chiến hạm ngày đêm tuần tiễu ngoài khơi cũng như yểm trợ hải pháo. Trong lúc đó, các Duyên Ðoàn phối trí tại các điểm chiến lược quan trọng dọc bờ biển cũng sát cánh với các đơn vị bạn trong các cuộc hành quân thủy bộ.

Riêng tại Vùng III Chiến Thuật với thủ đô Sài Gòn và Vùng IV Chiến Thuật là vựa lúa nuôi sống Miền Nam, vai trò của các đơn vị Hải Quân lại càng quan trọng. Ngoài phần lãnh hải cần được tuần phòng nghiêm ngặt, còn phải chận đứng mọi di chuyển và xâm nhập của địch quân qua các sông ngòi chằng chịt. Việc yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót ven sông cũng cần thiết không kém. Hơn nữa, cường độ chiến tranh bên quốc gia láng giềng Cam Bốt cũng đang gia tăng dữ dội. Cộng quân đã phong tỏa và cắt đứt những đường bộ tiếp vận về Nam Vang nên thủy lộ sông Cửu Long từ Tân Châu – Hồng Ngự qua bến phà Neak Luoeng lên đến thủ đô Cam Bốt trở thành mạch máu chính nuôi sống chính quyền Lon Nol thân Hoa Kỳ.

Ðể đáp ứng nhu cầu chiến trường, hoạt động của các Giang Ðoàn Hải Quân tai Miền Nam đã gia tăng đáng kể để bảo vệ lãnh thổ cũng như khai thông thủy lộ Sông Cửu Long. Vùng IV Chiến Thuật, ngoài các nhánh sông Cửu Long vươn dài như những cánh tay bạch tuộc ôm chặt vựa lúa Miền Nam, còn có rất nhiều kinh, rạch. Vì vậy, đây là địa bàn hoạt động của rất nhiều Giang Ðoàn Xung Phong, Thủy Bộ, Ngăn Chặn và Tuần Thám. Từ những giòng Tiền Giang, Hậu Giang, U Minh, Ðồng Tháp đến những nơi xa xôi hẻo lánh như U Minh, Cà Mau, Năm Căn v.v…, đâu đâu cũng có mặt các giang đĩnh ngày đêm ngăn chặn giặc thù. Những giang đĩnh này đã nhiều lần làm Cộng quân khiếp vía trong những trận đánh long trời lở đất và cũng là nguồn hy vọng cho những đồn bót ven sông.

Tuy có rất nhiều đơn vị Hải Quân góp phần đắc lực vào việc tiễu trừ giặc Cộng, bài này chỉ viết về những hoạt động của một đơn vị Hải Quân nồng cốt thuộc Vùng IV Chiến Thuật, đó là Giang Ðoàn 26 Xung Phong, đơn vị tác giả được hân hạnh phục vụ trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng kể trên. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều bài viết tương tự để chiến công của những chiến sĩ áo trắng trong sông không bị mai một với thời gian. Bài viết này cũng nhằm mục đích vinh danh và kính tặng những chiến sĩ Hải Quân anh dũng đã một thời gắn bó với các kình ngư trong sông, đặc biệt các bạn đồng đội thân mến đã phục vụ tại Giang Ðoàn 26 Xung Phong.

Trước khi đi sâu vào chi tiết về các trận đánh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong tại chiến trường Tân Châu – Hồng Ngự vào năm 1973, tưởng cũng nên tóm lược hệ thống tổ chức hành quân Hải Quân để độc giả, nhất là những người không quen thuộc với tổ chức Hải Quân, dễ bề tìm hiểu và theo dõi.

II. Sơ Lược Tổ Chức Hành Quân Hải Quân

Nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường mỗi ngày một gia tăng và để yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn, ngoài Hạm Ðội lo việc tuần tiễu và chuyển vận ngoài khơi, mỗi vùng Chiến Thuật còn có các các Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng để để phối hợp chặt chẽ với các Quân Khu liên hệ. Các Bộ Tư Lệnh Vùng chia thành hai loại: Vùng Duyên Hải đảm nhiệm công tác dọc theo bờ biển, trong khi các Vùng Sông Ngòi lo việc hành quân trong sông. Tổng Cộng, Hải Quân có 5 Vùng Duyên Hải và 2 Vùng Sông Ngòi.

A. Vùng Duyên Hải

Vùng Duyên Hải trực tiếp chỉ huy các đơn vị cơ hữu như Hải Ðội Duyên Phòng, Duyên Ðoàn, Ðài Kiểm Báo v.v… và chiến hạm Hạm Ðội tăng phái để tuần tiễu vùng bờ biển trách nhiệm cũng như phối hợp hành quân với Quân Khu tương ứng. Bộ Tư Lệnh các Vùng Duyên Hải được phối trí như sau:

1. Tại Vùng I Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải đóng tại bán đảo Tiên Sa (vùng Sơn Chà) Ðà Nẵng, chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Cửa Việt) tới Quảng Ngãi.

2. Tại Vùng II Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chịu trách nhiệm vùng bờ biểu từ Bình Ðịnh tới Phan Thiết.

3. Tại Vùng III Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng III Duyên Hải đóng tại Vũng Tàu. Chịu trách nhiệm vùng bờ biển từ Phước Tuy tới mũi Cà Mau.

4. Tại Vùng IV Chiến Thuật

Ðặc biệt Vùng IV Chiến Thuật có bờ biển chạy dài từ mũi Cà Mau lên tới biên giới Miên – Việt mãi tận Hà Tiên và Vịnh Thái Lan với rất nhiều hải đảo nên có tới 2 Vùng Duyên Hải.

– Bộ Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải đóng tại đảo Phú Quốc.

– Bộ Tư Lệnh Vùng V Duyên Hải đóng tại Năm Căn thuộc tỉnh An Xuyên. Ðây là một Bộ Tư Lệnh khá đặc biệt được thành lập sau này để đáp ứng nhu cầu hành quân bình định vùng cửa sông Ông Ðốc, Gành hào, Rạch Giá và các sông ngòi thuộc khu vực Cà Mau và U Minh.

B. Vùng Sông Ngòi

Vùng Sông Ngòi đảm trách việc tuần tiễu trong sông và phối hợp hành quân với Quân Khu liên hệ. Ðơn vị nồng cốt của Vùng Sông Ngòi là các Giang Ðoàn. Vùng I và Vùng II Chiến Thuật vì ít sông lạch nên không có Vùng Sông Ngòi. Tuy nhiên, có một số Giang Ðoàn Trục Lôi và Tuần Thám hoạt động tại vùng Cửa Việt, Cửa Thuận An và Hội An thuộc Vùng I Chiến Thuật được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải. Vùng II Duyên Hải không có Giang Ðoàn mà chỉ có những Duyên Ðoàn.

Miền Nam lắm sông nhiều rạch nên có rất nhiều Giang Ðoàn hoạt động. Hai Bộ Tư Lệnh Vùng Sông Ngòi chỉ huy các Giang Ðoàn này được phân chia như sau:

1. Tại Vùng III Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi đóng tại Sài Gòn. Khu vực hoạt động bao gồm sông Sài Gòn, các sông Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây lên tới tận Gò Dầu Hạ sát biên giới Miên – Việt thuộc tỉnh Tây Ninh. Ngoài quân cảng Sài Gòn, Bến Lức và Long An là các căn cứ Hải Quân lớn thuộc vùng III Sông Ngòi với nhiều giang đĩnh đủ loại nằm sát chân cầu có thể nhìn thấy từ Quốc Lộ 4.

2. Tại Vùng IV Chiến Thuật

Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi đặt tại Bến Ninh Kiều, Cần Thơ (Tây Ðô). Ðây là một đại đơn vị nồng cốt hoạt động trong sông của Hải Quân mà đơn vị chiến đấu căn bản là các Giang Ðoàn Xung Phong, những đơn vị Hải Quân kỳ cựu nhất bắt nguồn từ các Hải Ðoàn đã từng chiến đấu tại Bắc Việt, được người Pháp chuyển giao cho Hải Quân VNCH vào các năm 1953 – 1954. Sau này, khi nói tới Giang Ðoàn Xung Phong, các quân nhân Hải Quân thường nghĩ ngay tới Vùng IV Sông Ngòi với các giòng sông quen thuộc như Tiền Giang, Hậu Giang, Cái Lớn, Cái Bé, Ông Ðốc, Gành Hào v.v… cùng những con kinh nổi tiếng như Ðồng Tiến, Mang Thít, Chợ Gạo, Mỏ Cày, Xà No, Cái Sắn, Giang Thành v.v…

III. Giang Ðoàn Xung Phong

Ngay từ khi mới thành lập, Vùng IV Sông Ngòi đã có 4 Giang Ðoàn Xung Phong được phối trí như sau:

1. Giang Ðoàn 21 Xung Phong

Ðóng tại Mỹ Tho, gần Bắc Rạch Miễu trên đường đi sang Kiến Hòa. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho), Sông Hàm Luông (Kiến Hòa), Cửa Tiểu v.v…

2. Giang Ðoàn 23 Xung Phong

Ðóng tại Vĩnh Long, gần Bắc Cổ Chiên I trên đường đi sang quận Chợ Lách. Vùng hoạt động bao gồm sông Cổ Chiên, Cao Lãnh, Ðồng Tháp Mười v.v…

3. Giang Ðoàn 25 Xung Phong

Ðóng tại Cần Thơ, gần bến Ninh Kiều, chung với Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi. Vùng hoạt động gồm khu vực Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau v.v…

4. Giang Ðoàn 26 Xung Phong

Ðóng tại Long Xuyên, gần công viên Nguyễn Du. Vùng hoạt động bao gồm khu vực Sa Ðéc, Vàm Nao, Chợ Mới, Châu Ðốc, Tân Châu, Hồng Ngự lên tận biên giới Miên – Việt.

Những vùng hoạt động trên chỉ được phân chia theo lý thuyết vì trên thực tế, tùy theo nhu cầu hành quân, các Giang Ðoàn thường được du di điều động tăng phái hay xuất phái. Sau này, có thêm một số Giang Ðoàn Xung Phong được thành lập để đáp ứng với đòi hỏi của chiến trường. Thí dụ như là Giang Ðoàn 27 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Ðoàn 21 Xung Phong tại Mỹ Tho để trở thành Liên Giang Ðoàn 21/33 Xung Phong. Giang Ðoàn 31 Xung Phong đóng chung hậu cứ với Giang Ðoàn 23 Xung Phong tại Vĩnh Long để trở thành Liên Giang Ðoàn 23/31 Xung Phong và Giang Ðoàn 29 Xung Phong đóng chung với Giang Ðoàn 25 Xung Phong tại Cần Thơ để trở thành Liên Giang Ðoàn 25/29 Xung Phong.

CAC GIANG DINH CUA MOT GIANG DOAN XUNG PHONG TUAN TIEU TREN SONG.jpg

Mỗi Giang Ðoàn Xung Phong có bảng cấp số tương đương với một Tiểu Ðoàn Bộ Binh và được trang bị nhiều loại giang đĩnh có công dụng khác nhau như một hạm đội trong sông. Số giang đĩnh tiêu chuẩn được liệt kê đại cương như sau:

– 6 Tiểu Vận Ðĩnh (LCVP – Landing Craft Vehicle Personnel): Ðây là loại tầu mũi bằng, vỏ gỗ, một máy, có thể chở được chừng một trung đội bộ binh, với cửa đổ bộ mở xuống, kéo lên được bằng giây cáp. Tuy nhiên, các LCVP của Giang Ðoàn Xung Phong đã được biến cải với cửa đổ bộ được hàn kín. Những giang đĩnh này không còn được dùng để chở quân mà được dùng để rà mìn trong sông, nhất là trong những kinh, rạch nhỏ. Về hỏa lực, mỗi LCVP được trang bị một đại bác 20 ly trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui tại phòng lái. Thủy thủ đoàn LCVP gồm 4 người. LCVP thường hoạt động từng cặp để yểm trợ lẫn nhau.

– 6 Tiểu Giáp Ðĩnh (FOM): Vỏ sắt, mũi nhọn, một máy, vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng như Khu Trục Hạm trong hạm đội. Mỗi FOM được trang bị một đại liên 50 trước mũi, hai đại liên 30 bên hông và một đại liên 30 trên mui gần phòng lái. Thủy thủ đoàn FOM gồm 4 người và cũng hoạt động từng cặp như LCVP.

– 6 Trung Vận Ðĩnh (Landing Craft Medium LCM-6): Ðây là loại giang đĩnh mũi bằng, hai máy với cửa đổ bộ kéo bằng máy, có thể chở chừng một đại đội bộ binh. Vũ khí trang bị gồm một đại bác 20 ly phía sau lái, hai đại bác 20 ly bên hông và hai đại liên 30 trong phòng lái.

– 1 Giang Ðĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin (Monitor Commandement): Ðây là loại giang đĩnh LCM-6 biến cải, có phòng ngủ sĩ quan, máy truyền tin để đặt bộ chỉ huy hành quân. Vũ khí trang bị gồm một hầm súng cối 81 ly đặt dưới lòng tầu, một đại bác 20 ly phía sau lái và hai đại liên 30 trong phòng lái.

– 1 Thiết Giáp Ðĩnh (Monitor Combat): Cũng là loại LCM-6 biến cải, nhưng với vỏ sắt dầy hơn với pháo tháp đại bác 40 ly gắn trước mũi chung với đại liên 50. Ngoài ra, còn có một đại bác 20 phía sau lái, 2 đại liên 50 bên hông và một hầm súng cối 81 ly giống như Giang Ðĩnh Chỉ Huy và Truyền Tin. Thiết Giáp Ðĩnh có hỏa lực mạnh nhất trong các giang đĩnh và được coi như Thiết Giáp Hạm trong sông.

Theo tiêu chuẩn, mỗi Giang Ðoàn Xung Phong có chừng 20 giang đĩnh đủ loại, được tổ chức tương tự như một hạm đội ngoài biển. Sau này, đa số các số Giang Ðoàn được trang bị loại giang đĩnh RPC (River Patrol Craft) hai máy để thay thế cho một số FOM cũ kỹ bị phế thải và còn thêm loại LCM-8 có khả năng chở Thiết Vận Xa và đại bác của Pháo Binh. Một số đơn vị còn có tới 2 Monitor Combat hay Commandemant. Tuy số lượng và loại Giang Ðĩnh có thể không giống nhau, nhưng tựu chung, mỗi Giang Ðoàn đều có khả năng tác chiến giống nhau, có thể thực hiện những cuộc hành quân phối hợp thủy-bộ biệt lập với khoảng 1 Tiểu Ðoàn Bộ Binh.

IV. Giang Ðoàn 26 Xung Phong

Ðây là một trong những đơn vị chuyên hoạt động trong sông kỳ cựu nhất của Hải Quân VNCH. Các giang đĩnh của Giang Ðoàn này phần lớn đã tham chiến tại các mặt trận lừng danh ở Bắc Việt trước năm 1954 trong thời kỳ chiến tranh Việt – Pháp. Tiền thân của Giang Ðoàn 26 Xung Phong là các Dinassault của Pháp đã từng đóng những vai trò vô cùng quan yếu tại các chiến trường nổi tiếng Sông Lô, Việt Trì, Nam Ðịnh, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Sông Ðáy v.v…

Hậu cứ của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đặt tại trại Vân Ðồn thuộc tỉnh Long Xuyên, một thị trấn xinh đẹp, hiền hòa nằm ven bờ sông Hậu. Vùng hoạt động của đơn vị bao gồm các tỉnh An Giang, Sa Ðéc, Cao Lãnh và Châu Ðốc lên tới tận miền biên giới Miên – Việt. Tuy chịu trách nhiệm tại vùng có đông tín đồ Hòa Hảo tương đối an ninh, nhưng giang đĩnh của đơn vị thường phải phân tán và xé lẻ để có thể tuần tiễu khu vực trách nhiệm khá rộng lớn có nhiều sông rạch, hoặc phối hợp hành quân thủy – bộ hay yểm trợ, tiếp tế cho các đồn bót hẻo lánh ven sông. Các giang đĩnh luôn luôn tăng phái thường trực tại vùng biên giới Miên – Việt thuộc các quận Tân Châu – Hồng Ngự hay tỉnh Châu Ðốc. Ngoài ra, đôi khi vì nhu cầu hành quân, một số giang đĩnh còn được tăng cường phối hợp với Giang Ðoàn 25 đóng tại Cần Thơ để phối hợp hành quân với Sư Ðoàn 21 Bộ Binh tại các vùng Cà Mau, Chương Thiện, Rạch Giá v…

Vào khoảng đầu thập niên 1970, cùng với chương trình tối tân hóa và bành trướng của Hải Quân, Long Xuyên trở thành một Căn Cứ Hải Quân lớn. Giang Ðoàn 26 Xung Phong vẫn tiếp tục trú đóng tại đây, chung hậu với các đơn vị bạn mới được thành lập như Tiền Doanh Yểm Trợ, Bệnh Xá, Giang Ðoàn Tuần Thám v.v…

V. Cộng Quân Phong Tỏa Hồng Ngự

Hồng Ngự (Xem Bản Ðồ Hồng Ngự) là một quận lỵ cực Bắc của tỉnh Kiến Phong, nằm trên bờ Ðông của Sông Cửu Long. Chỉ có một con đường bộ duy nhất nối liền với tỉnh lỵ Cao Lãnh, xuyên qua kinh Ðồng Tiến và quận Kiến Văn. Ðối diện với quận lỵ là cù lao Long Khánh trù phú, dân cư đông đúc với những vườn cây trái xum xuê, rậm rạp. Ðặc biệt, mỏm Bắc của Cù Lao và vùng đất bồi do phù sa của Sông Cửu Long tích tụ hàng năm. Trên đầu doi này có một ngôi đình cổ không biết được xây cất từ bao giờ tọa lạc trên một thế đất cao như một ngọn đồi. Từ ngôi đình cổ hoang vắng, người ta có thể quan sát được một vùng sông nước mênh mông bát ngát với những bờ sông cát trắng, nước trong xanh, phong cảnh hùng vĩ hữu tình tuyệt đẹp.

