Cho đến năm 1954 chưa có một tàu buôn nào mang cờ Việt Nam. Chỉ có chiếc du thuyền của Quốc Trưởng Bảo Đại tên là Hương Giang mang quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ. Chiếc này thường đậu tại cầu Cửu Long ở bến Bạch Đằng ngay đầu đường Paul Blanchy tức là Hai Bà Trưng về sau. Chiếc tàu này do Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba chỉ huy, bên máy có Cơ khí trưởng Nguyễn Văn Tươi và ban Vô tuyến có thầy ký Hổ.
Cho đến đầu thập niên 1950, những Sinh viên Sĩ quan Hàng hải tốt nghiệp đều xuống thực tập trên các tàu Pháp.
Các hãng tàu Pháp lúc bấy giờ gồm có các hãng sau đây:
Hãng Denis Frères
Trụ sở của hãng nầy đặt ở đầu đường Catinat tức là Tự Do về sau, dựa bến Bạch Đằng. Hãng nầy gồm có các chiếc tàu: Trấn Ninh, Langlard, Courlis, Djiring, Ville de Hải Phòng, Ville de Sàigòn..v.v..
M/S VILLE DE SAIGON
Hãng Denis Frères vào khỏang các năm 1953-1954 mua hai chiếc tàu mới chở hành khách nối liền các bến Sàigòn, Nha Trang, Đà Nẵng (Tourane) lấy tên là Ville de Saigon và Ville de Haiphong.
Hãng Chargeurs Réunis
Hãng Chargeurs Réunis thường được gọi là Hãng tàu Năm Sao, vì trên lá cờ của hãng có năm ngôi sao đỏ. Trụ sở của hãng dặt đối diện bến Bạch Đằng bên cạnh khách san Majestic. Hãng nầy gồm có các chiếc: Docteur Roux, Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine, Bokor, Mowgli, Bagherra, Kaa, v.v…
Hãng SMEO
Đó là tên tắc của hãng Société Maritime de l’Extrême Orient. Hãng nầy gồm có các tàu Docteur Yersin, Docteur Laveran, v.v… Hai hãng tàu Chargeurs Réunis va SMEO có cùng một ban Giám đốc, cùng một trụ sở và người phụ trách về trang trí (Armement) là ông Commandant Joly, Capitaine d’Armement.
Đa số các tàu của những hãng trên là thuộc loại tàu PARK. Loại tàu này được đóng vào những năm 1943-1944 trong những năm cuối của Đệ nhị Thế chiến đễ chuyển quân nhu, quân dụng, đạn dược tiếp tế cho chiến trường Âu châu Chống Phát Xít Đức.
Tàu được đóng cấp tốc, thô sơ để chỉ đi một chuyến qua Đại Tây Dương mà thôi. Sau khi đánh bại Đức Quốc Xã năm1945, các tàu nầy được tặng cho các nước Âu châu trong khuôn khổ kế hoạch Marshall. Nước Pháp đã nhận được một số tàu loại PARK và đã mang dùng tại Đông dương cho dến 1954. Tàu PARK là một loại tàu 4 hầm, dài lối 100m có đài chỉ huy (Passerelle) ngay ở giữa tàu, trọng tải lối 4600 tấn. Tầm nước lối 6m, rất thích hợp để vào các bến cảng của Việt Nam..
Các hãng tàu Pháp dùng loại tàu nầy chuyên chở quân trang quân dụng yểm trợ cho chiến trường Đông dương từ năm 1945 đến 1954, đồng thời chở than đá từ các mỏ than Hòn gay, Cam phả về Ba ngòi, Sàigòn.
Hãng Messageries Maritimes
Hãng nầy còn gọi là Hãng Nhà rồng, trên lá cờ có hai chữ M.M. Trụ sở đặt ngay bến tàu Nhà rồng nằm ở thượng dòng thương cảng Sàigòn, đối diện với cột cờ Thuận ngữ (Pointe des Blagueurs) ở ngay cửa Sông Bến nghé.
Hãng Messageries Maritimes là một hãng lớn của Pháp có tàu chạy khắp Thế giới, ở vùng Đông Nam Á chỉ có vài chiếc tàu nhỏ như chiếc Sông Bé. Có nhiều Sĩ quan Hàng hải Việt Nam làm Sĩ quan phụ tá (Lieutenant) trong hãng nầy.
Ngoài các hãng tàu lớn kể trên, có nhiều hãng tàu nhỏ khác gồm các tàu DINARD, ADMIRAL VERNON, POUYANNE, JEAN DUPUIS, BERBERE, LIEUTENANT MARK, OUALIDIA, v.v…
Đến năm 1954, đội thương thuyền Pháp bắt đầu rút về nước. Chánh phủ Việt Nam với Sở Hỏa xa đã mua 3 chiếc tàu có tên là Nguyẽn Văn Bảy, Lê Văn Thương va Tôn Thất Kỳ. Đây là những thương thuyền đầu tiên mang quốc kỳ Việt Nam. Đồng thời cũng có những hãng tàu khác với những thương thuyền mang tên Khánh Hòa, Phong Châu, Nam Việt, Nam Sanh, v.v…gia nhập đội thương thuyền Việt Nam.
M/S NGUYỄN VĂN BẢY tên cũ là CHEF MECANICIEN ARMAND BLANC được mua lại từ Pháp năm 1954 và chìm vào năm 1957 ở Cap Varella nằm giửa Nha Trang và Qui Nhơn
Đến cuối thập niên 1950 qua đầu thập niên 1960, dưới chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa thời hưng thịnh, hãng tàu Việt Nam Hàng Hải Thương thuyền còn gọi là hãng Nguyễn Văn Bửu ra đời. Hãng nầy mua một số tàu của Nam Tư trọng tải từ 600 tấn đến 1000 tấn hàng mang tên Trường Sơn, Đại Hải, Thống Nhất, Thăng Long, Tiền Phong, Phú Quốc, Nhựt Lệ, v.v…
Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa, các tàu của hãng Nguyễn Văn Bửu, thường được gọi là “Tàu Bà” được đặt dưới quyền quản trị của Ủy Ban Đặc Trách Khai Thác của Hải Quân Việt Nam. Một số Sĩ quan Hàng hải động viên cũng như nhiều Sĩ quan Hải quân được biệt phái về làm việc trên các thương thuyền nầy.