Ranh giới của quận Hồng Ngự về phía Bắc và Ðông Bắc gồm vùng biên giới Miên – Việt, chạy dài tới tận tiền đồn biên phòng Cái Cái giáp ranh tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa). Phía Tây là sông Cửu Long giáp quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang (Long Xuyên). Về phía Tây Bắc, nằm trên bờ Tây của sông Cửu Long chỉ cách Hồng Ngự chừng 5, 6 cây số là quận Tân Châu cũng thuộc tỉnh An Giang. Tại Tân Châu có một đơn vị Hải Quân là Giang Ðoàn 58 Tuần Thám trấn đóng, Phía Nam giáp kinh Ðồng Tiến với khu vực Phước Xuyên trong vùng Ðồng Tháp Mười nổi tiếng chạy dài tới quận Kiến Văn.

Hồng Ngự chiếm địa thế quan trọng nằm ngay yết hầu thủy lộ sông Cửu Long và chặn đường xâm nhập của Cộng Quân từ Cam Bốt tràn xuống. Phần lớn những đồn bót thuộc Chi Khu Hồng Ngự đều nằm dọc ven sông và vùng biên giới để có thể phát hiện và ngăn chặn mọi di chuyển của địch quân. Vì địa thế gồm nhiều sông, kinh, rạch lớn nhỏ nên thông thường có một đơn vị Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để lo việc hành quân, phòng thủ cũng như tiếp tế cho các đồn bót ven sông.

Vào khoảng tháng 3 năm 1973, chiến cuộc tại Miền Nam Việt Nam trở nên vô cùng sôi động sau những cuộc cường tập của Cộng Quân vào khắp 4 vùng Chiến Thuật sau Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Bên quốc gia láng giềng Cam Bốt, sự tranh chấp cũng đã tới giai đoạn quyết liệt một mất một còn. Cộng quân chiếm được ưu thế, cắt đứt đường tiếp vận quan trọng từ hải cảng Sihanoukville (Kompong Som) về thủ đô Nam Vang. Phi trường Pocheng Tong nằm trong tầm đạn pháo kích nên phi cơ tiếp vận lên xuống rất nguy hiểm và khó khăn. Có thể nói Nam Vang đã bị Cộng quân vây chặt khiến mọi quân dụng, vũ khí, đạn được v.v… cũng như mọi nhu yếu phẩm như gạo, dầu nhớt v.v… tối cần cho sự sống còn của chính quyền Lon Nol không thể nào đưa lọt vào thủ đô Cam Bốt bằng đường bộ cũng như đường hàng không.

Vì vậy, phương tiện duy nhất còn lại để tiếp tế cho Cam Bốt là sông Cửu Long. Thủy lộ này chạy dài từ cửa biển Vũng Tầu, qua bắc Mỹ Thuận, Hồng Ngự, Tân Châu trong lãnh thổ VNCH vượt bến phà Neak Luoeng tới thủ đô Nam Vang. Thủy lộ từ Vũng Tàu lên đến biên giới Miên – Việt thuộc các quận Tân Châu, Hồng Ngự dài khoảng 150 hải lý. Các tầu biển từ Vũng tầu lên Nam Vang thường neo nghỉ đêm tại Ngã Ba Ðèn Ðỏ gần Bắc Mỹ Thuận thuộc tỉnh Vĩnh Long trước khi ngược giòng Cửu Long tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến Tân Châu, các thương thuyền lại ngừng một lần nữa neo nghỉ đêm để quan thuế và thay đổi hoa tiêu trước khi vượt biên giới sang Cam Bốt. Ðiểm neo cuối cùng của các thương thuyền trong lãnh thổ Việt Nam này là ngã ba sông ngay trước quận Tân Châu.

Biết được sông Cửu Long là đường huyết mạch duy nhất còn lại có thể giúp cho chính quyền Lon Nol và cả nuớc Cam Bốt sống thoi thóp, Cộng quân quyết định mở một chiến dịch lớn nhằm bóp nghẹt thủy lộ tiếp vận sinh tử này bằng cách chiếm giữ khu vực quận Hồng Ngự. Nếu thành công, Cộng quân sẽ cắt đứt được thủy lộ qua Nam Vang, và thừa thắng, chúng có thể tràn sâu xuống vùng Kiến Tường – Mộc Hóa để tạo áp lực dọc Quốc Lộ 4 thuộc khu vực tỉnh Ðịnh Tuờng là trục lộ tối quan trọng từ Vùng IV về thủ đô Sài Gòn.

Ðể thực hiện ý đồ, khởi đầu, Cộng quân dàn một lực lượng chủ lực quân khá hùng hậu dọc theo vùng biên giới Miên – Việt thuộc các tỉnh Kiến Phong, Châu Ðốc, An Giang và Rạch Giá để nghi binh và tạo áp lực. Ðối diện bên phần đất Cam Bốt, khu vực thuộc các tỉnh Prey Veng, Kandal và Takeo cũng bị chúng tràn ngập. Lúc đó, vào đầu năm 1973, lực lượng Việt Cộng tại vùng này có tới 11 Trung Ðoàn chủ lực cộng thêm quân Khmer đỏ. Ngoại trừ từ 3 tới 4 Trung Ðoàn được phối trí trong phần đất Cam Bốt nhằm mục đích cầm chân lực lượng của Lon Nol, tất cả những đơn vị còn lại đều được xử dụng để tấn công vào khu vực Hồng Ngự.

Vì vậy, tình hình khu vực sông Cửu Long sát biên giới Miên – Việt thuộc khu vực Hồng Ngự trở nên vô cùng trầm trọng vì đôi bên đều quyết tâm dành quyền kiểm soát khu vực có tầm mức chiến lược vô cùng quan yếu này. Cộng quân dùng toàn lực cắt đứt thủy lộ sông Cửu Long để cô lập Cam Bốt và củng cố các trục xâm nhập vào Việt Nam qua ngả biên giới. Phía Hoa Kỳ không còn cách nào khác, phải tiếp tục tiếp tế cho Cam Bốt bằng mọi giá. Lúc đó, đa số các lực lượng tác chiến Hoa Kỳ đều đã rút khỏi Việt Nam trong khuôn khổ thỏa ước ngưng bắn Paris. Một số ít còn lại còn bị các đạo luật Cooper – Church của Quốc Hội Hoa Kỳ ngăn cấm không được than dự các cuộc hành quân bộ chiến ngoài biên giới Việt Nam. Vì vậy, chỉ còn các đơn vị QLVNCH để ngăn chặn đường xâm nhập người và vũ khí của địch quân, và cũng để bảo vệ thủy lộ Cửu Long để việc tiếp tế cho đồng minh Cam Bốt không bị ngưng trệ.

Cộng quân mở đầu chiến dịch bằng cách phong tỏa, tạo áp lực nặng nề mong đánh chiếm quận Hồng Ngự, một thị trấn nhỏ nằm ngay trên cửa rạch Hồng Ngự đổ vào sông Cửu Long. Như trên đã nói, nếu chiếm được Hồng Ngự, không những chúng sẽ khóa chặt được yết hầu của thủy lộ Cửu Long từ Việt Nam sang Cam Bốt, mà đồng thời cũng mở rộng được địa bàn hoạt động và cánh cửa xâm nhập từ Cam Bốt vào khu vực Ðồng Tháp Mười khiến Quốc Lộ 4 từ Hậu Giang về thủ đô Sài Gòn cũng bị đe dọa.

Vào tháng 3 năm 1973, Cộng quân tập trung một lực lượng đông đảo lên tới cấp Sư Ðoàn để tiến chiếm mục tiêu Hồng Ngự. Bộ chỉ huy chiến dịch của Cộng quân đóng tại khu vực Hậu Cần 704 thuộc tỉnh Prey Veng bên Cam Bốt, giáp ranh tỉnh Kiến Phong. Các đơn vị Cộng quân gồm Trung Ðoàn 207 thuộc Công Trường 6, Trung Ðoàn 174 thuộc Công Trường 5, Trung Ðoàn 272 thuộc Công Trường 9 (theo tin tình báo, thành phần còn lại của Công Trường 9 vẫn còn lẩn quẩn tại khu vực rừng cao su Michelin (Dầu Tiếng) thuộc Quân Khu III) và một đơn vị pháo thuộc Trung Ðoàn Pháo 75. So sánh lực lượng đôi bên, Cộng quân hoàn toàn chiếm ưu thế, vừa đông quân, vừa di động, lại có pháo tầm xa hạng nặng yểm trợ. Lực lượng phòng thủ quận Hồng Ngự nhỏ bé không có Chủ Lực Quân, chỉ có Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân cơ hữu và một số giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong tăng phái phòng thủ. Ngoài ra, với những đồn bót cố định phòng thủ sơ sài, các đơn vị cơ hữu của Chi Khu Hồng Ngự là mục tiêu rõ ràng và mồi ngon cho đạn pháo binh Việt Cộng. Chỉ có những giang đĩnh Hải Quân tăng phái với khả năng di động và hỏa lực mạnh trấn giữ mặt sông mới có khả năng chống trả và làm khó dễ được địch quân.

Trung Ðoàn 207 của Cộng quân được xử dụng làm nỗ lực xung kích chính vượt biên giới đánh thẳng vào Hồng Ngự. Lợi dụng yếu tố bất ngờ và hỏa lực mạnh, địch quân dùng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung và Biển Người tràn ngập một số đồn bót hẻo lánh gần biên giới hay dọc theo kinh rạch do Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự trấn đóng. Ða số những đồn bót khác nằm sâu hơn trong lãnh thổ Việt Nam tuy chưa bị đánh chiếm nhưng cũng bị Cộng quân bao vây, cô lập và uy hiếp nặng nề khiến việc tăng viện hay tiếp tế hầu như không thể thực hiện nổi.

Tuy bị lực lượng địch quân có hỏa lực mạnh và đông hơn gấp bội tấn công bất ngờ, các chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự lợi dụng địa hình quen thuộc đã chống trả hữu hiệu, tạm thời chặn được bước tiến của địch quân vào quận lỵ. Nhưng trước lực lượng đông đảo của quân chính qui Bắc Việt, phía VNCH chỉ có những đơn vị cơ hữu của Chi Khu chống giữ nên tình hình rất khẩn trương, quận Hồng Ngự có thể bị mất bất cứ lúc nào. Càng ngày, vòng vây của Cộng quân càng xiết chặt. Chúng bắn hàng trăm hỏa tiễn 122 ly vào quận lỵ gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như tài sản của dân chúng. Quận Trưởng Hồng Ngự là Thiếu Tá Thái Lê Trương, một sĩ quan trẻ, xuất sắc trước đây thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh, tuy đã anh dũng điều động các đơn vị trực thuộc chống trả, nhưng trước tình trạng tuyệt vọng, đã liên tiếp yêu cầu Tiểu Khu Kiến Phong xin Chủ Lực Quân tăng viện khẩn cấp.

Trong lúc đó, về phía Hoa Kỳ, các Pháo Ðài Bay B-52 và các phi cơ chiến lược liên tiếp dội bom vào các vị trí Cộng quân dọc theo bờ Ðông sông Cửu Long từ biên giới Miên – Việt tới Nam Vang để ngăn chặn địch phong tỏa thủy lộ. Những trận dội bom nay đã gây thiệt hại khá nặng cho lực lượng Cộng quân trên đường đánh chiếm Hồng Ngự khiến đà tiến của chúng bị chậm lại phần nào. Ðặc biệt, trong cuộc oanh tạc của Pháo Ðài Bay B-52 vào ngày 20 tháng 3, Cộng quân phải bắt dân dùng xe bò chở đi hàng trăm xác chết và mùi tử khí vẫn còn nồng nặc cả tuần sau đó.

Trong khi chờ đợi quân bộ chiến tới tăng viện, Tiểu Khu Kiến Phong yêu cầu Hải Quân tiếp ứng để ngăn chận Cộng quân tràn qua sông Cửu Long cũng nhu Rạch Hồng Ngự đánh chiếm quận lỵ. Nhưng lực lượng Hải Quân thuộc Vùng IV Sông Ngòi lúc đó chỉ có Giang Ðoàn 31 Xung Phong đã tăng phái chi Tiểu Khu Kiến Phong, lại đang bận hành quân tại vùng Ðồng Tháp Mười giáp ranh tỉnh Ðịnh Tường nên không giúp đỡ gì được. Vì vậy, một phân đội giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang hoạt động với Chi Khu Tân Châu thuộc tỉnh An Giang liền được điều động đến tăng viện chi Chi Khu Hồng Ngự. Tuy chỉ có một số giang đĩnh nhưng phân đội này đã ngày đêm tuần tiễu, phục kích, bắn chìm nhiều xuồng chở quân của địch mưu toan di chuyển từ bờ Ðông sông Cửu Long sang cù lao Long Khánh. Vì vậy, áp lực của Cộng quân tương đối giảm vì một gọng kìm tấn công của địch quân đã bị Hải Quân bẻ gẫy.

Nhưng những cuộc dội bom của Không Quân Hoa Kỳ cộng thêm sự yểm trợ ban đầu tại các vùng ven sông rất đắc lực của Hải Quân cũng chỉ có thể giúp các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân tạm thời cầm cự. Viện quân của địch tự do tràn qua vùng biên giới bỏ ngỏ mỗi ngày một tiến gần mục tiêu từ hướng sâu trong nội địa khiến tình hình lại thêm khẩn trương. Một lần nữa, Thiếu tá Trương lại hối thúc Tiểu Khu Kiến Phong xin tăng viện gấp.

VI. Giang Ðoàn 26 Xung Phong Tham Chiến

(Xem Phóng Ðồ Hành Quân)

Trước tình thế mỗi lúc mỗi nguy ngập một mất một còn của Chi Khu Hồng Ngự, Tiểu Khu Kiến Phong vội liên lạc với Quân Ðoàn IV tại Cần Thơ để cầu cứu. Nhưng lúc đó, các đơn vị bộ binh thuộc Sư Ðoàn 9 là đại đơn vị chủ lực chịu trách nhiệm lãnh thổ Tiểu Khu Kiến Phong đang bận tham chiến tại các mặt trận khác nên không thể nào tiếp viện kịp thời. Một lần nữa, Hải Quân lại đảm đang trọng trách. Theo yêu cầu khẩn cấp của Quân Ðoàn IV, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi do Hải Quân Ðại Tá Vũ Ðình Ðào (sau này được vinh thăng Phó Ðề Ðốc) chỉ huy, liền tức tốc ra lệnh Giang Ðoàn 26 Xung Phong rút tất cả các giang đĩnh đang tăng phái ở các nơi khác về tập trung tại hậu cứ Long Xuyên chờ lệnh. Sau đó, toàn bộ Giang Ðoàn do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm chỉ huy liền được điều động lên chiến trường Hồng Ngự, cùng với toán giang đĩnh đang hoạt động tại đó để tăng cường lực lượng phòng thủ Chi Khu Hồng Ngự.

Ngay khi tới vùng hành quân, các giang đĩnh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã phải trực tiếp đương đầu với hỏa lực nặng nề của Cộng quân từ hai bờ sông chờ sẵn. Ðoán biết trước các giang đĩnh Hải Quân là lực lượng tăng viện duy nhất, địch quân đào sẵn các hầm hố, công sự kiên cố bố trí súng nặng bên bờ sông để ngăn chận. Rất may, khúc sông Cửu Long quanh Hồng Ngự khá rộng nên chúng không gây được thiệt hại nào đáng kể. Theo kế hoạch phòng thủ hoạch định với Chi Khu, các giang đĩnh được xử dụng như những đồn bót di động dàn dọc theo bờ sông như bức tường thành để ngày đêm bắn chặn, không cho địch quân di chuyển qua sông. Ngoài nhiệm vụ chặn địch, những giang đĩnh này còn đảm trách việc yểm trợ hỏa lực cũng như tản thương và tiếp tế cho các đồn bót ven sông đã bị địch vây hãm từ lâu.

Với sự chiến đấu quả cảm của các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu thuộc Chi Khu Hồng Ngự, cộng với các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong ngày đêm tuần tiễu và yểm trợ rất hữu hiệu, Cộng quân tạm thời bị chận đứng. Mũi dùi quan trọng của địch quân toan đánh bọc vào sườn phía Tây của Chi Khu Hồng Ngự bị Hải Quân bẻ gẫy vì chúng không thể vượt qua sông, do đó địch chưa thể chiếm được quận lỵ. Tuy mặt Tây đã có Hải Quân trấn giữ nên tạm thời ổn định, nhưng tình hình tại mặt Bắc lại trở nên vô cùng nguy ngập vì địch quân đã tiến sát bờ rạch Hồng Ngự, chì còn cách Chi Khu vài ba cây số. Hàng ngày, Cộng quân dùng đủ mọi loại vũ khí, kể cả súng bắn thẳng pháo kích vào Hồng Ngự. Các giang đĩnh án ngữ trên mặt sông để chặn địch cũng bị nhắm bắn dữ dội.

VII. Lực Lượng VNCH Tăng Viện

Mãi tới khoảng trung tuần tháng 4 năm 1973, Sư Ðoàn 9 Bộ Binh mới tương đối rảnh tay ở những mặt trận khác nên điều động Trung Ðoàn 15 Bộ Binh và Chi Ðoàn 2 Thiết Quân Vận tới tăng viện. Sư Ðoàn 9 Bộ Binh lúc đó do Chuẩn Tướng Trần Bá Di chỉ huy, còn Trung Ðoàn 15 Bộ Binh do Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn làm Trung Ðoàn Trưởng. Vào cuối tháng 4 năm 1975, Ðại Tá Cẩn là Tỉnh Trưởng Chương Thiện, đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Ông bị Việt Cộng bắt đưa về xử tử tại sân vận động Cần Thơ.

Về phía Hải Quân, một Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ngọc Bích xuất thân khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy cũng được gấp rút thành lập để phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ Binh tại chiến trường Hồng Ngự. Liên Ðoàn này được đặt dưới sự điều động của Lực Lượng Ðặc Nhiệm 212 tức là Lực Lượng Tuần Thám do Hải Quân Ðại Tá Nghiêm Văn Phú làm đơn vị trưởng. Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân gồm có các đơn vị sau đây:

  1. Giang Ðoàn 26 Xung Phong do Hải Quân Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm chỉ huy. Ðơn vị này đã tham chiến từ trước.
  2. Một phân đội Giang Tốc Ðĩnh (PBR – Patrol Boat River) thuộc Giang Ðoàn 58 Tuần Thám do Thiếu Tá Trần Thanh Khải chỉ huy. Thành phần còn lại của Giang Ðoàn này đang tăng cường mặt trận Phước Xuyên và Tuyên Nhơn trong vùng Ðồng Tháp Mười. Hậu cứ của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám đặt tại Tân Châu.
  3. Cơ Xưởng Hạm 9613 do Ðại Úy Cơ Khí Nguyễn Duy Tuệ chỉ huy. Ðây không phải là một chiến hạm có máy để tự vận chuyển mà chỉ là một cơ xưởng sửa chữa và tiếp vận nổi neo tại An Long ngay vàm kinh Ðồng Tiến. Cơ Xưởng Hạm này được dùng làm trạm sửa chữa và tiếp vận tiền phương cho các giang đĩnh và cũng là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm.
  4. Tiền Doanh Yểm Trợ Chợ Mới là căn cứ tiếp vận chính, đồn trú tại Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên do Hải Quân Thiếu tá Phạm Văn Tiêu xuất thân khóa 7 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang chỉ huy.
  5. Giang Pháo Hạm 328 do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm hạm trưởng. Thiếu Tá Phú xuất thân khóa 16 Trường Võ Bị Ðà Lạt, nhưng chọn quân chủng Hải Quân sau khi tốt nghiệp nên tiếp tục theo học khóa 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Chiến hạm này do Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi.

Trong số các đơn vị Hải Quân kể trên, Giang Ðoàn 26 Xung Phong được coi là thành phần chủ lực gồm toàn bộ 19 giang đĩnh đủ loại tham chiến, với đầy đủ khả năng hành quân thủy bộ, yểm trợ hải pháo, chuyển vận, tuần tiễu, án ngữ cũng như tiếp tế. Các giang đĩnh PBR có vận tốc cao, vận chuyển lẹ làng thường được xử dụng trong các cuộc tuần thám và phục kích ban đêm. Chiến hạm tăng phái với các loại đại bác 76 ly và 40 ly đảm trách nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị hành quân.

Ngay khi lực lượng tăng viện tới vùng hoạt động, các đơn vị trưởng lập tức bàn thảo kế hoạch giải tỏa áp lực địch trong vùng và nhất là quét sạch địch quân bố trí tại bờ Ðông sông Cửu Long từ Hồng Ngự lên tới biên giới Miên – Việt. Lúc này, tuy lực lượng địch còn rất mạnh vì chúng chiếm giữ khu vực ven sông ngay phía bắc Chi Khu, nhưng cán cân lực lượng đôi bên không còn chênh lệch nhiều như trước. Hơn nữa, các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân cơ hữu được tăng viện và yểm trợ hữu hiệu nên lên tinh thần, chiến đấu rất hăng hái.

VIII. Các Trận Ðánh Quan Trọng

Liên tiếp trong khoảng thời gian chừng hai tháng (từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1973), các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã tích cực đóng góp vào nỗ lực bảo vệ quân Hồng Ngự chống lại áp lực của Trung Ðoàn 207 Cộng quân. Ngoài nhiện vụ tuần tiễu thường xuyên để ngăn chận địch quân xâm nhập bằng đường sông cũng như phối hợp, yểm trợ Trung Ðoàn 15 Bộ Binh và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hồng Ngự, Giang Ðoàn 26 Xung Phong còn trực tiếp tham dự vào nhiều trận đánh lớn quan trọng.

1. Trận Ðánh Tại Rạch Hồng Ngự

Ngay khi Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh vừa đến vùng Hồng Ngự, Thiếu Tá Thái Lê Trương, Chi Khu Trưởng đã yêu cầu các đơn vị Bộ Binh và Hải Quân tăng phái tìm mọi cách đẩy lui địch khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự. Lý do vì tuy Cộng quân tuy không vượt được con rạch để đánh chiếm Chi Khu, nhưng chúng vẫn hàng ngày pháo kích vào quân Hồng Ngự, gây thiệt hại nặng nề cho dân chúng. Rạch Hồng Ngự ăn thông với rạch Cái Cái chạy tới biên giới Việt – Miên, rộng chừng 100 thước, từ trước tới nay vẫn là “giới tuyến” của đôi bên. Cộng quân tuy chiếm giữ được mặt Bắc nhưng không thể vượt qua con rạch vì bị các giang đĩnh Hải Quân chận đứng. Trong khi đó, lực lượng phòng thủ tuy giữ được mặt Nam nhưng lại không có đủ lực lượng đổ bộ để đẩy lui địch quân. Vùng chợ Hồng Ngự nằm ở mặt Nam tuy chỉ cách Chi Khu chừng một cây số, nhiều khi đã được coi như vùng “sôi đậu” vì địch quân xâm nhập.

Sau khi phối hợp với Trung Ðoàn 15 BB và Chi Khu theo kế hoạch hành quân, Giang Ðoàn 26 Xung Phong lãnh nhiệm vụ dùng 4 LCM-6 chở một Tiểu Ðoàn Bộ Binh sang sông bằng hai đợt. Khi nhiệm vụ chuyển quân hoàn tất, các giang đĩnh sẽ tuần tiễu, án ngữ và yểm trợ cho lực lượng Bộ Binh càn quét bờ Bắc. Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong chịu trách nhiệm chỉ huy cuộc hành quân đổ bộ, Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh có nhiệm vụ chỉ huy cánh quân sau khi đổ bộ để tiêu diệt địch quân trong vùng mục tiêu chỉ định.

Ðể các giang đĩnh chở quân ủi bãi dễ dàng, Giang Ðoàn 26 Xung Phong chọn giờ đổ quân vào lúc hừng sáng khi mực thủy triều cao nhất để bộ binh có thể lên bờ không bị trở ngại và tràn vào mục tiêu cùng một lúc. Hơn nữa, việc nhận quân vào lúc ban đêm tại bãi ủi ngoài bờ sông Cửu Long nằm về phía Nam Chi Khu Hồng Ngự cũng có thể tránh địch pháo kích và khiến chúng không thể quan sát hay đoán biết ý đồ hành quân.

Theo đúng kế hoạch, sau khi nhận quân, đoàn giang đĩnh di chuyển dọc theo bờ Ðông sông Cửu Long, quẹo phải vào rạch Hồng Ngự đúng giờ dự trù. Tuy con rạch rộng chừng 100 thước, nhưng có rất nhiều hàng đáy của dân đánh cá nên phải di chuyển rất chậm và khó khăn. Một số giang đĩnh yểm trợ gồm LCVP và FOM đi trước dẫn đường, vào sâu trong rạch quá mục tiêu chừng ba cây số, gần một đồn Nghĩa Quân rồi tác xạ dữ dội quanh đồn như để yểm trợ hỏa lực để làm kế hoạch nghi binh. Các giang đĩnh chở quân theo sau vào điểm đổ quân đúng lúc hừng sáng. Chỉ trong vòng 15 phút, nửa Tiểu Ðoàn Bộ Binh đã lên bờ, thiết lập đầu cầu an toàn. Nửa Tiểu Ðoàn còn lại được các LCM-6 đưa thẳng từ bờ Nam qua. Trong lúc lực lượng Bộ Binh chia thành nhiều mũi tiến chiếm các mục tiêu được chỉ định trước, các giang đĩnh Hải Quân di chuyển qua bờ Nam ủi bãi rải rác để sẵn sàng yểm trợ cho cánh quân đổ bộ khi cần.

Khi trời vừa sáng rõ, Cộng quân từ các công sự phòng thủ kiên cố tuy bị bất ngờ nhưng cũng chống trả dữ dội. Từng loạt thượng liên và AK bắn xối xả vào các chiến sĩ Bộ Binh đang lăn xả vào mục tiêu. Nhưng địch phản ứng quá trễ, các chiến sĩ Trung Ðoàn 15 đã tiến đến quá gần, từng trái lựu đạn, từng loạt đạn M-79 thẩy vào hầm hố của chúng khiến nhiều tên bị tan thây tại chỗ. Trận đánh chớp nhoáng kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, nguyên một Tiểu Ðoàn Cộng quân coi như bị diệt gọn. Tuy nhiên, còn một vị trí súng cối 82 ly được một tổ thượng liên và một toán B-40 yểm trợ vẫn còn hoạt động. Cả ba ổ súng này bố trí theo hìng tam giác, liên hoàn yểm trợ lẫn nhau gây trở ngại không ít cho các chiến sĩ Bộ Binh, sau nhiều đợt xung phong bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không sao tiêu diệt được.

Tại bờ rạch phía Nam, trên giang đĩnh chỉ huy nơi đặt Bộ Chỉ Huy hành quân thủy bộ gồm Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong và Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh, mọi người đều nhìn thấy rõ ràng toán Bộ Binh bò sát đất lẻn vào gần vị trí của Cộng quân, nhưng các ổ súng của chúng đều được chôn dấu kỹ trong các công sự đằp bằng đất rất dầy nên lựu đạn và M-79 không phá tan được. Vì vậy, sau nhiều đợt xung phong không những vô hiệu quả, còn có một số binh thương vong. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng Bộ Binh nôn nóng ra lệnh cho binh sĩ tìm đủ mọi cách tấn công tiếp, nhưng vẫn bị chận lại, còn thêm một số binh sĩ vừa chết vừa bị thương kẹt dưới lằn đạn của đối phương. Ðể tránh thiệt hại thêm cho lực lượng bạn, Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong đề nghị dùng súng cối 81 ly cơ hữu trên giang đĩnh liên tiếp bắn phủ đầu vào mục tiêu để địch khó ngóc đầu lên quan sát, đồng thời cho Thiết Giáp Ðĩnh “Monitor Combat” với đại bác 40 trực xạ sẽ bất thần tiến sang bên kia sông, chỉ các mục tiêu chừng 300 thước, dùng đại bác 40 ly bắn thẳng vào các ụ đất để san phẳng các ổ súng địch. Tuy nhiên, việc xử dụng hỏa lực Hải Quân bắn thẳng này có thể gây thiệt hại cho số bộ binh đang nằm kẹt giữa mục tiêu và lằn đạn Hải Quân.

Tuy kế hoạch hơi nguy hiểm, nhưng vì không còn lựa chọn nào khác nên được đồng ý và thi hành ngay. Chiếc giang đĩnh chỉ huy rời bãi ủi tiến ra giữa lòng rạch, vừa chạy thật chậm, vừa tác xạ súng cối. Chiếc Thiết Giáp Ðĩnh cũng lập tức tiến sang bờ rạch bên kia, pháo tháp 40 điều chỉnh nhắm thẳng vào mục tiêu trong khi khẩu đại liên 50 gắn chung trong pháo tháp khạc đạn liên hồi để mở đường. Khi đã ủi bãi vào vị trí thuận tiện, khẩu 40 ly lập tức bắn từng loạt đạn vào các ụ đất đặt súng của địch quân. Vì khoảng cách không xa, vị trí của giang đĩnh lại cố định nên việc tác xạ rất chính xác và hiệu quả. Mỗi viên đạn bắn trúng mục tiêu lại thổi bay đi một mảng đất lớn. Sau chừng 50 viên đạn, Cộng quân dường như đoán được ý định của lực lượng tấn công nên chuyển xạ, quay súng nhắm vào các giang đĩnh bắn trả dữ dội. Các ổ thượng liên và B-40 nhắm vào chiếc Thiết Giáp Ðĩnh, trong lúc hàng loạt đạn súng cối bắn ra ngoài rạch nhắm vào các giang đĩnh đang tuần tiễu. Tuy là những mục tiêu lớn và trống trải dưới hỏa lực của Cộng quân, nhưng các giang đĩnh vẫn bám sát khu vực hành quân. Nhiều quả đạn súng cối rơi sát giang đĩnh chỉ huy khiến một số thủy thủ và bộ binh trên giang đĩnh bị thương vì trúng mảnh đạn. Nhưng địch đã không còn đường thoát. Chỉ trong khoảnh khắc, các quả đạn 40 ly liên tiếp bắn trúng mục tiêu đã san bằng những vị trí đặt súng cố thủ cuối cùng của chúng. Khi tiếng súng địch im hẳn trên chiến trường, toán bộ binh trên bờ lập tức tiến vào lục soát các mục tiêu vừa bị Hải Quân bắn phá. Kết quả họ tịch thu được 1 khẩu súng cối 82 ly, 1 thượng liên, 2 khẩu B-40 và 7 khẩu AK.

Kết quả trong trận đánh quan trọng này, địch quân bị đẩy lui khỏi bờ Bắc rạch Hồng Ngự, áp lực của chúng coi như không còn đáng kể. Phía Bộ Binh bị thiệt hại trung bình. Phía Hải Quân, nhiều giang đĩnh bị trúng đạn địch quân nhưng không có chiếc nào bị chìm hay bất khiển dụng. Về nhân sự chỉ có 5 người bị thương, 1 nặng, 4 trung bình. Khi nhận được công điện báo cáo kết qủa hành quân, thượng cấp chỉ thị Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong dù đã bị thương, nhưng không nặng lắm nên vẫn tiếp tục ở lại vùng hành quân, không tản thương cho đến khi có lệnh mới.

https://benxua.files.wordpress.com/2018/12/FOM-mau-nguy-trang..jpg?w=426&h=641

2. Trận Ðánh Tại Thường Phước

Bị đánh bật ra khỏi khu vực Hồng Ngự, Cộng quân tuy bị thiệt hại khá nặng nhưng chúng vẫn lì lợm cố bám chặt khu Thường Phước nằm trên bờ Ðông sông Cửu Long, đối diện Tân Châu đến biên giới. Tuy không chiếm được Hồng Ngự để khống chế thủy lộ sông Cửu Long, nhưng địch vẫn còn đủ lực lượng phong tỏa bờ Ðông để ngăn chận các thương thuyền từ Việt Nam lên tiếp tế Nam Vang.