Giữa thập niên 1960, có một nhà kinh doanh tên là Trần Đình Trường, đã lập ra một hãng tàu mới lấy tên là VISHIPCO LINES. Hãng nầy có những tàu mang tên Sao Mai, Trường Kỳ, Trường Thành, Trường Xuân, Trường Vinh, Trường Giang, Trường Hải, Bông Hồng 9, v.v…
M/T Bông Hồng 9 ở Subic BayTàu Đồng Nai
Ngoài ra có một số hãng tàu nhỏ ra đời với các tàu mang tên Anh Tuấn, Đồng Nai, Tân Nam Việt, Đại Dương, Long Châu, v. v…
Thêm vào đó, vì nhu cầu xuất nhập cảng hãng hóa, công ty VIỆT NAM HÀNG HẢI đã mua một chiếc tàu lớn lấy tên là VIỆT NAM THƯƠNG TÍN I, trọng tải lối 10,000 tấn trang bị Viễn Dương Hàng Hải.
Đội thương thuyền Việt Nam gồm trên dưới 20 chiếc tàu lớn nhỏ đã vươn cao ngọn cờ Việt Nam Cộng Hòa khắp nơi trên Thế Giới.
Bản tham khảo về thương thuyền hoạt động tai Việt Nam chắc chắn phải có nhiều thiếu sót và sai lầm, chúng tôi hoan nghinh mọi ý kiến bổ túc và sữa sai nếu cần.
KHÓA TỐT NGHIỆP THUYỀN TRƯỞNG VIỄN DUYÊN NĂM 1958 VÀ SỰ THÀNH LẬP HÃNG VIỆT NAM HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN
Nguyễn Nhơn Đức
Năm tốt nghiệp Thuyền Trưởng là một năm không bao giờ quên trong đời của một Sĩ Quan Hàng Hải. Tôi còn nhớ năm đó chỉ có vỏn vẹn 4 thí sinh, gồm có: Tạ Cảnh Hi, Bùi Ngọc Hương, Nguyễn Nhơn Đức và Bửu Hành. Ba người đầu là bạn cùng khoá lý thuyết 1951-1952, anh Bửu Hành thuộc khoá 50-51. Dĩ nhiên việc đầu tiên mà chúng tôi mong muốn nhất là một chức vị «Phó Thuyền Trưởng».
Rất may mắn là trong tháng bảy năm đó hãng Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền (VNHHTT) ra đời với 3 chiếc tàu vừa về đến Saigon: Trường-Sơn, Đại-Hải và Nhật-Lệ.
Tôi may mắn được bổ nhiệm làm Phó Thuyền Trưởng trên chiếc Trường Sơn với một Thuyền Trưởng người Nam-Tư (Yougoslave) cùng với hai sĩ quan Trung Úy (dịch) là các anh Tạ Cảnh Hi và Bửu Hành. Chiếc Đại Hải thì có anh Trương Văn Tây làm Phó Thuyền Trưởng với một Thuyền Trưởng cũng người Nam-Tư. Chỉ có chiếc Nhật Lệ là được giao lại cho anh Tôn Thất Ấn làm Thuyền Trưởng với anh Nguyễn Văn Danh làm Thuyền Phó.
Sau đó kế tiếp về thêm 4 chiếc nữa: Thăng Long, Tiền Phong, Thống Nhất và Phú Quốc.
Trong hoàn cảnh nào hãng tàu này đã được thành lập?
Chỉ có 3 người được biết rõ nội bộ bên trong lúc thời bấy giờ là các anh Hồ Đắc Tâm, Tôn Thất Ấn và tôi, mặc dầu anh Hồ Đắc Tâm không bao giờ chính thức làm việc trong hãng tàu mà chỉ là một cố vấn mà thôi.
Lúc đó có danh từ « Hãng Tàu Bà ». Tại sao?
Vì Hãng VNHHTT được thành lập để làm kinh tài cho «Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia» lúc thời bấy giờ tức là Đảng của chính quyền và người chủ chốt không ra mặt là Ông Ngô Đình Cẩn.
Sự duy trì lại 2 thuyền trưởng người Nam-Tư trong thời gian ngắn lúc đó cũng là vì một lý do chính trị :
Nếu có biến cố thì sẽ có sẵn thuyền trưởng ngoại quốc chở đi tẩu thoát.
Mọi việc đã trôi chảy cho đến ngày Quân Đội đảo chính năm 1963 với tất cả những gì đã xảy ra mà tất cả các anh em trong Hội HHTT của chúng ta ngày hôm nay đều biết: 3 nhân vật của gia đình họ Ngô bị giết, hãng tàu VNHHTT bị tịch thâu.
Lúc ngày đảo chính, tôi làm Thuyền Trưởng trên tàu Thăng Long đậu ở bến Nha Trang.
Một Đại uý Hải-Quân mà tôi không nên nói tên ra đây, đã chuyển đến tôi lệnh của Bộ Chỉ Huy Thủy Quân Lục Chiến ở Nha-Trang, thay mặt Hội Đồng Cách Mạng, bảo tôi phải mang tàu về Saigon để trao lại cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Sau khi bốc hàng xong, tôi đã mở dây chạy về Saigon và buộc phao trước Bến Bạch Đằng.
Từ đó (1963) tôi tiếp tục làm Thuyền Trưởng trên tàu Thăng Long dưới sự điều khiển của một Uỷ Ban Khai Thác mà Chủ Tịch là ông Lâm Ngươn Tánh, Tham Mưu Trưởng Hải Quân, và Phó chủ Tịch là ông T.V.Tất, Giám Đốc Hành Chánh của Hải Quân.
Tôi đã từ chức vào khoảng giữa năm 1965, sau khi đã cộng tác hai năm với Uỷ Ban Khai Thác.
Và cũng từ cuối năm đó tôi đã lên đường tha hương.
Tôi xin gửi đến các bạn một ký ức để trước hết bày tỏ tình cảm với các bạn cùng khóa trong đó có bạn đã quá vãng, các bạn đã cùng đi với tôi trong hãng tàu VNHHTT trong đó có ông Tân Chủ Tịch Hội HHTT Lê-Văn-Được.