Khúc sông ngay trước mặt quân Tân Châu là nơi thương thuyền tập trung để quan thuế kiểm soát và chuẩn bị trước khi ngược dòng Cửu Long. Ðây là điểm neo thứ nhì trên đường đi Nam Vang, sau điểm neo gần Bắc Mỹ Thuận tại khu vực Ngã Ba Ðèn Ðỏ. Nếu Cộng quân còn kiểm soát dược vùng Thường Phước đối diện, không những các thương thuyền tại điểm neo bị đe dọa, mà ngay cả quận Tân Châu thuộc tỉnh An Giang cũng nằm trong tầm pháo kích của chúng.

Về địa thế, Thường Phước là một vùng đất bằng với nhiều cánh đồng trống trải kéo dài tới tận bờ sông đối diện Tân Châu. Bờ sông Cửu Long tại vùng này là phía đất bồi, trong khi Tân Châu là bờ đất lở. Dân cư tại đây rất thưa thớt, đa số sống về nghề ruộng rẫy.

Khi cánh quân của Trung Ðoàn 15 Bộ Binh có Hải Quân yểm trợ từ Hồng Ngự đánh dần lên hướng Tây Bắc, Cộng quân yếu thế lùi dần về vùng biên giới Việt – Miên. Tuy địch rất muốn vượt sông Cửu Long để đánh chiếm Tân Châu, nhưng chúng không thực hiện được ý đồ này vì khúc sông này bị các giang đĩnh thuộc Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân phong tỏa.

Vào koảng cuối tháng 4-1973, Cộng quân thu thập tàn quân chừng một Tiểu Ðoàn đóng chốt tại các vị trí ven sông vùng Thường Phước nhằm uy hiếp các thương thuyền đang từ Vũng Tàu di chuyển tới. Ðể giải tỏa áp lực địch, Bộ Chỉ Huy Hành Quân hỗn hợp Bộ Binh và Hải Quân đặt tại Chi Khu Hồng Ngự liền soạn thảo một kế hoạch hành quân theo thế “Trên Ðe Dưới Búa” đánh vào vùng Thường Phước. Theo kế hoạch này, Trung Ðoàn 15 Bộ Binh có nhiệm vụ đánh bọc hậu để dồn địch ra gần bờ sông, sau đó sẽ án binh tại chỗ để làm nút chặn. Phần Hải Quân sẽ dùng hỏa lức cơ hữu từ các giang đĩnh để tiêu diệt toán Cộng quân này.

Cuộc hành quân diễn tiến đúng theo kế hoạch dự trù. Nhiều toán Cộng quân bị các chiến sĩ Trung Ðoàng 15 Bộ Binh lùa từ phía sau lưng, phải lui dần ra bờ sông. Bờ sông Cửu Long tại Miền Nam thường một bên cao một bên thấp, bên lở bên bồi không đồng đều nhau. Nếu bờ sông nằm giữa luồng nước, đất sẽ bị nước xoi mòn và lở dần. Ngược lại, bờ sông phía đối diện sẽ được đất bồi thêm thành những bãi sông hay cù lao. Thí dụ như vùng bờ sông Sa Ðéc là khu đất lở khiến nhiều nhà cửa bị đổ sụp xuống sộng, trong khi bờ sông bên kia thuộc tỉnh Kiến Phong là vùng đất bồi với nhiều cù lao trù phú. Tân Châu thuộc vùng đất lở nên bờ sông rất cao, còn bờ sông Thường Phước đối diện thuộc khu đất bồi nên bờ sông thấp với những bãi cát chạy lài tới mé sông. Từ bờ sông cao phía Tân Châu, dân chúng có thể dùng mắt thường trông thấy bóng Cộng quân mặc quần áo kaki vàng ẩn hiện trong những ruộng rẫy bên bờ sông đối diện. Các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong xử dụng đại bác và đại liên bắn thẳng vào đám Cộng quân chưa kịp tìm chỗ trú ẩn. Ðặc biệt, hai giang đĩnh Monitor cập vào những chiếc xáng vét đất neo giữa dòng sông, dùng súng cối 81 ly và đại bác 40 ly liên tục nã đạn vào địch quân.

Trận đánh xảy ra giữa ban ngày, vào khoảng 3 giờ chiều. Dân chúng Tân Châu đứng chật ven bờ sông chứng kiến tận mắt. Dọc theo mé sông Tân Châu có một tòa nhà trắng rất lớn xây bằng bê tông, cao 5 tầng. Nghe nói đây là trụ sở của Ty Quan Thuế thời Pháp thuộc. Từ lan can của toà nhà này, dân chúng theo dõi, vỗ tay reo hò vang dội mỗi khi súng Hải Quân bắn trúng nơi Cộng quân ẩn ẩn trốn phía bên kia sông. Trên những chiếc xáng, nơi hai giang đĩnh chủ lực của Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang cột tạm để lấy hướng tác xạ cho chính xác, nhiều nhân viên tự động đem nước ngọt, bia, cơm ra mời những chiến sĩ Hải Quân đang bận rộn bắn vào đầu địch! Có lẽ đây là lần đầu tiên trong hải nghiệp, các chiến sĩ áo trắng thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong vừa uống … bia, vừa giáng những đòn chí tử vào địch quân đang thất thế chơ vơ giữa đồng trống!

Sau trận đánh hiếm có này, một số tù binh cho biết họ thuộc Trung Ðoàn 207 và Tiểu Ðoàn Cộng quân bị gài vào thế gọng kìm chỉ còn chừng 100 tên sông sót chạt thoát về phía biên giới. Về phía Bộ Binh và Hải Quân chỉ bị thiệt hại không đáng kể.

Trận đánh tại Thường Phước chấm dứt với sự thảm bại của Cộng quân. Ðịch bị đẩy xa khỏi vùng Hồng Ngự – Tân Châu về phía biên giới. Áp lực của chúng vào điểm neo thương thuyền tại Tân Châu cũng chấm dứt từ đó.

3. Hộ Tống Thương Thuyền Ði Nam Vang Lần Thứ Nhất: Chạm Trán Với Hỏa Tiển AT-3 Của Cộng Quân

Cũng khoảng trong thời gian đó, tình hình chiến sự tại quốc gia láng giềng Cam Bốt trở nên vô cùng sôi động với phần thắng lợi nghiêng về phía Cộng quân. Tuy vào năm 1970, liên quân Việt – Mỹ đã mở một cuộc hành quân vượt biên qui mô đánh qua Cam Bốt để tiêu diệt các cơ sở hậu cần và lực lượng Cộng quân, nhưng áp lực của chúng đè nặng trên thủ đô Nam Vang vẫn không giảm. Cộng quân, gồm quân Khmer Ðỏ do Pol Pot cầm đầu và đa số là bộ đội Cộng Sản Bắc Việt đã chiếm giữ hầu hết lãnh thổ Cam Bốt, ngoại trừ những thành phố lớn như Nam Vang, Takeo, Konpong Cham, hải cảng Sihanoukville còn được gọi là Kompong Som v.v… Ngoài ra, các trục đường bộ chính dùng để tiếp tế cho thủ đô Nam Vang cũng bị địch quân cắt đứt.

Do đó, để tiếp tế quân nhu cũng như nhu yếu phẩm như gạo, nhiên liệu v.v.. cho chính phủ thân Mỹ Lon Nol, chỉ còn hai con đường chính: một là không vận qua phi trường Pochen Tong nằm sát thủ đô Nam Vang, hai là bằng thủy lộ sông Cửu Long chạy dài từ Vũng Tàu thuộc Việt Nam lên tới Nam vang. Thủy lộ này dài chừng 350 cây số với trên 200 cây số nằm trên lãnh thổ Việt Nam từ Vũng Tàu Tới Tân Châu và khoảng chừng 150 cây số từ Tân Châu qua bến phà Neak Luoeng tới Nam Vang. Trên đường đi tới Nam Vang, đoàn tàu phải vượt qua một địa điểm chiến lược rất quan trọng, đó là bến phà Neak Luoeng thuộc tỉnh Banam, nằm vào khoảng giữa đường từ Tân Châu đến Nam Vang. Neak Luoeng lúc đó là một căn cứ hải quân quan trọng của Cam Bốt, vẫn còn nằm trong tay chính phủ Lon Nol, mặc dầu bị Cộng quân bao vây ngặt nghèo.

Mỗi đoàn tầu tiếp tế cho Nam Vang thường gồm khoảng 15 đến 20 chiếc mang hiệu kỳ nước ngoài. Chừng phân nửa trong số đó những thương thuyền chở hàng nhập cảng thông dụng như rượu, thuốc lá, đồ hộp v.v… Phân nửa đoàn tầu còn lại gồm những tầu dầu và xà lan chở gạo hay đạn dược. Những xà lan nàt đều lấy hàng tại bến tân cảng ngay sát thủ đô Sài Gòn. Ðây là những quân nhu và nhu yếu phẩm do Hoa Kỳ “viện trợ” cho chính quyền Lon Nol để chống lại bọn, Cộng Sản. Những xà lan đều không có máy nên phải dùng tầu dòng để kéo hay đẩy. Tầu dòng tuy nhỏ nhưng máy rất mạnh, có thể kéo hay đẩy thương thuyền trọng tải hàng chục nhàn tấn rất dễ đàng. Tuy nhiên, nếu phải kéo nhiều xà lan trong sông với mỗi sợi giây dòng tầu dài vài, ba trăm thước, đoàn xà lan sẽ rất dài, khó cho tầu dòng vận chuyển tại các khúc quanh hẹp.

Tưởng cũng nên nói thêm, sau này, vào khoảng đầu năm 1975, các tầu dòng kéo xà lan đạn lên Nam Vang đều thuộc hãng tầu Sea Pac nằm bên Khánh Hội. Ðây là một chi nhánh của hãng tầu Alaska Barge trụ sở đặt tại Seattle, tiểu bang Washington. Hãng Alska Barge chuyên dùng tầu dòng để kéo xà lan chở dụng cụ khoan dầu lửa lên vùng Bắc Hải thuộc Alaska. Chính phủ Hoa Kỳ ký giao kèo với hãng này để mướn chở đạn và nhiên liệu lên Cam Bốt. Tuy là một hãng tư nhưng chi nhánh Sea Pac của hãng Alaska Barge làm việc thẳng với cơ quan tình báo CIA của Hao Kỳ, tương tự như hãng máy bay tư Air America vậy. Thuyền trưởng của những tầu dòng Sea Pac sau này đa số là những cựu sĩ quan Hải Quân VNCH cấp tá. Ðại diện của hãng Sea Pac tại Sài Gòn là một người quốc tịch Mỹ tên Vladimir Solomon, với một phụ tá người Việt tên Vân.

Như trên đã nói, vì bị phong tỏa ngặt nghèo nên Cam Bốt hầu như chỉ còn trông cậy vào thủy lộ sông Cửu Long để sống còn. Phi trường Pochengton tuy vẫn còn hoạt động, nhưng vì bị Cộng quân bao vây, lại nằm trong tầm pháo kích nên máy bay lên xuống rất khó khăn. Vả lại, phi cơ không chở được nhiều hàng hóa như tầu biển hoặc xà lan nên việc tiếp tế bằng đường hàng không vừa nguy hiểm, vừa kém hữu hiệu. Cộng quân cũng biết rõ nhược điểm này nên cố bóp chết thủ đô Nam vang bằng cách đánh chiếm Hồng Ngự, được coi nhu yết hầu của thủy lộ sông Cửu Long từ Vũng Tàu lên Nam Vang.

Tuy nhiên, Cộng quân chỉ thu đạt được vài thành công nhỏ lúc ban đầu nhờ xử dụng một lực lượng chủ lực quân lớn cấp Trung Ðoàn bất ngờ tràn qua biên giới áp đảo lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân khiêm nhường thuộc Chi Khu Hồng Ngự. Về sau, với sự yểm trợ đắc lực của các giang đĩnh Hải Quân và được Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 Bộ Binh tăng cường, Cộng quân bị đẩy lui về phía biên giới Việt – Miên như trên đã mô tả.

Khoảng cuối tháng 4 năm 1973, một đoàn thương thuyền khoảng 20 chiếc, trong số này có 5 xà lan chở đầy đạn dược và chất nổ tới Tân Châu trên đường tiếp tế cho Nam Vang. Ðoàn tầu bỏ neo ngay trước Căn Cứ Hải Quân Tân Châu cũng là hậu cứ của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho đoàn thương thuyền tại điểm neo được trao phó cho các Giang Tốc Ðĩnh (PBR – Patrol Boat River) của Giang Ðoàn Tuần Thám vì các chiến đĩnh này có vận tốc cao, vận chuyển rất mau lẹ. Tuy tình hình vùng Hồng Ngự – Tân Châu đã tạm thời ổn định, nhưng bờ Ðông của khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài khoảng 20 cây số vẫn do Cộng quân kiểm soát. Vì vậy, các Ðơn Vị Trưởng thuộc Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân nhóm họp tại Cơ Xưởng hạm HQ 9613 bỏ neo tại An Long, phía Nam Hồng Ngự để bàn kế hoạch hộ tống đoàn thương thuyền vượt qua biên giới. Chuyến hộ tống này sẽ rất gian nam, nguy hiểm vì số thương thuyền khá đông, địch lại biết rõ ta phải di chuyển qua thủy lộ duy nhất nên chắc chắn chúng đã đặt sẵn các ổ súng nặng chờ sẵn.

Bờ Ðông sông Cửu Long đối diện Tân Châu tức là khu vực Thường Phước là vùng đất bồi nên bờ sông tương đối bằng phẳng và thấp nên địa thế không thuận tiện cho địch quân đặt những ổ phục kích. Tuy nhiên, khi vượt quá lên phía Bắc chừng 5 cây số, từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới, bờ sông này lại trở thành khu đất lở với vách dựng đứng như một bức tường, mặt nước thấp hơn bờ sông chừng 10 thước. Do đó, các giang đĩnh tuy có hỏa lực mạnh, nhưng vì quá thấp nên vô hiệu đối với các ổ phục kích của Cộng quân đặt trong những hầm hố và địa đạo đào trên mặt bờ sông. Khi nước lớn (nước chảy ngược lại theo hướng Nam – Bắc, từ biển đổ vào sông), tầm súng của các giang đĩnh tuy tạm thời có thể bằn vào những mục tiêu trên bờ sông, nhưng những tầu kéo xà lan đạn lại rất khó vận chuyện khi bị dòng nước từ phía sau đẩy tới (nước xuôi). Vì sông hẹp nên các thương thuyền và xà lan phải đi theo đội hình hàng dọc, chiếc này nối đuôi chiếc kia, cách nhau chừng vài, ba trăm thước. Trong lúc di chuyển, điều tối quan trọng là các thương thuyền phải giữ đúng thứ tự và khoảng cách trong đội hình. Chỉ cần một thương thuyền di chuyển không đúng tốc độ trong đoàn, có thể những chiếc khác sẽ bị rối loạn, cả đoàn bị dồn lại hay đụng vào nhau. Ngoài ra, nếu bị tấn công trong lúc di chuyển, rất có thể các thủy thủ trên thương thuyền bị hoảng hốt vì không quen với súng đạn khiến đoàn tầu bị rối loạn hàng ngũ.

Biết được những trở ngại trên, Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân quyết định cho đoàn thương thuyền di chuyển ngay vào lúc con nước lớn vừa đứng và bắt đầu ròng. Căn cứ vào lịch thủy triều của Hải Quân, giờ thuận tiện nhất là lúc 9 giờ sáng. Chiến thuật hộ tống được hoạch định như sau:

– Ðoàn thương thuyền di chuyển theo đội hình hàng dọc như thường lệ, mỗi chiếc cách nhau chừng 200 thước, vận tốc khoảng 7 – 8 hải lý một giờ. Như vậy, đoàn thương thuyền dài chừng 4 cây số.

– Các tầu dòng kéo xà lan đạn chạy chậm sẽ xen kẽ với những thương thuyền.

– Các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong có hỏa lực mạnh sẽ dẫn đầu để bắn mở đường. Nhưng giang đĩnh nhỏ còn lại cùng với các PBR thuộc Giang Ðoàn 58 Tuần Thám di chuyển chung với đoàn thương thuyền để sẵn sàng yểm trợ khi cần.

– Những giang đĩnh hộ tống vừa di chuyển, vừa bắn tối đa vào bờ Ðông để mở đường và uy hiếp tinh thần đối phương.

– Trong trường hợp bị tấn công vào giữa đoàn thương thuyền, những chiếc nào đã qua được ổ phục kích vẫn tiếp tục đi qua biên giới, những chiếc òn lại sẽ tạm ngưng máy tại chỗ để tầu Hải Quân tập trung hỏa lực tiêu diệt ổ phục kích địch.

Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, sáng hôm sau, đoàn thương thuyền nhổ neo lúc trời sáng để sắp xếp đội hình di chuyển. Khúc sông từ Tân Châu lên tới biên giới dài chừng 35 cây số, dự trù đoàn thương thuyền sẽ vượt qua trong vòng 4 tiếng đồng hồ, gồm 1 tiếng để vận chuyển vào đúng thứ tự giang hành và khoảng 3 tiếng để di chuyển.

Ðúng 9 giờ sáng, chiếc Thiết Giáp Ðĩnh của Giang Ðoàn 26 Xung Phong dẫn đầu đoàn tầu rời Tân Châu, theo sau là hai cặp FOM yểm trợ. Những thương thuyền và xà lan đạn theo kế tiếp xen kẽ bằng những giang đĩnh Hải Quân hộ tống. Khoảng 10 giờ sáng, dưới hỏa lực mạnh mẽ của đại bác 40 ly trực xạ và súng cối 81 ly mở đường bắn vào những điểm nghi ngờ bên bờ Ðông, đoàn tầu đi đến đồn Mương Kinh do Ðịa Phương Quân chi khu Hồng Ngự trú đóng an toàn. Nhưng khi vượt qua địa điểm này chừng vài cây số, Cộng quân từ những ổ phục kích đào sẵn trên bờ dưới nhưng lùm cây rậm rạp bắt đầu dùng súng B-40 bắn vào đoàn tầu khá dữ dội.

Theo đúng chiến thuật đã được trù tính trước, các giang đĩnh tập trung hỏa lực phản pháo dữ dội vào những ổ phục kích trên bờ sông. Những viên đạn đại bác 40 ly, 20 ly, M-79 và đại liên 50 cầy nát bờ sông làm tung lên một lớp bụi mỏng màu đỏ. Cây cối ngã gục dưới làn mưa đạn như bị đốn bằng một lưỡi hái khổng lồ. Một đoàn giang đĩnh đủ loại gồm cả các PBR trên 20 chiếc di chuyển thật chậm theo hướng Bắc, đội hình hàng dọc dài hơn 2 cây số khai hỏa tối đa về phía hữu hạm. Có lẽ vì hỏa lực quá mạnh của Hải Quân khiến đối phương hoảng sợ nên chúng chưa bắn trúng một thương thuyền nào. Các thương thuyền lúc đầu mất bình tĩnh khi bị bắn nên đội hình hơi rối loạn, nhưng khi thấy các giang đĩnh hải Quân phản pháo hữu hiệu, và nhất là thấy địch không gây được thiệt hại nào nên họ lại vững tâm di chuyển theo đúng đội hình đã được chỉ định. Dù bị tấn công, đoàn tầu vẫn di chuyển với tốc độ bình thường. Lúc này, nước đã bắt đầu ròng nên các tầu kéo xà lan đạn vận chuyển tương đối dễ dàng hơn, dù phải tăng máy để giữ đúng đội hình.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, khi đoàn tầu gần tới mỏm cù lao đối điện đồn Bến Ðình gần biên giới, đột nhiên từ bờ sông phía Ðông lóe ra nhiều đốm lửa như những làn chớp, tiếp theo là những luồng khói trắng bay ra hướng đoàn tầu. Chiếc xà lan đạn di chuyển ở vị trí thứ 5 bỗng nổ tung. Cũng cùng lúc đó, trên giang đĩnh chỉ huy của Giang Ðoàn 26 Xung Phong, các thủy thủ phát hiện một sợi giây nhỏ như sợi tơ từ trên trời rơi xuớng vắt ngang tầu. Thì ra, đây là sợi giây làm bằng Fiber Optic dùng để điều khiển loại hỏa tiễn AT-3, còn có tên là “Sagger” do Nga Sô chế tạo. Khi rời giàn phóng, hỏa tiễn AT-3 có mang theo một sợi giây nhỏ để xạ thủ có thể điều chỉnh đường bay trúng vào mục tiêu. Loại hỏa tiễn này thường chỉ được dùng để chống chiến xa, tương tự như loại hoả tiễn TOW (Tube-launch Optically-tracked Wire-guide) của Hoa Kỳ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân xử dụng loại vũ khí tối tân này để bắn các giang đĩnh. May mắn, chiếc hỏa tiễn nhắm vào giang đĩnh chỉ huy đã bay hơi cao nên trật mục tiêu. Có lẽ xạ thủ không giám ngóc đầu lên để điều khiển vì bị hỏa lực dữ dội của các giang đĩnh áp đảo.

Tuy nhiên, chiếc xà lan đạn bị trúng hỏa tiễn phát nổ dữ dội. Không may, chiếc xà lan này chở toàn những bành đạn đại bác 105 và 155 ly nên sức tàn phá vô cùng khủng khiếp. Nguy hiểm hơn nữa, chiếc tầu dòng xà lan này đã mở dây kéo nên xà lan gặp nước ròng trôi ngược về phía đoàn tầu, vừa trôi đạn vừa nổ dữ dội với lửa và khói bốc lên mù mịt cả một khúc sông.

Tình thế lúc đó hết sức nguy hiểm và căng thẳng. Nếu tiếp tục cuộc hành trình, chắc chắn những thương thuyền to lớn và chậm chạp kia sẽ là những mục tiêu tốt cho các dàn hỏa tiễn AT-3 khá chính xác đang chờ sẵn trên bờ sông. Ðó là chưa kể chiếc xà lan đạn bị nổ đang từ từ trôi ngược về hướng đoàn tầu, có thể tấp vào bất cứ một giang đĩnh hay thương thuyền nào gây thiệt hại nhiều thêm. Chẳng may nếu có một thương thuyền nào bị chìm, thủy đạo duy nhất sẽ bị tắc nghẽn! Do đó, ngoại trừ 4 thương thuyền đã vượt qua được biên giới hiện do Hải Quân Cam Bốt hộ tống, tất cả những chiếc còn lại được lệnh lập tức quay về điển neo Tân Châu dể chờ lệnh mới.

Ðể giải quyết chiếc xà lan đạn phát nổ đang trôi trên sông, Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã ra lệnh dùng súng đại bác 40 trực xạ bắn, nhưng lệnh chưa kịp thi hành thì xà lan tấp vào một đầu cồn không có dân cư tiếp tục nổ tới hết đạn nên không gây thiệt hại nào đáng kể.

Tieu giap dinh FOM tuan tieu tren song rach

4. Hộ Tống Lần Thứ Hai: Ðưa Thương Thuyền Qua Biên Giới “Bằng Mọi Giá”!

Trong chuyến hộ tống không hoàn toàn thành công vừa qua, tuy có 4 thương thuyền vượt được biên giới, nhưng cả 4 tầu dầu tiếp tế nhiên liệu khẩn cấp cho Nam Vang đều bị kẹt lại. Cam Bốt lúc đó đang bị thiếu hụt nhiên liệu trầm trọng vì không được tiếp tế đã gần hai tháng. Vì vậy, khi được tin các tần dầu đều phải quay về, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, có lẽ dưới áp lực của người Mỹ, đã gửi công điện thượng khẩn ra lệnh “Ðưa thương thuyền qua biên giới bằng mọi giá!” Lệnh này đã làm Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân rất khó xử, vì “bằng mọi giá” có nghĩa là chấp nhận thiệt hại đáng kể. Khi được yêu cầu giải thích rõ ràng thêm, thượng cấp cho biết: “Nếu cần, các giang đĩnh phải hy sinh nằm giữa lằn đạn địch và đoàn thương thuyền như một lớp khiên chắn đạn để đưa các thương thuyền qua biên giới”!

May mắn, tình hình chiến sự tại mặt trận Hồng Ngự lúc đó tương đối đã lắng dịu nên lực lượng Hải Quân có thể dồn hết nỗ lực vào công tác hộ tống. Ngoài ra, Trung Ðoàn 15 Bộ Binh cũng khá rảnh rang, đang càn quét và đẩy lui tàn quân địch về bên kia biên giới nên cũng có thể tiếp tay.

Về phía Hải Quân, nếu thi hành ngay chỉ thị “bằng mọi giá” của thượng cấp khi địch quân vẫn còn làm chủ bờ Ðông, các giang đĩnh và quân số sẽ bị thiệt hại nặng mà thương thuyền chưa chắc đã đi được. Ngược lại, nếu chần chờ, có thể Nam Vang sẽ hết nhiên liệu, hậu quả sẽ không lường được.

Sau khi bàn tính kỹ càng, các Ðơn Vị Trưởng Hải Quân đồng ý cần phải phối hợp với Bộ Binh để nhổ bứt các chốt AT-3 dọc theo bờ Ðông nếu muốn hoàn tất hộ tống. Dù sao, cuộc hành quân thủy bộ này cũng sẽ giúp Trung Ðoàn 15 sớm hoàn thành nhiệm vụ của họ là quét sạch Cộng quân khỏi khu vực từ Hồng Ngự đến biên giới. Kế hoạch hành quân vào ngày N được Bộ Binh và Hải Quân đồng ý như sau:

– Một cánh quân thuộc Trung Ðoàn 15 Bộ Binh từ vùng Thường Phước, mặt Bắc của Hồng Ngự, sẽ đánh dọc theo theo bờ Ðông của sông Cửu Long từ hướng Nam lên Bắc, hướng về biên giới Việt – Miên.

– Hải Quân sẽ được tăng phái 2 Ðại Ðội Bộ Binh, bất thần đổ bộ lên bờ Ðông gần biên giới, nơi nghi ngờ có các giàn hỏa tiễn AT-3. Nhiệm vụ của cánh quân này là càn quét từ Bắc xuống Nam, vừa đi vừa lục soát và tiêu diệt các ổ phục kích của địch. Sau đó, cánh quân này sẽ bắt tay với với thành phần từ mặt Nam đánh lên.

– Khi đổ bộ xong, các giang đĩnh sẽ lãnh nhiệm vụ yểm trợ cho Bộ Binh lục soát trên bờ, đồng thời án ngữ ngay tại những điểm nghi ngờ có ổ phục kích để hộ tống đoàn thương thuyền qua biên giới.

– Ðể đánh lạc hướng Cộng quân, phao tin đồn tại Tân Châu rằng các thương thuyền sợ bị thiệt hại nên sẽ nhổ neo trở về Vũng Tàu, bỏ ý định đi Nam Vang.

Tưởng cũng nên nói rõ, Cộng quân đã khai thác triệt để địa thế thiên nhiên của bờ Ðông sông Cửu Long. Vì bờ sông cao như một bức tường thành dựng đứng nên chúng đào hầm từ trên mặt đất trổ ra bờ sông thành những lỗ châu mai như hình chữ Y lộn ngược trông xuống lòng sông. Từ những lỗ châu mai này, địch đặt các ổ súng B-40, hỏa tiễn AT-3 có thượng liên yểm trợ có thể nhắm bắn dễ dàng vào các tầu bè di chuyển trên sông. Khi giang đĩnh phản pháo, đạn đại liên nếu may mắn lọt vào lỗ châu mai cũng không gây thiệt hại đáng kể. Chỉ những loại đạn “chạm nổ” như đại bác 40 ly, đại bác 20 ly hay M-79 bắn trúng ngay mục tiêu mới làm chúng hoảng sợ.

Kế hoạch chuẩn bị xong xuôi, trong khi chờ đợi ngày N để hộ tống đoàn thương thuyền lên đường, các giang đĩnh Hải Quân vẫn ngày đêm tuần tiễu khúc sông từ Tân Châu tới biên giới để phát hiện và ghi nhận những địa điểm phục kích của địch quân. Giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong tuy di chuyển chậm chạp hơn những PBR của Giang Ðoàn Tuần Thám, nhưng lại có hỏa lực khá mạnh nên được dùng làm chim mồi dụ địch quân lộ diện.

Ban ngày, những chiếc LCM-6 chậm chạp qua lại trên sông với nước chứa đầy hầm tầu khiến giang đĩnh chìm sâu hơn dưới mặt nước. Ðây là kế hoạch nghi binh khiến địch quân lầm tưởng những giang đĩnh chuyên về chuyển vận này đang chở quân hay chiến cụ đến một địa điểm bí mật nào đó. Ngoài ra, giang đĩnh di chuyển càng thấp sát mặt nước bao nhiêu, địch quân lại càng khó bắn trúng bấy nhiêu vì mục tiêu nhỏ hơn. Khi Cộng quân bắn ra, những giang đĩnh “chim mồi” di chuyển sát bờ sông phía Tây này chỉ bắn trả cầm chừng, vì nhiệm vụ chính là ghi nhận các tổ súng nặng đặt trong các miệng hầm thẳng đứng của chúng. Ban đêm, những giang đĩnh chuyển vận chậm chạp với tiếng máy lớn này dễ khiến cho địch quân để ý. Trong lúc đó, các PBR với vận tốc cao, di chuyển nhẹ nhàng sẽ lẻn sát bờ sông, dưới tầm súng của Cộng quân để dùng súng phóng lựu M-79 bắn vào các lỗ châu mai đã bị phát hiện của chúng. Chiến thuật này tỏ ra khá hữu hiệu vì đã tiêu diệt được một số ổ phục kích của địch quân.

Khoảng nửa đêm ngày N-1, Giang Ðoàn 26 Xung Phong nhận 2 Ðại Ðội thuộc Trung Ðoàn 15 Bộ Binh tại Hồng Ngự. Ba chiếc LCM-6 chở quân được 2 cặp FOM và chiếc Thiết Giáp Ðĩnh hộ tống lên đường hướng về phía biên giới cách Hồng Ngự chừng 40 cây số, Những giang đĩnh còn lại vẫn tham dự cuộc khuấy rối hàng đêm như thường lệ với các PBR của Giang Ðoàn 58 Tuần Thám.

Nhận quân xong, toán giang đĩnh rời bãi ủi Hồng Ngự, trực chỉ hướng Bắc. Ðêm không trăng, những lùm cây rậm rạp bên bờ sông dường như dầy đặc hơn, trở thành những bóng ma đe dọa. Xa xa, chếch về hướng tay trái, ánh đèn điện của thị xã Tân Châu phản chiếu xuống mặt sông Cửu Long trông như những cặp mắt còn ngái ngủ. Tuy phải di chuyển về đêm, nhưng tất cả đèn trên các giang đĩnh đều được tắt hết để bảo mật. Các chiến sĩ Hải Quân đã quá quen thuộc với khúc sông này nên việc điều khiển con tầu không có gì trở ngại. Mọi người đều nóng lòng mong cho tới ngày hôm sau để sớm hoàn tất chuyến hộ tống gay go này. Trên cặp FOM dẫn đầu, vị Trung Úy trưởng toán đổ bộ bận rộn liên lạc trên máy truyền tin PRC-25 với những “con cá” trong đoàn, đồng thời duyệt lại kế hoạch với toán đổ bộ. Ðoàn tầu di chuyển theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau chừng 100 thước, vận tốc chừng 5 hải lý một giờ. Mặc dù với vận tốc chậm, nhưng tiếng máy dầu cặn như vẫn gầm rú trong đêm vắng, chắc chắn không thể nào tránh được sự chú ý của địch quân.

Chính vì không che mắt được địch quân nên Bộ Chỉ Huy Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã có kế hoạch hy vọng có thể khiến địch quân lạc hướng. Vừa qua khỏi Tân Châu với những ánh đèn vàng vọt hầu như đã nằm sau lái, tới đầu cồn đối diện với đồn Mương Kinh, đoàn giang đĩnh đột nhiên được tách ra làm hai. Các giang đĩnh chở quân và hộ tống đổi đường ép qua phía tay trái đi vào lạch sông nhỏ phía trong cồn để tránh bị phát hiện. Giờ này mức thủy triều cò khá cao nên không sợ bị mắc cạn. Chắc chắn vì đêm tối và bị cồn che khuất, Cộng quân bên kia bờ sông sẽ không nhận ra toán giang đĩnh quan trọng này. Những chiếc còn lại trong đoàn vẫn tiếp tục di chuyển phía ngoài cồn như trong các cuộc tuần tiễu thường lệ hàng đêm.

Rạng sáng ngày N, các LCM-6 chở quân đã tới sát đồn Bến Ðình gần biên giới. Còn gần 2 tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ G nên tạm ủi bãi, nằm chờ tại đầu cồn. Lúc này, chiếc Giang Pháo Hạm 328 do Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi tăng phái để yểm trợ hỏa lực cũng đã đến Tân Châu và đang vận chuyển vào vị trí yểm trợ hải pháo. Chiến hạm này do Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Như Phú làm Hạm Trưởng. Thiếu Tá Phú nguyên xuất thân Khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, nhưng chọn Quân Chủng Hải Quân nên sau khi tốt nghiệp lại theo học Khóa 13 SQHQ Nha Trang. Giang Pháo Hạm 328 được trang bị một khẩu đại bác 76 trước mũi và nhiều dàn đại bác 40 ly và 20 ly. Quan trọng hơn, vì chiến hạm có tầm súng cao, lại có hỏa lực mạnh nên có thể tiêu diệt những mục tiêu nằm sâu trong đất liền. Vì Cộng quân đang chiếm giữ bờ sông phía Ðông từ đồn Mương Kinh lên tới biên giới nên chiến hạm được chỉ định “nấp” sau đuôi cồn gần đồn Mương Kinh để tránh hỏa tiễn AT-3 của địch.