Thời gian trước năm 1949 Sàigon chỉ có một Đoàn Hoa Tiêu hợp hiến hợp pháp duy nhứt là: Đoàn Hoa Tiêu sông Saìgon (Pilotage de Saigon) của người Pháp, sông Mékong (CửuLong) lúc bấy giờ chưa có Hội Hoa Tiêu nào ra đời, tàu bè lớn nhỏ đi PhnomPenh (Campuchia) của Công ty nào thì Công ty đó tự thuê mướn người đi dẩn dắt, có Công ty thì thuê chuyến, Công ty nào có nhiều tàu hơn thì thuê tháng…giai đoạn vậy thôi!!
Mấy anh em được những Công ty nầy thuê mượn như vậy đều có bằng Patron au bornage, trước năm 1945 đả từng là lính thủy của Hải Quân Pháp ở Nam Kỳ (miền Nam Việt Nam), phục vụ trên những tàu gọi là Canonnières của Hạm đội Pháp ở miền Nam.
Tàu Canonnières nầy là những chiến hạm nhỏ, chỉ chuyên chạy luồn lách trên những sông rạch để tìm kiếm luồng lạch & vẻ bản đồ những Sông rạch của miền Nam Việt Nam & Campuchia… thế nên, không ai thông thạo luồng lạch trên những sông rạch hơn mấy ông bạn nầy được…?!
Nhận thấy tình hình tàu bè phát triển mỗi ngày càng nhiều, anh em cứ chia nhau đi làm riêng rẻ như thế nầy hoài thì không ổn lắm!! mấy anh em nầy tập hợp nhau lại để thành lập ra một đoàn hoa tiêu hợp hiến hợp pháp, xong rồi sẻ gom góp những tàu bè đi lang thang trên những con sông Mékong, sông Tiền, sông Hậu…v…v. về một mối….?! Lần đầu tiên tập họp được 9 anh em, đây coi như là 9 thành viên sáng lập & cũng là 9 cây cột trụ của Đoàn Hoa Tiêu đứng “ trấn “ 9 nhánh cửa của sông Cửu Long, và đều có quyền Phủ quyết như nhau.
Trong số nầy gồm các anh:
– Nguyễn văn Trí
– Nguyễn văn Ngọt
– Lê văn Phu
– Nguyễn văn Qúi
– Dương văn Lê
– Nguyễn văn Tỷ
– Trần cẩn Thận
– Đoàn văn Phẩm
– Võ văn Tây
Anh em nhất trí bầu anh Nguyễn văn Trí làm Đoàn Trưởng Hoa Tiêu.
Thế là cuối năm 1949, danh chánh ngôn thuận, Đoàn Hoa Tiêu nầy được chánh thức ra đời, lấy tên là : Đoàn Hoa Tiêu sông Mékong (Pilotage du Mékong).
Vài tháng sau đoàn bổ sung vô thêm 3 người anh em nửa, là các anh: Nguyễn văn Kỳ; Nguyễn văn Biện; Nguyễn văn Trai. Ba người nầy vô sau, không phải là thành viên sáng lập Đoàn nên không được hưởng quyền phủ quyết…!!
Những tàu lên Phnom Penh hoặc đi CầnThơ…trọng tải từ vài trăm tấn đến 4.000 tấn cũng được nhưng mớm nước (Tirant d’eau) phải bị khống chế 4,2 m trở xuống mà thôi (do điều kiện luồng lạch…!!). Tất cả các tàu đều nhận & trả Hoa Tiêu tại Rade Vũng Tàu nên Đoàn Hoa Tiêu nầy chỉ có Trạm hoa tiêu Vũng Tàu (mấy năm sau nữa thì thêm trạm ở Tân Châu).
Văn phòng đặt ở đường Tôn Thất Đạm, Chợ Củ – SaìGon ..
Và cứ như thế, Đoàn Hoa Tiêu cứ từ từ phát triển…và trong cái vòng khép kín…giữa anh em với nhau thôi, không để hé cái vòng nầy ra một tí nào để thâu nhận thêm anh em khác vào nữa…!!
Mãi đến 9 – 10 năm sau, do nhu cầu phát triển Đoàn & lưu lượng tàu bè trên sông tăng nhanh, cái vòng khép kín nầy mới được hé mở để thâu nhận thêm hoa tiêu mới… không phải nhận vô một lần, mà từng đợt 2 – 3 năm nhận vô 2 người .
Những anh được nhận vô làm hoa tiêu sau nầy mới thật sự là những Sĩ Quan Hàng Hải, họ đều có bằng Capitaine au Grand Cabotage Application & rất nhiều năm đi biển….!!
Lần lượt gồm những anh: Nguyễn khương Linh; Nguyễn văn Chiểu; Nguyễn văn Khươn; Võ Thành Tuấn; Nguyễn văn Hường; Nguyễn văn Liêm; Chế công Tá; Tô ngọc Thủy.
Và cứ như thế….cho đến ngày 30/4/1975… Sau đó mấy tháng, do nhu cầu cải tổ nhân sự hay thay đổi cơ cấu hành chánh gì đó? mà Nhà nước lúc bấy giờ cho giải tán Đoàn Hoa Tiêu sông Mékong, chuyển 5 anh bạn hoa tiêu trong nầy qua Đoàn Hoa Tiêu sông Saìgon, để tiếp tục làm hoa tiêu, dẩn dắt tàu bè…?! Đó là các anh: Dương văn Lê; Nguyễn văn Hường; Chế công Tá; Tô ngọc Thủy & Nguyễn văn Khươn…
Sự tồn tại của Đoàn Hoa Tiêu sông Mékong nầy chỉ vỏn vẹn trong vòng có 26 năm thì tan biến mất…!! 1949 – 1975!… Sự tồn tại của những Hoa Tiêu trong Đoàn cũng theo thời gian mà tan biến theo luôn….!! Hiện nay, ở TP.HCM còn sót lại 2 người, anh Dương văn Lê & Nguyễn văn Biện , đả 88 tuổi & sức khỏe suy yếu chắc cũng…gần đất xa trời rồi…?!! Nước ngoài còn được 4 anh chàng: Tô ngọc Thủy & Nguyễn văn Liêm ( Mỹ ), Võ Thành Tuấn (Canada), Nguyễn văn Chiểu (Pháp)…ngoài ra thì những anh em khác đều đả ra người thiên cổ từ lâu lắm rồi…!!!
PS: Tôi chẳng phải là Hoa Tiêu gì gì…hết, nhưng dựa vào những mối quan hệ thân thiết & lâu dài với mấy anh em trong Đoàn HoaTiêu và, có thể nói, là người rành lắm chuyện của Đoàn Hoa Tiêu; vì thấy ngày ra mắt Kỷ Yếu Hàng Hải của mấy bạn trẻ gần đến nơi rồi mà chưa có người nào chịu xung phong nhảy ra cung cấp tài liệu nầy, nên “ ngứa mũi “ nhảy ra phụ giúp mấy bạn trẻ mà làm cái công việc… không phải của mình đây…?!!! Cam đoan nếu không đúng 99,99% thì cũng đúng được 96 – 97%, như vậy là quá tốt rồi?? Phải không mấy bạn trẻ…?!!
Trong thời kỳ Pháp thuộc, có hai Đoàn Hoa tiêu do người Pháp điều khiển là Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn ở miền Nam và Đoàn Hoa tiêu cảng Hải Phòng ở miền Bắc Việt Nam.
Đến năm 1955, theo Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh năm 1954, quân đội Pháp và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rời bỏ nữa phần Việt Nam phía Bắc Vĩ tuyến 17, Đoàn Hoa tiêu cảng Hải Phòng của người Pháp rời miền Bắc về xứ để giao trả cho chính quyền Hà Nội.
Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn được giao trả cho chính quyền Sàigòn từ năm 1958. Cũng trong thời gian nầy, có một Đoàn Hoa tiêu khác lấy tên là Đoàn Hoa Tiêu Sông Mekong (Cửu Long) do một số Sĩ quan Hàng hải Việt Nam thành lập để dẫn dắt tàu bè ngoại quốc ngược dòng lên Phnom Penh.
Về sau trong lúc chiến tranh Việt Nam 2 tức là lúc Hoa Kỳ can thiệp để bảo vệ miền Nam Việt Nam, các Đoàn Hoa tiêu sông Hàn (Đà Nẵng), Qui Nhơn và Cam Ranh được thành lập.
Các Đoàn Hoa tiêu tại Việt Nam được thành lập chiếu theo Sắc lịnh ngày 31 tháng 3 năm 1933 về Hoa tiêu trong thời kỳ Pháp thuộc. Riêng Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn được thành lập chiếu theo nghị định ngày 30 tháng 12 năm 1935 ấn định qui chế và tổ chức của Đoàn.
Trên thực tế, theo các tài liệu lưu trữ và các niên trưởng Hoa tiêu, Đoàn Hoa Tiêu Sông Sàigòn đã có từ năm 1900, hoàn toàn do Hải quân Pháp điều hành. Trạm Hoa tiêu Vũng Tàu lúc bấy giờ chỉ là một trạm nổi ở vịnh Dứa (Bais des Cocotiers) ở Bãi trước có tên « Le Lion ».
Từ ngày 12 tháng 12 năm 1905, Đoàn mới thuê một khu đất để xây cất trụ sở trên đất liền. Đó là một căn nhà vuông vức giống như cái « Bánh ít », một biệt thự nóc đỏ còn giữ lại cho đến ngày nay. Người Hoa tiêu Pháp đầu tiên là ông Raymond Ruggiery gia nhập Đoàn năm 1930 và người cuối cùng là ông Maurice Charpentier vào Đoàn năm 1953.
Trước năm 1958, Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn là một công ty tư nhân tập họp những Sĩ quan Hàng Hải Pháp, phần lớn là những Viễn Dương Thuyền trưởng (Capitaine au long cours) để đảm nhận công việc dẫn dắt những tàu ngoại quốc ra vào sông Sàigòn từ Vũng Tàu đến cảng kho 5 ở Khánh Hội Sàigòn.
Đoàn có chừng trên dưới 20 người đã từng làm Thuyền trưởng trên các thương thuyền hoặc đã từng làm Hoa tiêu các bến cảng ở Pháp, họ đều có rất nhiều kinh nghiệm vận chuyển tàu bè qua các lòng lạch trên sông ngòi và bến cảng.
Trước khi Đoàn Hoa Tiêu Sông Sàigòn được giao trả cho các Hoa Tiêu Việt Nam, Trưởng Đoàn người Pháp tên là Pierre Oliver, những Hoa tiêu lúc bấy giờ là các ông August Brignatz, Jean Romano, René Dasté, Maurice Charpentier, Laroque, Đặng Văn Châu, v.v…
Ông Đặng Văn Châu là người Việt Nam duy nhất trong một Đoàn Hoa tiêu người Pháp. Ông tốt nghiệp Viễn Dương Thuyền Trưởng (Capitaine au Long Cours) từ trường Hàng Hải Pháp và gia nhập Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn năm 1956. Có lúc ông Châu kiêm nhiệm chức vụ Giám Đốc Trường Việt Nam Hàng Hải ở Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ.
Trong năm 1958, xảy ra vụ tranh chấp giữa Đoàn Hoa tiêu người Pháp và chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa dưới quyền lảnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Những lợi tức thu nhập của các Hoa tiêu người Pháp từ trước đã được Sở Hối Đoái Việt Nam cho phép chuyển về Pháp theo hối suất chính thức tòan phần tức là 100%. Đến năm 1957, chính phủ Việt Nam chỉ cho phép chuyển về Pháp một cách hạn chế. Do đó, những Hoa tiêu người Pháp phản đối và đòi rời xứ.
Trước vấn đề nan giải trên, Phủ Tổng Thống chỉ thị Nha Thủy Vận phối hợp với Nghiệp Đoàn Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam để giải quyết. Chủ tịch Nghiệp Đoàn Hàng hải lúc bấy giờ là niên trưởng Tạ Nhựt Hy, đương kim Thuyền Trưởng tàu Dinard, một đàn anh khả kính của Ngành Hàng Hải. Anh đại diện cho giới hàng hải Việt Nam đến Phủ Tổng Thống khẳng định sự lớn mạnh và khả năng của các Sĩ quan Hàng hải Việt Nam và cam kết sẽ đảm trách Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn để thay thế Đoàn Hoa tiêu người Pháp sau một thời gian được huấn luyện.
Năm 1958, Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn của người Việt Nam được hình thành. Đợt đầu tiên gồm các anh Lương Quang Thọ, Phan Hữu Hài, Nguyễn Văn Tốt, Phan Văn Dy, Đoàn Luyện, Huỳnh Văn Thử, Trần Công Vĩnh được tuyển chọn và huấn luyện để trở thành Hoa tiêu chính thức.