Ðúng 8 giờ sáng ngày N, các đơn vị hành quân đã vào đúng vị trí. Từ vùng Thường Phước, cánh Bộ Binh di chuyển dọc theo bờ sông, đánh về hướng Bắc. Trong lúc đó, Giang Pháo Hạm 328 tác xạ mở đường vào những mục tiêu nghi ngờ có địch ẩn núp. Riêng Giang Ðoàn 26 Xung Phong có nhiệm vụ đổ quân vào bờ đối diện với đồn Bến Ðình cũng thi hành nhiệm vụ giao phó. Tất cả các giang đĩnh đều dàn hàng ngang với những chiếc LCM-6 chở quân nằm giữa đội hình, từ đồn Bến Ðình đâm thẳng qua mục tiêu đối diện bên bờ Ðông, vừa di chuyển vừa tác xạ tối đa để dọn bãi. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chừng 15 phút, các giang đĩnh đã đến điểm đổ bộ. Trong lúc những giang đĩnh yểm trợ ủi bãi cách nhau chừng 100 thước và tác xạ tối đa vào các bụi tre và lùm cây trước mũi, các LCM-6 chở quân hạ cửa đổ bộ dể quân lên bờ. Ðúng lúc này, có một trục trặc nhỏ khiến cuộc đổ quân không được xuông xẻ như ý muốn: cửa đổ bộ của một LCM-6 bị kẹt nên không hạ xuống được. Tình trạng khá nguy hiểm vì nếu lúc này địch bắn B-40 hay hỏa tiễn vào giang đĩnh, toán bộ binh kẹt trong lòng tầu sẽ bị thiệt hại nặng. Ðể giải quyết tình trạng khó khăn này, lậo tức hai chiếc FOM được điều động đến cập hai bên chiếc LCM-6 để bộ binh dùng làm cầu lên bờ. Rất may, Cộng quân có lẽ vì bị bất ngờ nên vẫn chưa thấy phản ứng.

Hai Ðại Ðội Bộ Binh vừa lên bờ đã tràn vào các bụi tre và lùm cây trước mặt để lục soát, trong lúc các giang đĩnh rời bải ủi, di chuyển với vận tốc chậm theo hướng Nam phía Tân Châu, vừa yểm trợ cho toán Bộ Binh trên bờ, vửa chuẩn bị nằm đường đón đoàn thương thuyền đang được những PBR hộ tống từ Tân Châu lên.. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đổ bộ, toán Bộ Binh báo cáo đã tịch thu được 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn, mỗi giàn có 2 trái hỏa tiễn đang trong tình trạng sẵn sàng phóng. Những giàn hỏa tiễn này được đặt trong hầm hố đào dưới gốc các bụi tre gần bờ sông. Cạnh đó, còn có 9 địch quân bị banh xác vì hỏa lực dọn bãi của các giang đĩnh và 2 tên bị thương bị bắt sống.

Lúc đó, các thương thuyền cũng đã bắt đầu ló dạng, trên đường tiến tới biên giới. Các ổ súng đại bác trên Giang Pháo Hạm 328 hoạt động tối đa, bắn vào các vị trí do Bộ Binh yêu cầu yểm trợ. Khoảng 11 giờ sáng, khi chiếc thương thuyền đầu tiên đã đến gần biên giới, các giang đĩnh ghi nhận Công quân bắn ra 3 trái hỏa tiễn AT-3 hay B-40 hoặc súng cối phát nổ dưới sông, không gây thiệt hại đáng kể nào cho các thương thuyền cũng như giang đĩnh. Chỉ có một số nhân viên Hải Quân bị thương nhẹ, trong số đó Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 26 Xung Phong trúng mảnh đạn vào cánh tay trái.

Khoảng 12 giờ trưa, các thương thuyền vượt qua biên giới an toàn và được bàn giao cho toán giang đĩnh thuộc Hải Quân Cam Bốt đang chờ sẵn. Hoàn tất công tác hộ tống, các giang đĩnh Hải Quân dồn hết nỗ lực để yểm trợ cho hai cánh quân đang lục soát trên bờ. Hai cánh quân Bộ Binh vẫn tiến dọc bờ sông theo hướng ngược chiều nhau, vừa đi vừa lục soát. Họ báo cáo bắn hạ khoảng 30 tên địch tại chỗ và phát hiện nhiều tên khác đã bị chết vì hỏa lực của Hải Quân. Ðến chiều cùng ngày, hai toán Bộ Binh bắt tay nhau tại một địa điểm cách đồn Mương Kinh chừng 3 cây số về hướng Bắc. Cuộc hành quân coi như hoàn tất.

Tổng kết hoạt động trong ngày, Hải Quân hoàn tất việc hộ tống đoàn thương thuyền lên Nam Vang trong khi Bộ Binh quét sạch địch quân ra khỏi lãnh thổ quận Hồng Ngự. Thiệt hại phía Cộng quân bị chết 49 tên đếm xác được tại chỗ, 2 tên bị bắt sống, 3 giàn hỏa tiễn AT-3 còn nguyên vẹn bị tịch thu cùng với 3 súng cộng đồng và 19 súng cá nhân. Bạn thiệt hại 3 chết và 16 bị thương. Phía Hải Quân có 3 bị thương nhẹ.

Nhiệm vụ tăng phái cho Tiểu Khu KIến Phong và Trung Ðoàn 15 Bộ Binh để giải tỏa áp lực địch tại vùng Hồng Ngự của Giang Ðoàn Xung Phong coi như hoàn tất. Tổng cộng, toàn bộ đơn vị đã liên tục hành quân trong hai tháng ròng rã.

IX. Ðoạn Kết

Chiến dịch Hồng Ngự chỉ là một cuộc hành quân tương đối nhỏ cấp Trung Ðoàn, nhưng kết quả lại rất lớn: bẻ gẫy ý đồ phong tỏa thủy lộ sông Cửu Long của Cộng quân, đồng thời với sự yểm trợ hữu hiệu của Hải Quân, địch đã bị thiệt hại rất nặng với tổng cộng 422 xác định đếm được tại chỗ. Theo cung từ của tù binh, vào cuối tháng 5/1973 khi chiến dịch chấm dứt, Trung Ðoàn 207 của Cộng quân coi như không còn khả năng tác chiến, mỗi Tiểu Ðoàn của chúng còn lại không đầy 100 tên. Tuy thiệt hại về phía QLVNCH tương đối nhẹ, nhưng thường dân bị chết và bị thương khá nhiều vì đạn pháo kích của địch quân. Chỉ riêng trong tuần lễ thứ nhì của tháng 4, Cộng quân đã pháo kích trên 100 trái hỏa tiễn vào Hồng Ngự.

Vai trò quan trọng của Giang Ðoàn 26 Xung Phong trong chiến dịch Hồng Ngự được coi như hoạt động tiêu biểu của các Giang Ðoàn Xung Phong thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi. Tuy hậu cứ đóng tại Long Xuyên, nhưng các giang đĩnh thuộc Giang Ðoàn 26 Xung Phong đã từng có mặt tại hầu hết những vùng xa xôi hẻo lánh như Ðồng Tháp Mười, Cái Cái, hay các địa danh xa lạ thuộc vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ như Năm Căn, Ðồng Cùng, Cái Ngay, Cái Nước, Thới Bình, Khai Quang, Biện Nhị, Sông Trèm Trẹm, Vị Thanh, Hỏa Lựu, Gò Quao v.v… Tại bất cứ chiến trường nào dù nguy hiểm đến đâu, các chiến sĩ của Giang Ðoàn cũng ghi lại những chiến tích vẻ vang, dù lắm khi phải đổi bằng máu.

Giang Ðoàn 26 Xung Phong không những là một đơn vị Hải Quân kỳ cựu, nồng cốt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà còn là một đơn vị ưu tú được các quân binh chủng bạn cũng như đồng bào mến phục. Hiện nay, có rất nhiều cựu chiến sĩ áo trắng đã từng phục vụ tại Giang Ðoàn 26 Xung Phong đang lưu lạc tại Hoa Kỳ hay những quốc gia khác trên thế giới. Ða số các bạn này vẫn thường nhắc nhở tới những giòng sông nơi họ đã từng anh dũng chiến đấu và đổ máu trong trách vụ bảo vệ quê hương. Ngoài ra, Long Xuyên với cầu Hoàng Diệu, công viên Nguyễn Du, trường Thoại Ngọc Hầu v.v… cùng những tà áo dài duyên dáng cũng là một điểm dừng chân đáng nhớ trong binh nghiệp …

(Autin, Texas – Tháng 5/2000

Nguồn: http://doanket.orgfree.com/

South Patagonia, thắng cảnh cực Nam Châu Mỹ

South Patagonia, thắng cảnh cực Nam Châu Mỹ

Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel

Patagonia là vùng đất cực Nam Nam Mỹ, bao gồm một phần lãnh thổ của cả hai đất nước Argentina và Chile và được phân chia ra thành Northern Patagonia và Southern Patagonia. Đây là hai địa danh rất nổi tiếng trên thế giới về các thắng cảnh thiên nhiên và sinh thái.

Southern Patagonia được khám phá ra vào đầu thế kỷ 16 do công lao của nhà hàng hải Ferdinan Magellan. Trước khi nói về các thắng cảnh du lịch tuyệt mỹ của vùng đất này, chúng ta cũng cần biết sơ qua công lao của người đã khám phá ra nó vì ngày nay tên của Ferdinan Magellan đã đi vào lịch sử, gắn liền với vùng đất cực Nam lục địa Nam Mỹ.

Từ giữa thế kỷ 15, các nhà hàng hải Âu Châu đã đua nhau đi thám hiểm, tìm kiếm các vùng đất mới nằm ngoài Châu Âu, khởi đầu không ngoài các dụng ý buôn bán trao đổi hàng hóa và tìm mua đem về bản xứ các món hàng quý giá khan hiếm (sau này thì họ biến thành thực dân).

Điều này tạo ra sự tranh chấp gay gắt trong nhiều năm giữa hai đế quốc thời đó là Portugal và Spain. Sau cùng hai xứ thỏa thuận ký hiệp ước Tordesillas năm 1494, họ chọn kinh tuyến chạy qua Cape Verde (quần đảo phía Tây Châu Phi) là kinh tuyến gốc. Sau đó mới thỏa thuận phân chia các vùng đất mới để giảm bớt đi mối tranh chấp.

Các vùng đất mới được tìm ra về “phía Đông” kinh tuyến là thuộc về Portugal, các vùng đất mới nằm về “phía Tây kinh tuyến gốc” ưu tiên thuộc về chủ quyền Spain. Đó cũng là lý do tại sao các nhà truyền giáo, các nhà hàng hải người Portugal đến miền viễn đông Châu Á sớm như Việt Nam, Macau, Nhật Bản.

Tượng nhà hàng hải Ferdinand Magellan ngay giữa Main Square tại Punta Arenas. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Cuối thế kỷ 15, nhà hàng hải Bartolomeu Dias có tham vọng thám hiểm xứ India nằm về phía Đông Phi Châu. Dias chọn cách đi dọc phía Nam biển Atlantic men theo bờ biển Châu Phi xuống tận cực Nam lục địa này, sau đó dự định men theo dọc bờ biển phía Bắc Phi Châu để đến India. Nhưng Dias đã phải bỏ cuộc quay trở về  khi ông đến điểm cực Nam Châu Phi, nơi tiếp giáp của hai biển Atlantic và Indian Ocean vì ở đây thời tiết và sóng gió bão táp quá lớn khiến ông không thể vượt qua được.

Dias đã đặt tên khu vực khó khăn này là Cape of Storms (Mũi Bão Táp). Cho đến năm 1497, Vasco Da Gama của xứ Portugal đã thành công khi ông chỉ huy một đội thuyền vượt qua được vùng biển Mũi Bão Táp và đến được India. Sau đó nhà vua Portugal cho đổi tên lại khu Mũi Bão Táp thành Cape of Good Hope (mà người Việt thường gọi là Mũi Hảo Vọng). Sau này Vasco Da Gama còn thêm nhiều chuyến trở lại India cũng theo con đường này.

Sau Vasco Da Gama ít năm, một nhà hàng hải khác tên Ferdinand Magellan, ông sinh ra và lớn lên ở Portuagal, ông theo học các ngành Địa  Lý, Hàng Hải và đã từng tham dự nhiều chuyến hải hành tìm kiếm các vùng đất mới. Magellan bị ảnh hưởng của một số nhà khoa học lúc đó cho rằng trái đất tròn hình cầu, không phải là hình vuông nên ông có một suy nghĩ khác hẳn các nhà hàng hải khác.

Trong khi mọi người vẫn nghĩ rằng muốn đi từ Âu Châu đến India và các quần đảo Malaysia, người ta chỉ có một con đường duy nhất phải đi về phía Đông. Về kinh nghiệm hàng hải, Magellan đã từng theo các đoàn thuyền đi về phía Đông qua India. Ông cũng đã đến Malacca của Malaysia hai lần.

Vào thời điểm đầu thế kỷ 16, hai xứ Portugal và Spain tranh đua nhau gửi các đoàn thuyền thám hiểm đi tìm các vùng đất mới trao đổi hàng hóa, nhất là tìm mua các gia vị hương liệu vùng Ả Rập – Ấn Độ – Malaysia. Đây là những món hàng khan hiếm và mang lại rất nhiều lợi nhuận cho các nhà vua.

Magellanic Penguins tại đảo Isla Magadelena trên Strait of Magellan. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Magellan biết khá rõ về các xứ sở sản xuất gia vị hương liệu thuộc các vùng Hồi Giáo. Ông nhận được các bản báo cáo về các nguồn gia vị hương liệu của quần đảo Moluccas (Moluku) của Malaysia và Indonesia tọa lạc trên vùng biển “South Sea” (tên trước của Pacific Ocean).

Magellan đưa ra một dự án làm một chuyến hải hành thám hiểm quy mô về quần đảo hương liệu này cho vua Portugal, nhưng không được nhà vua Portugal chấp thuận vì lúc đó nhà vua Portugal đang say mê sự thành công về các chuyến hải hành của Vasco Da Gama. Thất vọng, ông chuyển dự án chuyến hải hành này cho vua Spain. Vị vua này chấp thuận và đồng ý cung cấp cho ông năm chiếc thuyền lớn và một nhóm thủy thủ đoàn lên đến 267 người.

Ngược lại, ông phải từ bỏ quốc tịch Portugal để lấy quốc tịch Spain cho danh chính ngôn thuận và thuận tiện làm việc trong vị trí của ông. Điều này cũng có nghĩa chuyến hải hành của ông bắt buộc phải đi về phía Tây của Âu Châu, vượt biển Atlantic Ocean đi tìm miền đất vùng Nam Á nơi có quần đảo Moluccas. Để nắm vững hải trình chuyến đi, ông đã từng tham khảo với nhà vũ trụ học (the cosmographer) Rui Falero và chọn các phụ tá kinh nghiệm tài giỏi cùng tháp tùng cho chuyến đi.

Ngày 27 Tháng Chín, 1519, Ferdinand Magellan khởi đầu một chuyến hải hành vô tiền khoáng hậu tiến về quần đảo Moluccas. Nhưng đời sống không hẳn lúc nào cũng hoàn toàn theo đúng 100% dự định của mình. Chuyến đi của ông gặp biết bao nhiêu gian khổ bão táp trên đại dương Atlantic Ocean, đoàn thuyền ông bị chìm vỡ mất một chiếc trên đường đi.

Trên đường tiến về phía Nam lục địa Nam Mỹ thêm một chiếc không thể tiếp tục cuộc hành trình, phải quay trở về. Đoàn thám hiểm gần như thất vọng muốn bỏ cuộc chuyến hải hành. Nhưng có lẽ nhờ ơn trên cứu hộ, đoàn thuyền vượt qua bão táp đến một mũi đất thấp bình yên. Ông gọi mũi đất này là Cape of Virgins vào đúng vào ngày lễ “Thánh Ursula và mười một ngàn Virgins” để tạ ơn Thánh Thần giúp ông vượt qua hiểm nguy sóng gió.

Các băng tảng màu Glaciar-Snow-Mountain tại Hồ Lago Grey, Southern Patagonia. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Ít ngày sau ông tìm ra dòng hải lưu tiến vào một eo biển mới, ông đặt tên cho eo biển này là Strait of Todos Los Santos và không ngờ rằng đây chính là eo biển rất dài chạy từ Đông qua Tây nối liền hai biển Atlantic Ocean và “South Sea.”

Chạy dọc theo eo biển Todos Los Santos ông nhận thấy nơi đây có rất nhiều quần đảo nối tiếp nhau, đồng thời môi trường sinh thái ở đây cũng khá là khác biệt với sự hiện diện của các giống chim như hồng hạc Flamingo, chim cánh cụt Penguins, các loại chim hải âu Cormorants và Seagulls sinh sống chiếm trọn cả một vài hòn đảo.