Các Hoa tiêu người Pháp lần lượt về Pháp, ông Trưởng đoàn Pierre Oliver là người Hoa tiêu Pháp cuối cùng rời Việt Nam ngày 8 tháng 6 năm 1959.
Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn hoàn toàn nằm trong tay người Việt Nam, anh Đặng Văn Châu là vị Trưởng Đoàn đầu tiên và anh Lương Quang Thọ là Tổng Thơ Ký.
Sự thành hình của Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn là do công lao đấu tranh của Nghiệp Đoàn Hàng Hải đứng đầu là niên trưởng Tạ Nhựt Hy, người có công rất lớn trong việc thu hồi lại Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn cho người Sĩ quan Hàng hải Việt Nam. Cũng nên nhắc lại chính niên trưởng Tạ Nhựt Hy là người có công cố vấn cho Ông Giám Đốc Sở Hỏa Xa VN tên là Nguyễn Kỳ để thành lập Đội Thương Thuyền đầu tiên Việt Nam với những chiếc tàu Nguyễn Văn Bảy, Lê Văn Thương , Tôn Thất Kỳ mang quốc kỳ Việt Nam. Toàn thể từ Thuyền trưởng đến thủy thủ Đoàn hoàn toàn là người Việt Nam.
Từ năm 1960 đến năm 1963, có thêm một số Hoa tiêu nữa đưọc tuyển chọn. Đó là các anh Lê Bích Hà, Nguyễn Văn Ba, Trần Đức Lưu, Đào Quan Ngãi, Tôn Thất Tuyên, Hồ Đắc Tâm, Tôn Thọ Khương.
Năm 1964, anh Đặng Văn Châu rời bỏ Đoàn Hoa tiêu Sàigòn làm Giám đốc một hãng tư Công Kỹ Nghệ Hóa học. Anh Lê Bích Hà thay thế làm Trưởng đoàn, anh Lương Quang Thọ vẫn giữ chức vụ Tổng Thơ Ký của Đoàn.
Trong các năm 1963-1965, một đợt Hoa tiêu mới được tuyển dụng. Đợt nầy gồm các anh Từ Huy Hoàn, Huỳnh Quí Nhẫn, Nguyễn Chánh Trực, Nguyễn Văn Danh và Nguyễn Văn Nghiêm.
Đến năm 1969, sau Tết Mâu Thân, có một số Hoa tiêu niên trưởng đến tuổi về hưu, bắt đầu là anh Phan Hữu Hài. Một đợt Hoa tiêu mới được tuyển chọn gồm có các anh Đỗ Bá Ngữ, Trần Bình Sang, Bùi Ngọc Hương, Hoàng Phước Quả và Trương Văn Tây.
Đến đầu thập niên 1970, anh Nguyễn Văn Ba về hưu, anh Hồ Đắc Tâm rời xứ qua Pháp, số Hoa tiêu còn lại là 21 người.
Trong biến cố 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều Hoa tiêu rời nước. Trước hết, ngày 23 tháng 4 năm 1975, nhân lúc hai chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời Tân cảng (Newport) Sàigòn – chiếc American Reliance và Green Wave – hai anh Phan Văn Dy và Huỳnh Quí Nhẫn được chỉ định dẫn tàu xuống sông Sàigòn – Hai anh đã theo tàu di tản cùng với gia đình.
Kế đến các anh Trần Đức Lưu, Từ Huy Hoàn, Đoàn Luyện cũng theo các tàu rời bến di tản cùng với gia đình ngày 30-4-1975.
Từ đó những cán bộ miền Bắc vào tiếp thu, Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn không còn là một hiệp hội tư nhân nữa mà đã bị quốc hữu hoá. Những Hoa tiêu còn lại là 16 người trở thành những công nhân viên nhà nước trực thuộc Cục Đường Biển.
Đến cuối năm 1975 qua đầu năm 1976, có thêm một số Hoa tiêu nữa bỏ nước ra đi bằng cách vượt biên như các anh Trần Bình Sang, Lương Quang Thọ, Lê Bích Hà, Hoàng Phước Quả. Kế đến, hai anh qua đời vì bịnh đau tim, đó là các anh Tôn Thất Tuyên và Trương Văn Tây.
Năm 1976, Đoàn đã nhận thêm 5 anh cựu Hoa tiêu Sông Cửu Long sang, đó là các anh Dương Văn Lê, Phạm Văn Khươn, Nguyễn Văn Hường, Chế Công Tá và Tô Ngọc Thủy. Cộng thêm vào đó có mấy anh từ miền Bắc vào là các anh Sáu Cát, Sáu Tấn và anh Nguyễn Trọng Dân, một sĩ quan trẻ tuổi tốt nghiệp từ trường Hàng Hải Ba Lan. Các anh nầy còn rất yếu tay nghề, chưa bao giờ làm Thuyền trưởng nên rất thiếu kinh nghiệm.
Đến năm 1978 và đầu năm 1979, các anh Bùi Ngọc Hương, Nguyễn Chánh Trực, Nguyễn Văn Danh đã vượt biên ra đi. Và thêm một số Hoa tiêu rời xứ theo diện chính thức do thân nhân ở ngoại quốc bảo lãnh như các anh Nguyễn Văn Tốt, Nguyễn Văn Nghiêm và Trần Công Vĩnh. Sau đó cũng có nhiều Hoa tiêu tiếp tục bỏ xứ ra đi, như các anh Đào Quan Ngãi, Chế Công Tá, Tô Ngọc Thủy.
Đoàn Hoa tiêu đến năm 1983, chỉ còn lại các anh Huỳnh Văn Thử, Tôn Thọ Khương, Đỗ Bá Ngữ, Dương Văn Lê, Phạm Văn Khươn, Nguyễn Văn Hường và các anh mới từ miền Bắc vào.
Viết đến đây, tôi xin phép được nói thêm là: Tôi có về thăm Sàigòn năm 2002. Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn được đổi tên là Công Ty Hoa tiêu Khu vực I (Pilot Corporation of the First zone) với anh Nguyễn Trọng Dân, cựu học viên Hoa tiêu trong các năm cuối thập niên 1970 làm Giám đốc.
Số Hoa tiêu hiện lối 80 – 90 người. Người Hoa tiêu cựu trào duy nhất còn lại là anh Tôn Thọ Khương được lưu dụng làm cố vấn cho Công Ty Hoa Tiêu.
Thương cảng Sàigòn đã được mở rộng cho đến Mũi Đèn Đỏ (Pointe du Feu Rouge) ở Hải lý 6.
Trụ sở Hoa tiêu ở Vũng tàu cũng được xây cất rộng ra nhiều, để có nơi ăn chốn ở cho số Hoa tiêu nhiều gấp bốn lần so với số Hoa tiêu trước năm 1975.
Sông Sàigòn
Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn hoạt động trên một thủy đạo dài 45 hải lý từ Thương cảng Sàigòn đến Bãi Trước Vũng Tàu.
Từ thượng dòng đến hạ dòng, thuỷ đạo gồm:
– Sông Sàigòn từ Tân Cảng (New Port) đến Mũi Đèn Đỏ (Pointe de Feư Rouge) dài khỏang 6 hải lý. Đoạn nầy bao trùm Bến Tân Cảng, Bến Nhà Rồng, Thương Cảng Kho 5 Khánh Hội.
– Sông Nhà Bè trên Sông Đồng Nai dài lối 5 hải lý gồm các bến cảng Caltex, Esso, Shell dành cho các tàu chở nhiên liệu và bến Cát Lái dành cho tàu chở đạn dược
– Sông Lòng Tảo dài khỏang 23 hải lý từ Mũi Lazaret tức Nhà Bè đến Mũi Nước Vân qua các Bãi Đá Hàn (Banc de Corail) ở hải lý 16, Mũi Đông (Coude de l’Est) ở hải lý 20, Mũi An Thạnh ở hải lý 22, Ngã Tư (Les Quatre Bras) ở hải lý 28, Mũi Nước Vân ở hải lý .34
– Vịnh Gành Rái dài 11 hải lý từ Cần Giờ thượng (Congio Avnont) đến Vũng tàu. Trong đoạn nầy có bến Rạch Dừa.
Đoạn sông nguy hiểm nhất trong thủy đạo nầy là khúc sông từ hải lý 16 đến hải lý 20, lòng lạch quanh co và hẹp có nhiều chổ cạn như Bãi Đá Hàn (Banc de Corail), Coude du Propontis và Coude de l’Est. Chổ cạn và hẹp nhất trong sông Sàigòn là Bãi Đá Hàn (Banc de Corail), ở đây độ sâu mực nước chỉ có 6 mét hay 20 bộ (feet).
Các Hoa tiêu dẫn đạo tránh cho tàu gặp nhau trong đoạn nầy, theo đúng luật tàu đi nước ngược phải nhường tàu đi xuôi nước, tàu nhẹ và nhỏ nhường cho tàu nặng và lớn. Các Hoa tiêu dùng âm thoại liên lạc với nhau trong sông để việc dẫn đạo được phối hợp ăn khớp và an toàn.
Trụ Sở Hoa Tiêu
Để điều hành việc dẫn đạo, Đoàn Hoa tiêu có một văn phòng trung ương ở Sàigòn gồm ông Trưởng Đoàn, một Trưởng phòng, một thơ ký cùng một số tài xế.
Hàng ngày ông Trưởng Đoàn hội họp cùng các hảng tàu, Cảng Trưởng Sàigòn soạn thảo một chương trình vận chuyển cho ngày hôm sau. Ông điều động, chỉ định các Hoa tiêu để thực hiện công tác dẫn đạo và di chuyển hàng ngày.
Ở Vũng tàu, có một cơ sở lớn do người Pháp để lại gồm một số phòng đủ tiện nghi cho các Hoa tiêu có nơi ăn chốn ở trong lúc công tác. Trụ sở ở Vũng tàu có một Hoa tiêu trực, thay phiên nhau điều khiển, sắp xếp theo lệnh của Trưởng đoàn những công tác cho các Hoa tiêu đang chờ đợi để dẫn dắt tàu lên cảng Sàigòn.
Tại Kè đá ở Bãi trước Vũng tàu, có một số tiểu đỉnh (pilotines) thuộc Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn được đặt trong tư thế sẵn sàng để đưa đón các Hoa tiêu giữa các tàu và trụ sở.
Công việc liên lạc giữa trụ sở trung ương ở Sàigòn, trụ sở ở Vũng tàu và các Hoa tiêu bằng hệ thống truyền tin máy Motorola rất hiện đại. Ở các trụ sở, có đặt máy tổng đài, các Hoa tiêu được cấp phát mỗi người một máy truyền tin Motorola loại cầm tay dể tiện cho việc liên lạc. Như thế mọi việc xảy ra trong phạm vi hoạt động của Đoàn được thông báo cho các Hoa tiêu rất là nhanh chóng và chính xác.
Tuyển chọn Hoa tiêu
Từ khi Đoàn Hoa tiêu Sông Sàigòn được chuyển giao từ tay người Pháp cho đến năm 1975. Đoàn đã thực hiện 4 lần tuyển chọn Hoa tiêu không kể những trường hợp nhập Đoàn lẻ tẻ của vài cá nhân.
Ứng viên phải là một Thuyền trưởng có bằng Viễn Duyên Thuyền trưởng đã từng chỉ huy các tàu buôn lâu năm, có thành tích tốt. Như thế đa số ứng viên đã vào ngành Hàng hải từ 10 năm trở lên và phải từ 30 đến 40 tuổi.
Ứng viên phải qua một sự khảo sát tỉ mỉ của một Hội đồng tuyển chọn gồm có Đại diện của Đoàn Hoa tiêu – thường lệ là anh Hoa Tiêu Ủy nhiệm – Đại diện của Nha Thương cảng và đại diện của Nha Thuỷ vận. Điểm của người Hoa tiêu Ủy nhiệm thường có hệ số cao hơn các đại diện khác. Thời Pháp thường gọi là “Code d’Amour” tạm dịch là “Điểm tình cảm” . Chuyện nầy cũng rất dễ hiểu vì Đoàn đã chọn sẵn từ trước những người sẽ chung sống trong Đoàn suốt cuộc đời hải nghiệp của họ.
Sau khi được tuyển chọn, các Hoa tiêu tập sự sẽ đưọc các Hoa tiêu niên trưởng huấn luyện trong một thời gian từ sáu tháng đến một năm, từ đặc tánh của các lòng lạch trong sông, mỗi loại tàu cũng như cách vận chuyển trong các bến cảng cho đến cách đi đứng giao thiệp với các Thuyền trưởng và Sĩ quan các tàu ngoại quốc.