Sau cùng, khi đoàn thuyền vượt ra khỏi eo biển dài hơn 500 km này và bắt đầu tiến vào “South Sea,” nhận thấy sự bình lặng của vùng biển này khác hẳn với vùng biển sóng gió Atlantic Ocean, ông đã thốt lên “Pacific/Biển Bình Yên!” Từ đó tên “Pacific Ocean” được dùng thay thế hẳn cho hai chữ “South Sea.”

Đoàn thuyền tiếp tục cuộc hải trình gian nan vượt qua “Pacific Ocean.” Nhưng không may khi đến khu vực quần đảo Philippines, Magellan bị tử trận trong một trận chiến với thổ dân tại đây vào Tháng Tư, 1521. Nhưng không vì thế mà đoàn thuyền bỏ cuộc. Chuyến hải trình tiếp tục và đến được mục tiêu “Spice/Moluccas Island.” Chiếc Victoria là chiếc thuyền duy nhất còn lại trong số năm chiếc xuất phát khởi hành và Victoria đã trở về đến Spain ngày 6 Tháng Chín, 1522, với 18 thủy thủ sống sót.

Sau gần ba năm lênh đênh trên biển, Victoria là chiếc thuyền đầu tiên của nhân loại hoàn tất một chuyến hải trình vòng quanh trái đất. Tuy Magellan mất đi, không kịp nhìn thấy kết quả sự thành công của dự án mà ông ấp ủ, dù rằng cái giá phải trả cho chuyến hải trình quá gian nan cùng sự mất mát quá lớn cho nhóm thủy thủ đoàn.

Tuy nhiên, chuyến hải hành của ông cũng có nhiều điểm giúp ích cho sự hiểu biết của khoa học và nhân loại. Thứ nhất, chuyến hải hành của Magellan đã chứng minh thực tế cho khoa học thời đó là trái đất chắc chắn có hình trái cầu, cho nên “đi ba năm lại trở về chốn cũ” cho dù đau thương bão táp đã xảy ra! Điểm thứ hai là mãi đến lúc này người ta mới biết đồng hồ thời gian của phía Đông và phía Tây kinh tuyến gốc “xa cách nhau” một đêm ngày. Mặt trái đất bên phía Đông là ngày thì mặt trái đất phía Tây sẽ là đêm.

Bản đồ Chile nằm về phía Tây của lục địa South America. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Miền Southern Patagonia của Chile đã không quên công lao của “Nhà hàng hải vĩ đại Ferdinand Magellan.” Ngày nay miền Southern Patagonia còn được gọi là miền Magallanes and Chilena Antartica, chim cánh cụt Penguins sống vùng này được gọi là  Magellanic Penguins, “Đám mây Magellan/Magellanic Clouds” được dùng để đặt tên cho các “đám mây thiên hà” trong thiên văn học.

Riêng eo biển Todos Los Santod được đổi là Strait of Magellan và trở thành một eo biển huyết mạch dùng cho các đoàn tàu thuyền đi lại từ hai bên Đông Tây của Châu Mỹ trong suốt bao nhiêu thế kỷ. Mãi cho đến 1914 với sự ra đời của kênh đào Panama mới làm giảm hẳn đi tầm quan trọng của Strait of Magellan (Canal Panama làm cho sự đi lại giữa hai bên Đông Tây của lục địa Châu Mỹ dễ dàng, thuận tiện và ít tốn kém vì tàu thuyền tránh được một đoạn đường đi vòng xuống cực Nam rồi lại phải đi ngược lên phía Bắc).

Phần đất phía trên Strait of Magellan trở thành Province of Magellan và thủ đô là Punta Arenas, một thành phố được xem như là cực Nam của lục địa Nam Mỹ. Đi tiếp về phía Nam của Punta Arenas là vô số các đảo lớn nhỏ kéo dài đến tận Cape Horn. Thành phố Punta Arenas được xây dựng dọc theo Strait of Magellan, đây cũng là cảng nơi các Cruise Ship neo bến và là thành phố chính nối kết với các tour du lịch đi khắp vùng Southern Patagonia.

Các bến cảng neo cũ đã được chuyển bến, chỉ còn lại những cột gỗ cũ kỹ còn sót lại trên eo biển trở thành các nơi nghỉ chân cho đám chim biển hải âu. Giữa lòng thành phố, một bức tượng uy nghi của Ferdinand Magellan được thành phố dựng lên giữa Main Square để người dân Patagonia luôn nhớ đến một nhà hàng hải thông minh, can trường và là người đã khám phá ra vùng đất hoang sơ Southern Patagonia đến với thế giới.

Nhưng Punta Arenas không phải là thiên đường trên trái đất, chưa phải là thắng cảnh chính của Southern Patagonia. Bạn phải đến Torres del Paine National Park. Với tôi, đó mới chính là thiên đường trên thượng giới! Không phải là thiên đường trên trái đất.

Source : https://www.nguoi-viet.com/du-lich/south-patagonia-thang-canh-cuc-nam-chau-my/

Trường Việt Nam Hàng Hải 2018, ai còn, ai mất

Trường Việt Nam Hàng Hải 2018, ai còn, ai mất

Albatros

Trường Việt Nam Hàng Hải nằm trong khuôn viên Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ đã tan hàng sau năm 1975 và các sinh viên của trường cũng đi tản mác khắp các quốc gia trên thế giới. Những cánh chim hải âu già yếu đã lần lượt bay xa ngút ngàn và những cánh chim non trẻ của ngôi trường thân yêu ngày nào cũng đang trong lứa tuổi 60.

Đầu năm 2018 ngày 01 tháng 01, anh Võ Bá Thuận K16 Cơ Khí đã vĩnh viễn ra đi tại Canada, thọ 74 tuổi. Qua đến ngày 14 tháng 01, đến phiên bạn Lê Quang Cảnh K19 Pont cũng chấp cánh nối gót theo sau, thọ 68 tuổi. Tôi với Cảnh là bạn học chung lớp Nhứt ở Gò Công nhưng sau đó Cảnh lên Sài Gòn theo học trường Pháp nên sau đó không có dịp gặp lại cho đến khi trúng tuyển vào trường VNHH mới được tái ngộ bạn cũ. Cảnh là dân « công tử », gia đình khá giả nên giao thiệp, quen biết nhiều với giới thượng lưu Sài Gòn lúc bấy giờ, tôi cũng không dám đến chơi vì hoàn cảnh hai người khác xa. Cảnh có gương mặt điển trai lại cao ráo và tập thể dục thẩm mỹ nên có thân mình nở nang, lúc nào cũng chưng diện quần áo thời trang dân hippy và có lẽ vì thế nên được mời đóng một vai phụ với nữ tài tử Thanh Nga trong phim Xa Lộ Không Đèn.

Lê quang Canh và Thanh Nga 2
Lê Quang Cảnh đóng chung với nữ diễn viên Thanh Nga trong phim Xa Lộ Không Đèn

Gia đình Cảnh khai thác tiệm kem nổi tiếng Phương Lan nằm trên đại lộ Lê Lợi, cách café Pôle Nord vài bước và cách tiệm nước mía Viễn Đông vài căn, bạn quen đến chơi thì « cậu » mời lên lầu ăn kem, nhìn xuống đường phố Bonard xem tài tử giai nhân dạo phố. Phải nói thêm, tuy gọi là tiệm nước mía Viễn Đông, nhưng thực ra, đó chỉ là một khoảng không gian nhỏ xây thụt vào trong bức tường với tấm bạt che mưa bên ngoài và không bảng hiệu, dân uống nước mía đặt tên Viễn Đông cho dễ nhớ.

Đường-Lê-Lợi-Pasteur-Saigon-1973-74-Kem-Phương-Lan
Tiệm kem Phương Lan bên phải cột đèn

Dân tỉnh nhỏ mới lên Sài Gòn ở trọ đi học còn ngỡ ngàng, chưa quen đời sống thủ đô, được cậu chủ chiếu cố, mời vào tiệm kem thì ngại ngùng lắm, cảm thấy mình giống như nhân vật Tư Ếch đi Sài Gòn trong một bài ca cải lương. « Cậu » Cảnh đi chiếc xe Lambretta màu trắng đỏ, dựng trước cửa tiệm, tối ngày đi nhông nhông bát phố, đúng là nhà giàu sướng thiệt, chẳng lo lắng chi cả. Tôi nghĩ « cậu » đi học trường VNHH thì chỉ muốn kiếm cái bằng lấy le cho oai thôi chứ cậu đâu có màng cái nghề đi biển cực khổ nầy. Cảnh sau nầy về hưu sống ở Mũi Né – Phan Thiết với bà vợ sau cho đến lúc qua đời ở Việt Nam, kể ra cuộc đời cậu cũng nhàn nhã không nhiều sóng gió như những người khác. Tôi viết hơi dông dài về bạn Cảnh vì là bạn cũ lâu quá không gặp lại từ ngày ra trường và cũng là gương mặt quen thuộc của giới trẻ ăn chơi đình đám của Sài Gòn thuở nào.

Ngày 11 tháng 2, cựu Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh qua đời ở tiểu bang Virginia – USA thọ 90 tuổi, Ông là một Niên Trưởng kỳ cựu cùng lớp với những N/T như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Chơn, Chung Tấn Cang, Võ Bá Nhu, Nguyễn Văn Ba … Qua đến ngày 22 tháng 4, đến lượt N/T Võ Bá Nhu vĩnh viễn ra đi ở Houston thọ 94 tuổi, N/T là thân phụ của đương kiêm Dân biểu Hubert Võ của tiểu bang Texas.

Khoảng tuần lễ sau đó, N/T Nguyễn Đình Quảng nối gót theo các bạn già, tạ thế ngày 30 tháng 4 thọ 90 tuổi tại tiểu bang Illinois. Ngoài ra, KYHH cũng nhận được tin Đồng môn Trần Hoàng Dũng K21 Cơ Khí qua đời ở Việt Nam nhưng không biết ngày giờ và chi tiết.

Tháng 8, trong khi Hội HHTT ở Houston đang chuẩn bị Đại Hội HHTT ở Houston thì nhận được tin Đồng môn Đặng Thanh Cần vĩnh viễn ra đi vào ngày 22/08 tại Basel – Suisse hưởng thọ 72 tuổi. Anh Đặng Thanh Cần đã ghi danh tham dự Đại Hội HHTT và chuyến du hành trên biển cùng các đồng môn nhưng trước khi mất khoảng vài tháng, anh Cần cho biết sẽ không đi dự Đại Hội như dự trù vì sẽ vào bệnh viện. Tuy bệnh tình lúc đó cho thấy không có gì nguy hiểm, nhưng sau đó, tình trạng sức khỏe đột ngột suy sụp nhanh chóng và anh qua đời. Cơn bệnh đã đem anh Cần ra đi bất ngờ, để lại bao thương mến cho bạn bè và đồng nghiệp. Ngoài ra cũng phải kể thêm N/T Trương Hạo không thể đến tham dự ĐH vì lý do sức khỏe mặc dù rất mong muốn và bạn Nguyễn Huy Luận ở Tây Đức cũng không thể đến cũng vì lý do sức khỏe.

Ngày 06 tháng 10, Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền 2018 được khai mạc tại Houston, tiểu bang Texas với trên 100 người tham dự, gồm những hải âu và gia đình cùng các thân hữu. Đại Hội HHTT 2018 được thành công mỹ mãn cũng do sự đóng góp công sức của những anh em vùng Houston. Tuy nhiên, Đại Hội năm nay vắng bóng những « Trưởng lão », những N/T tuổi già sức yếu không thể đến tham dự, không như những năm trước và chỉ có mỗi « Trưởng lão » Lê Văn Được hiện diện và không biết những Đại Hội năm sau có còn được tổ chức hay không. Đại Hội được tiếp nối với chuyến du hành trên biển trên du thuyền Liberty of the Sea với một số anh em để lại những kỷ niệm đáng ghi nhớ.

Đầu tháng Mười, bạn Thái Hồng Thanh từ Melbourne đến Hoa Kỳ và chu du một vòng ghé thăm các bạn hữu K 19 như Hồ Thúc Ngọc, Nguyễn Thanh Sơn, Bùi Khắc Thạch, Huỳnh Ngọc Trí, Lê Thanh Tân, Hùng Lương… bạn cũ mấy chục năm mới gặp nhau cũng vui. Thái Hồng Thanh lúc vừa ra trường VNHH năm 1971 đã rời Việt Nam cuối năm đó, lên đường du học tự túc ở Nhật và sau đó trở thành công dân xứ mặt trời mọc. Thái Hồng Thanh sau đó qua Úc định cư và cũng chưa từng gặp lại bạn cũ nào cho đến trở lại Mỹ năm 2018.

Thai Hong Thanh
Thái Hông Thanh đứng giửa, bên phải là Huỳnh Ngọc Trí, trái là Hùng Lương 2018

Trong tháng 11, tình cờ đọc một truyện ngắn trên internet (1), tác giả cho biết một chi tiết là ngay trước năm 1975, Hàng Không VN đã dự trù xây cất một khách sạn Năm sao sáu tầng với 2000 phòng trên phần đất của Bộ Giao Thông và Vận Tải (trong đó bao gồm Sở Hàng Hải), tọa lạc giửa đường Pasteur và đường Công Lý, trong đó sẽ được đặt bộ chỉ huy của HKVN và sẽ có những cửa hàng bán lẽ, nhà hàng. Về phần Bộ Giao Thông và Vận Tải sẽ được di dời qua chổ khác để có thể phát triển lớn hơn, như vậyvà nếu Sài Gòn không bị thất thủ thì mỗi lần đi trình Rôle d’Equipage ở Sở Hàng Hải, phải đến địa chỉ mới và như vậy sẽ không còn dịp ghé qua tiệm Thanh Xuân làm một tô hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng nằm trên đường Tôn Thất Thiệp gần đó.

Duong Tôn thât Thiêp-Hu tiêu Thanh Xuân
Tiệm hủ tiếu Thanh Xuân, phía xa tấm hình là cổng vào Sở Hàng Hải đường Pasteur

Đường Pasteur - cổng vào Sở Hàng Hải
Cổng vào Sở Hàng Hải nằm cuối mái ngói đỏ đường Pasteur, lề đường bên trái là nước mía Viễn Đông

Tháng 11, ngày 22, cựu Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng qua đời ở Fairfax, Virginia thọ 87 tuổi, Niên Trưởng là cựu Sinh viên Trường Việt Nam Hàng Hải, Khóa 2 cùng với N/T Bùi Ngọc Hương.

Cuộc đời là vậy, sinh lão bệnh tử là chuyện thường tình, nhưng những chia ly, mất mát vẫn để lại những bùi ngùi, thương nhớ cho những người còn ở lại.

Trong tháng 12, anh Đinh văn Thạnh về Việt Nam gặp bạn bè cũ và nhân tiện ghé thăm Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ ngày xưa và chụp một số hình ảnh những trường cũ. Những trường Cao Đẳng Điện, Hóa Học, Công Chánh không thay đổi bao nhiêu, riêng ngôi trường Hàng Hải và Công Nghệ được đổi tên lại là trường Cơ Khí và xây thêm 4 tầng, như vậy ngôi trường xưa bây giờ có đến 5 tầng ; mặt tiền cũng được tân trang lại hoàn toàn, cầu thang bên trong lúc trước được thiết kế hai bên bây giờ được xây lại ở chính giửa, nhìn không ra ngôi trường cũ (xem chi tiết trong mục Tin tức nội bộ 2018).

Con đường vào TTKTPT từ cổng chính
Con đường chính từ cổng TTKT Phú Thọ, ngã rẽ bên phải dẫn vào trường Cao Đẳng Hóa Học, bên trái là trường Hàng Hải và trường Công Nghệ

Trường Công Nghệ và Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí 2018
Trường Cơ Khí được xây cất trên khu đất của trường VNHH khi xưa

Dân ở Sài Gòn lâu năm như anh Vũ Công Thạnh khi vào Đại Học Bách Khoa để chụp ảnh trường VNHH cũ nhưng cũng ngẩn ngơ không biết ngôi trường xưa bây giờ ở đâu ? Viết đến đây, nhân khi nói chuyện với anh Hà Văn Tài qua điện thoại về tin tức của trường cũ, anh thông báo một chi tiết là em của anh tốt nghiệp trường Cơ Khí (trường VNHH cũ) đã cho anh biết ngôi trường Hàng Hải và Công Nghệ xưa đã bị phá hủy hoàn toàn và được xây lại bằng một tòa nhà hoàn toàn mới 5 tầng ngay trên vị trí nầy là trường Cơ Khí bây giờ. Điều nầy có lẽ hợp lý vì tôi quan sát tấm hình của tòa nhà mới nhận thấy nó không mang một dấu vết nào của kiến trúc cũ. Như vậy thì ngôi trường VNHH thân thương của chúng ta khi xưa chỉ còn trong kỷ niệm và không còn lưu lại dấu vết nào bây giờ !

Cổng vào TT KT PT 3
Cổng vào Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ sau 1975, phía trước là đường Nguyễn văn Thoại. Hình chụp từ Cư Xá Lữ Gia

Cổng vào Đại Học Bách Khoa
Cổng vào Trung Tâm Kỹ Thuật sau 1975

Một năm mới 2019 bắt đầu, Việt Nam Hàng Hải Pháp cầu chúc quí cựu Giáo Sư, Niên Trưởng và các bạn đồng môn một năm mới an bình và nhiều sức khỏe và nước Việt Nam thay đổi vận mạng sớm được qua cơn thống khổ triền miên từ hàng chục năm qua dưới ách thống trị của bạo quyền cộng sản.

(1) https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/204-ngu-i-an-may-me-lang-thien-phong

Tin nội bộ 2018

Tin nội bộ 2018

HỘI NGỘ TRONG MÙA GIÁNG SINH

Ngày 23.12.2018 tại Nhà hàng Đông Đô Eden, Saigon các đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải có buổi gặp mặt với anh chị Đinh Văn Thạnh từ California về thăm nhà và thăm anh em đồng môn.
Chúc tất cả anh chị em có những ngày gặp mặt hàn huyên thân mật vui vẻ.

Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 2Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 3Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 4Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 5Họp mặt Giáng Sinh Sài Gòn 2018 1

ships-wheel-2154587_960_720

Trường Việt Nam Hàng Hải trước và sau 1975

TIN MỚI NHẤT VÀ ĐÚNG NHẤT VỀ MÁI TRƯỜNG XƯA

Anh Đinh Văn Thạnh đang ở Saigon, có ghé thăm trường cách đây ba ngày, hình của anh Vũ Công Thạnh gởi cho anh em chúng ta trước đây đó là trường Công Chánh ngày xưa, bây giờ là khoa Xây Dựng.

Anh Đinh Văn Thạnh có gặp một vị giáo sư lớn tuổi ở trường Bách Khoa cho biết thông tin sau đây, tất cả buildings ở Phú Thọ vẫn còn nguyên chỉ sơn lại, duy chỉ có building thứ hai bên trái từ ngoài cổng đi vào đối diện trường Hoá Học bên tay phải là trường Hàng Hải và Công Nghệ ngày xưa bây giờ là khoa Cơ Khí, vì có nhiều ban công nghệ cơ khí khác nhau và thêm ban cao học (thạc sĩ, Master) số sinh viên theo học đông nên building này được sửa sang lại cầu thang xuống để có chổ làm thang máy vì trường đã cất thêm 4 tầng lầu nữa vị chi là 5 tầng lầu, mặt tiền cũng được sửa lại .
1. Building trường Hàng Hải và Kỷ sư Công Nghệ bây giờ, cây bên tay phải có chiếc xe nhỏ màu xanh là nơi các thầy thường hay đậu xe;
2. Cầu thang đi xuống được sữa chữa để có chổ làm cầu thang bên tay trái;
3. Building đầu tiên trường Cao đẳng Điện bên tay trái vẫn còn như xưa, giờ là khoa Điện;
4. Đối diện trường Điện là khoa Điện tử;
5. Đối diện trường Hàng Hải / Công nghệ là trường Cao Đẵng Hoá Học, giờ là khoa Hóa;
Sân cỏ chính giửa hai trường vẫn còn, xưa chúng ta hay chơi volley ball giờ là sân soccer;
6. Building thứ ba bên tay trái sau building trường chúng ta nằm thụt vào một chút, xưa là trường Cao đẳng Công Chánh 3 tầng , giờ vẫn như vậy là khoa Xây dựng . Đây là bức hình anh Thạnh lầm tưởng là building trường Hàng Hải;
7. Thư viện ngày xưa mà khoá 20 cơ khí có tấm hình chụp với thầy Oánh trong ngày tốt nghiệp;
8. Các anh nào ở ký túc xá sv, có quán nước phía sau trường mình. Đây là hình bây giờ;
9. Lớp học ngày xưa trên lầu trường mình;
10. Phòng các thầy giám đốc;
11. Trên lầu nhìn qua trường Hoá Học.

Đinh Văn Thạnh 12/2018

Xin phép đại diện anh em đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải, Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ chân thành cảm ơn anh Thạnh.

Truong-Viet-Nam-Hàng-Hai
Trường Việt Nam Hàng Hải trước 1975

Trường Công Nghệ 2
Trường Việt Nam Hàng Hải trong thập niên 1980

Trường Công Nghệ và Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí 2018
Trường Cơ Khí bây giờ được xây trên phần đất của trường Việt Nam Hàng Hải cũ

Trường Hàng Hải cũ bây giờ là Trường Cơ Khí- Cầu thang được xây lại 2018
Mặt tiền trường Cơ Khí (trường VNHH cũ)

Trường Hóa Học nhìn từ lầu Trường VNHH cũ 2018
Trường Cao Đẳng Hóa Học vẫn còn và sân cỏ ngày xưa chúng ta hay chơi volley ball giờ là sân soccer

Thư viện TT KT PT
Thư viện Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ sau năm 1975

Thư viện Trung Tâm bây giờ
Thư viện TTKT bây giờ 2018

Trường Cao Đẳng Điện 2018
Trường Cao Đẳng Điện – 2018

Trường Cao Đẳng Công Chánh bây giờ là Trường Xây Dựng
Trường Cao Đẳng Công Chánh bây giờ là Trường Xây Dựng – 2018

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn N/T Đinh Mạnh Hùng

Dinh Manh Hung

Chúng tôi vừa nhận được tin:
Đồng môn Khoá 2 1951-1952, trường Việt Nam Hàng Hải:

N/T ĐINH MẠNH HÙNG
(cựu phó Đề Đốc Hải Quân VNCH)
Pháp Danh: Nguyên Tuế
Vừa thất lộc vào ngày 22 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày 15 tháng 10 năm Mậu-Tuất) tại Fairfax, Virginia.
Hưởng thọ 87 tuổi

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam &  Kỷ Yếu Hàng Hải thành kính chia buồn cùng toàn thể gia quyến và nguyện cầu hương linh N/T ĐINH MẠNH HÙNG được sớm phiêu diêu về miền Lạc Cảnh.

N/T Đinh Mạnh Hùng là cựu sinh viên khóa 2 trường Việt Nam Hàng Hải cùng khóa với N/T Hương. 

ships-wheel-2154587_960_720

Hình ảnh Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền tại Houston 2018

Dai-hoi-Hang-Hai-2018

HÌNH KỶ NIỆM

Để in ra và giữ làm kỷ niệm những tấm ảnh mà mình yêu thićh, mời quý bạn vào link dưới đây:
https://photos.shutterfly.com/…/ff51ffd7-56a1-…/90234119392…

Link nầy cũng do anh chị Hoàng và Dung thực hiện và gởi tặng.
KYHH chân thành cảm tạ hai anh chị.

* Đại Hội Hàng Hải Thương Thuyền  tại Houston 2018 trên Youtube

ships-wheel-2154587_960_720

Hình ảnh tàu Việt Nam Thương Tín 1 tại Guam 1975

MS Viet Nam Thuong Tin 1 -4 (2)MS Viet Nam Thuong Tin 1 -3MS Viet Nam Thuong Tin 1MS Viet Nam Thuong Tin 1 -2

Source: http://themsonha.blogspot.com/2016/07/

Hình ảnh tàu Sông Bé 12 tiến vào hải phận Úc

December 1977

Song Be 12 -5Song Be 12 -1

ships-wheel-2154587_960_720

TANG LỄ ANH ĐẶNG VĂN CẦN ngày 31.08.2018 tại

BASEL – SUISSE

Bài viết của Đồng môn Luận Nguyễn, Germany

Thân chào các đồng môn, hôm thứ sáu ngày 31-08-2018 tôi đến Basel / Thụy sĩ dự đám tang, tiển đưa Anh Đặng thanh Cần một người bạn, một đồng môn về cõi vĩnh hằng.
Thi hài đả được hỏa táng vào ngày thứ tư và tro hài cốt được cho vào lọ (urn), đến thứ sáu được đưa xuống tàu MS Lällekönig. Đúng 13:30 giờ tàu rời giang cảng Dreilaendereck (ngã ba tam biên Thụy Sĩ / Đức / Pháp) đến trạm kế tiếp đón thêm các thân hữu tham dự tang lễ và tiếp tục chạy trên sông Rhin.
Tàu MS Lällekönig (giang thuyền chở du khách trên sông) hạ thủy năm 1980 và vài năm sau thủy thủ Đặng thanh Cần làm việc trên tàu nầy nhiều năm trước khi chuyển qua các tàu khác, cấp bậc cuối cùng là Captain trước khi về hưu năm 2011.
15:00 tang lễ cử hành và sau đó tro hài cốt được chị Phương vợ của Anh Cần rải xuống sông Rhin cùng những đóa hoa trắng tôi theo giòng nước về hạ nguồn (Pháp, Đức, Hòa Lan), tang lễ chấm dứt lúc 16:00.
Chuyến tàu đưa tro hài cốt Anh Cần theo giòng sông Rhin chảy ra cửa biển Amsterdam và đi vào lòng Đại Tâv Dương, chuyến nầy là chuyến cuôi cùng của tàu MS Lällekönig sau 38 năm ngang dọc trên sông.

Gia đình anh Cần nhờ chuyển lời cảm tạ tất cả các đồng môn, bạn bè và thân hữu trong Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam đã gởi lời chia buồn đến gia đình.

Tang le Dang Thanh Can 1.jpg

Tang le Dang Thanh Can 4.jpg

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Hội Thân Hữu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam,
Kỷ Yếu Hàng Hải,
Đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải khóa 17
chân thành chia buồn cùng Gia đình anh:
ĐẶNG THANH CẦN
Cựu sinh viên khóa 17 trường Việt Nam Hàng Hải
Đã qua đời lúc 0 giờ 14 phút sáng ngày 22 tháng 8 năm 2018 tại Basel, Switzerland sau môt thời gian bị bạo bệnh, hưởng thọ 72 tuổi

Cầu chúc hương linh đồng môn, đồng nghiệp ĐẶNG THANH CẦN sớm về cõi vĩnh hằng.
Chúng tôi sẽ mãi nhớ về bạn.

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Đồng Môn Trần Hoàng Dũng

Đồng Môn Trần Hoàng Dũng

Cơ Khí Khóa 21 Trường Việt Nam Hàng Hải

Đã mãn phần tại Việt Nam

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Niên Trưởng Nguyễn Đình Quảng

Nguyen Dinh Quang.JPG

ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn Niên Trưởng Võ Bá Nhu

Vo Ba Nhu 2

ships-wheel-2154587_960_720

Đề Đốc Việt Nam Cộng Hòa Lâm Ngươn Tánh qua đời ở Virginia, hưởng thọ 90 tuổi

Huy Lam / SBTN

LamNguonTanh-01-BBC
Ảnh: BBC

Đề đốc Việt Nam Cộng Hòa Lâm Nguơn Tánh, người chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa, vừa qua đời hôm 11 tháng 2 tại nhà riêng ở thành phố Fredericksburg, tiểu bang Virginia, hưởng thọ 90 tuổi.

Một thông báo do gia đình và Đảng Dân Tộc Việt Nam, mà ông Lâm Nguơn Tánh là Phó Tổng Bí Thư, cho hay như vậy. Đề đốc Lâm Ngươn Tánh là Tư Lệnh Hải Quân cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 17 tháng 1 1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh trong vai trò Tư lệnh phó Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bay ra Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải tại Đà Nẵng để chỉ huy lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa.

Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1928 tại Lai Vung, Sa Đéc. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trúng tuyển và theo học trường Hàng Hải Thương Thuyền của Pháp tại Sài Gòn vào năm 1948. Ông tốt nghiệp cấp Thuyền Trưởng và phục vụ trong ngành hàng hải cho đến ngày gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1952. Cuối năm 1954, ông được thăng cấp Hải Quân Đại Úy, chuyển sang làm hạm trưởng giang pháo hạm HQ-330. Sau đó, ông được cử làm chỉ huy trưởng Giang Lực Miền Đông trong thời kỳ đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa. Tháng 10 năm 1956, ông được bộ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng Hải Lực, trách nhiệm toàn bộ Hạm Đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 11 năm 1974, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Hải Quân thay thế Đề đốc Thiếu tướng Trần Văn Chơn.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vợ chồng Đề đốc Lâm Ngươn Tánh lên chiến hạm HQ Trần Hưng Đạo di tản sau khi không còn con đường nào khác.

https://www.sbtn.tv/de-doc-viet-nam-cong-hoa-lam-nguon-tanh-qua-doi-o-virginia-huong-tho-90-tuoi/

ships-wheel-2154587_960_720

Tin Buồn Đề Đốc LÂM NGƯƠN TÁNH ĐÃ QUA ĐỜI

Kỷ Yếu Hàng Hải

LamNguonTanh

Niên Trưởng sinh ngày 18 tháng 10 năm 1928 tại Sa Đéc, Việt Nam.
Qua đời ngày 11 tháng 2 năm 2018 tại Fredericksburg, bang Virginia, Mỹ. Hưởng thọ 90 tuổi.

Niên Trưởng Nguyễn Văn Ba, hiện đang sinh sống tại Houston Texas có viết về các đồng môn cùng khóa của ông như sau: « Lúc tôi học lớp Machine gồm có vài anh như là Đỗ Bá Ngôn (anh Đỗ Bá Ngữ học Pont), Nguyễn Xuân Kim, Nguyễn Văn Thành.., ở nội trú Bùi Văn Nghiêm, Huỳnh Văn Lãm.
Lớp Pont gồm có các anh Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Chơn, Chung Tấn Cang, Lâm Nguơn Tánh, Đoàn Luyện, Võ Bá Như, Đỗ Bá Ngữ, Tôn Thọ Khương, Nguyễn Văn Trương, Đào Quang Ngải, Tôn Thất Tuyên … Ra trường năm 1949 kẻ thì đi tàu, người đi Tây ít dịp gặp lại nhau ».

 HỘI THÂN HỮU HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN VIỆT NAM
 KỶ YẾU HÀNG HẢI
ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

ships-wheel-2154587_960_720

KỶ YẾU HÀNG HẢI TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU SÁCH CỦA PHẠM TẤN QUỐC, ĐỒNG MÔN TRƯỜNG VIỆT NAM HÀNG HẢI :

THE WORLD LOOKED AWAY [Thế Giới Ngoảnh Mặt]
VIETNAM AFTER THE WAR [Việt Nam Thời Hậu Chiến]
QUOC PHAM’S STORY
by
DAVE BUSHY

Quý Niên Trưởng,
Quý Đồng Môn,

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào ngày 30 tháng 4, năm 1975. Hàng triệu người trong cả hai phía bị mất mạng. Gần 60 ngàn người Mỹ tử trận. Mới đây bạn đã xem hoặc nghe về cuộc chiến trong phiên bản dài của Ken Burns “Chiến Tranh Việt Nam”. Nhưng những gì đã xảy ra cho miền Nam Việt Nam khi mất nước? Những gì đã xảy ra cho những cựu sĩ quan và lính của họ, cho gia đình và cả cho đất nước?. Cuốn sách mới được phát hành “Thế Giới Ngoảnh Mặt – Việt Nam Thời Hậu Chiến – Câu chuyện của Phạm Tấn Quốc” cố gắng kể lại chuyện đó.

Cuốn sách là ký sự của một người cựu sĩ quan và người vợ tranh đấu để sống sót sau năm năm trong trại tù cải tạo, bị đày khu Kinh Tế Mới, và ngay cả đi xâm mìn ở biên giới Kampuchea. Câu chuyện sống qua cuộc vượt biên trong bão tố với 55 người trên chiếc thuyền bé nhỏ mỏng manh trên biển Đông. Tuy là một người đọc nhiều sách lịch sử tôi biết rất ít về thời gian này. Tôi rất vinh dự được cùng với Quốc tìm hiểu về câu chuyện của ông và viết ra.

Mời quý vị vào website: theworldlookedaway.com

The-World-Looked-away.jpg
ships-wheel-2154587_960_720

Tin buồn về bạn Lê Quang Cảnh K 19

Lê quang Canh

Lê quang Canh - cáo phó 2.JPG

LQC-4
Kem-Phuong-Lan-2

Lê-quang-Canh-và-THanh-Nga-trong-phim-Xa-lô-không-dèn
Lê quang Canh và Thanh Nga 4

ships-wheel-2154587_960_720
Tin buồn Niên Trưởng Võ Bá Thuận K 16 M

Võ Bá Thuận 2

Võ Bá Thuận 3Võ Bá Thuận