Người Hoa tiêu dẫn đạo chỉ là một cố vấn kỹ thuật cho Thuyền trưởng; về mặt pháp lý, Thuyền trưởng là người duy nhất chịu trách nhiệm. Vì thế, ông Thuyền trưởng có quyền lấy lại quyền chỉ huy con tàu bất cứ lúc nào ông thấy cần thiết. Thành ra nhiệm vụ của người Hoa tiêu rất là tế nhị và cần sự ngoại giao khéo léo bên cạnh những kiến thức về kỹ thuật và chuyên môn.
Đến kỳ sát hạch mãn khoá, người Hoa tiêu tập sự thuộc Đoàn Hoa tiêu sông Sàigòn phải thuộc lòng các đoạn trên sông Sàigòn, nghĩa là họ có thể vẽ ra bất cứ khúc sông nào với tất cả mọi chi tiết về chiều sâu cũng như các đặc tính riêng biệt.
Đến kỳ thi thực hành các Hoa tiêu tập sự tự mình dẫn đạo một chiếc tàu đi lên từ Vũng tàu đến Sàigòn và một chiếc tàu xuống, xoay trở và cập cầu trước sự có mặt của các Đại diện Hội đồng Giám khảo
Sau khi được chấm đậu kỳ thi thực hành, các Hoa tiêu từ đây sẽ dẫn đạo tàu bè lên xuống sông Sàigòn một mình. Được trở thành Hoa tiêu là niềm mơ ước cuả các Sĩ quan Hàng hải thuộc Ban chỉ huy. Họ phải phấn đấu gian khổ leo từng bước từ thấp đến cao trên nấc thang nghề nghiệp kéo dài hàng chục năm trường trên các con tàu biển.
Trong thời kỳ Đoàn Hoa tiêu còn thuộc người Pháp, có câu nói: các Hoa tiêu thuộc thành phần “La crème de la Flotte” có nghĩa là những « tinh hoa ưu tú » của giới Hàng hải.
Đó là cụm từ quá khoa trương để tự tâng bốc. Người Hoa tiêu sông Sàigòn không dám nhận. Người Hoa tiêu tự hào cảm thấy mình còn được may mắn có cơ hội tiếp nối cuộc đời hải nghiệp của mình trên một con sông hoặc một hải cảng hay cửa biển, tiêu biểu cho một mảnh “Quê hương của người thủy thủ. Đó là Đại dương”.
Chuyện thật xảy ra vào trung tuần Tháng Giêng năm 1974
Phó thịnh Đường
Lời Giới Thiệu:
Tất Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) – Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam. Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh. Mộng tìm việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói. Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa ,… chúng tôi đành lên đường nhập ngũ tòng chinh. Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ được ở trường HHTT. Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm. Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống, Tất Ngưu đã chết đi rồi sống lại.
Là người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.
Xin nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù phiếm. Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi, anh đã đồng ý. Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa…
Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.
Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất. Riêng tôi, xin « thẩm quyền nước Việt » trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.
Phó Thịnh Đường (nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)
Florida, Spring 2006
Bổ túc chi tiết:
Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng. Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10. Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10. Giữa đường đến quần đảo Hoàng Sa, để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về. Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết. Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau.
(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không biết là Tất Ngưu có biết (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …
Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …
Tớ không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy …
Ký tên,
Nguyễn văn Kết
Sau đây là tên các chiến sĩ sống sót được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:
Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống Hạm NHẬT TẢO HQ10 đã trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa:
1 Trung sĩ Bí Thư TSBT Võ văn Bằng
2 Trung sĩ Tiếp Vụ TSTV Đỗ kim Hoàng
3 Hạ sĩ 1 Trọng Pháo HS1TP Nguyễn văn Tám
4 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Trần ngọc Sơn
5 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Phạm văn Lợi
6 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Võ văn Tuấn
7 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Lê tấn Hưng
8 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Vương văn Và
9 Hạ sĩ 1 Cơ Khí HS1CK Lưu tố Nữ
10 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Nguyễn hồng Cứng
11 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Huỳnh văn Hòa
12 Hạ sĩ Tiếp Vụ HSTV Nguyễn văn A
13 Thủy thủ 1 Cơ Khí TT1CK Trần văn Hà
14 Hạ sĩ Bí Thư HSBT Đỗ văn Thành
15 Thủy thủ 1 Thám Xuất TT1TX Trương văn Long
16 HQ Trung úy K8/OCS Hà đăng Ngân
17 HQ Trung úy K20/NT Phạm văn Thì
18 HQ Trung úy K1/70 ĐB Ngô văn Hòa
19 HQ Trung úy K25/VBĐL Nguyễn đông Mai
20 HQ Thiếu úy K24/NT Phạm thế Hùng
21 HQ Chuẩn úy K1/IOCS Tất Ngưu
TRẬN HOÀNG SA
Nhật Ký của
Tất Ngưu
Sài Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,
Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai. Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.
Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây. Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến hạm. Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên !”
“Tủm !”
“Ối !”
Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước. Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng hối thúc:
“Thả phao”, “Vớt người”, …
Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.
Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ 5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa. Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa (Duncan).
“Chuẩn Úy, Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”. Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ. Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ. Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy blue. Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo Hoàng Sa. Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau. Anh này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu. Tôi nghe anh ta kể lại những ngày huy hoàng sống ở giang đoàn. Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ !
Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị – không đúng – một công điện khẩn thì đúng hơn: “0600H GIỜ THI HÀNH”. Tôi trình công điện lên hạm trưởng. Đêm đó hạm trưởng an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy. Thời gian đi như chợp mắt, mới đó mà đã đến gần 0400H rồi. Tôi gọi:
“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”
Thế rồi hạm trưởng thức giấc. Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Một hồi còi rợn người nổi lên: “ Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít…” Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ thống nội thông :
“Đây là Hạm Trưởng”
“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”. “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”
Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc. Ai nấy vào nhiệm sở của mình. Riêng tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ. Ngay sau đó:
“Nhiệm sở phòng không” “Nhiệm sở phòng không”
Tôi thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ, nào là các đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.
“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly, 2 cò điện bất khiển dụng”
“Thôi được, cho dùng cò chân”
“Đài chỉ huy, đây 41, 42 tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”
“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”
“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”
Toàn thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng. Chắc hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến: thương vong.
Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh dương, hải đội của ta lập thành một đội hình. Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích. Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để công kích nhau.
Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn chiến đỉnh của họ vận chuyển song song để bảo vệ.
Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng.
Ồ! họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta. Nào ngờ sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích. Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến. Tất cả nòng súng hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trên tầu anh em xôn xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò đùa. Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến. Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau. Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ, anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng cháo.
“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”
Khi Th/úy Mai vừa dùng diểm tâm xong, chúng tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch: Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch. Rồi những chiến hạm của địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.
Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone. Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly và súng cối 81 ly ở sân sau. Tôi vội vã hô to:
“Bắn, bắn nhanh lên”.
Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch.
TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại, bắn liên hồi.
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Ối ! sao khẩu 20 ly không bắn nữa ?”
“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở ngại thế nào ?”
“Kẹt đạn”
“Bắn một nòng”
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Hết đạn”
“Nằm xuống, để tao”, Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20 ly.
“Tạch … Tạch …Tạch ..”
Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.
“Ầm!” “Ầm!”
Tầu địch bốc cháy. Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch.
“Rầm !!!”
Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:
“Tàu Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.
Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy. Những anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh. Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng may đã tử trận trong hầm máy. Ôi ! tiếng rên la áo não ngần nào. Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc.
Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi. Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Các anh em bị thương khác không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ ! HQ16 , anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”
Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi. Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu. Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy. Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát. Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi. Thế còn tàu? và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu mình.
Những tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn. Nhìn ra phía sau, hai chiến hạm địch lù lù tiến đến, hướng về phía mình. HQ16 di tản càng ngày càng xa. Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu. Ôi thay! tôi tự hỏi mình có nên đào thoát hay không.
Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:
“Ch/úy. Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”
“Rồi cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào ?”
Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi. Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không thấy anh ta đâu nữa. Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt vào thành tàu. Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:
TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống. Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy, nhưng anh ta trả lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ nhẩy đi.”
Thật đúng y như câu nói của người xưa: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không? Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không? !! Thế mà anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ. Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được. Thật là anh hùng. Tôi xin ngã mũ.
Lớp ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối ! phải biết ở lại tàu còn hơn!” Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá nhân của tôi đã được bật ra,. Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một vũng mầu xanh lá cây. Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay, Ôi ! hơi sức nào để ý đến nữa, mục đích là sự sống. Chỉ làm cách nào bám vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi. Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa mà bơi ra bè. Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát. Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa. Khi được kéo lên bè, người tôi lã đi vì đói khát mệt mỏi.
Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu 20 ly trên HQ10 cứ nổ vang. Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt. Những tiếng súng sau cùng đó… Hỡi ơi ! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10. Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu. Nói đến sự hy sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người. Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”. Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời. Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”. Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10. Ước gì tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.
Hai chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển. Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai. Mắt Thượng Đế vẫn còn đây, bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn. Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật. Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ đi. (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo – cộng sản làm gì có nhân đạo – lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông. Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)
Qua cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát. Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ. Tôi say sóng cũng thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức lực nào.
Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng. Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần nó được. Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối. Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:
Bè số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.
Bè số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.
Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không ướt người. Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.
Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn. Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi. Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi vào đảo được. Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng. Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.
Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột. Anh em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua. Đêm sao qua chậm thế! Giờ này mới ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng. Thật là quái dị. Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc. Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa ! đảo hôm qua đâu ?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”
Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn đói khát lại hành hạ. Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó. Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo. Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra. Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó. Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.
Những người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước mãi. Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế. Nhất là nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon. Khoảng 9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời trối trăn, mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang. Chúng tôi thắc mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?
“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh giành.”…
“Cố lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”…
Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.
“Thôi chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”
“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như hoang phí. Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”…
Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào nhau. Bè lật, vỡ bể thêm ra. Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối đuôi nhau. Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ. Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo. Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để chèo. Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.
Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi mất hẳn. Tôi mới hô to:“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm ta, hai là lính địa phương quân trên đảo. Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh lên!”
Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ. Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt – TS1GL Thương. Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em. Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …” Tinh thần của anh em lúc này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên loạn. Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.
Thế là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ đi một mình! Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển. Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên. Thượng Sĩ Châu đã mất trí !!
Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo. Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả. Kẹo và nước ngọt đều dùng cạn. Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu với nước biển để uống. Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía. Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào không hay.
Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh bè mình. Nhìn về trước, một bè trôi khá xa. Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi. Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt của tôi Trưa rồi lại chiều. Chân tôi giờ này sưng thủng, không sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”. Mắt, miệng đã sưng vù lên. Th/úy Mai đã nói lâm râm:
“Ch/úy Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần trong đêm nay – có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?
Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt. Thình lình HSCK Hòa thét lên: “Có tàu!”
“Ôi ! tàu đâu, tàu đâu?”
Một cứu tinh hiện trước mặt. Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất. Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh còn cách bè mấy hải lý.
Tàu dầu Kopionella của Shell Hòa Lan
“Phải rồi ! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”
“Có lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứt vớt ta, la lớn lên anh em.”
“ Một hai ba… Ô!” “ Một hai ba… Ô!” “123…Ah!” “123… Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la to lên.
“Hình như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh em ơi, nhẩy xuống bơi!”
Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa. nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.
“Ô kìa! tàu quay đi đâu? thôi chết rồi, hết hy vọng rồi, cố lên anh em!”
Hy vọng xen lẫn thất vọng. Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên. Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao! Sau đó một ánh đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.
“À ! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta. Sao họ chạy đường kia?”
“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình. Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
“Ah ! Oh ! help us sir, please help us.”
“Okey, take it easy, be careful. Are there any wounded ?”
“Yes sir, most of us are wounded.”
“All right …”
Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu. Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền trưởng,. Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu. Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu. Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên. Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.
Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm. Cùng lúc đó họ đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá. Sau đó thuyền phó hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant. Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì. Ông đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam.
Chúng tôi đã thật sự sống lại. Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”…
Ghi chú: Th/úy Nguyễn đông Mai là một sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy.
Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu cầu: Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS
Vì nhu cầu chiến trường, Giang đoàn 62 tuần thám được lệnh tăng cường cho lực lượng đặc nhiệm 211 dưới quyền Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh – dạo đó vẫn còn là Đại tá. Lệnh hành quân đưa xuống, đoàn Giang tốc đỉnh (PBR) lên đường ngay trong đêm tối mịt mùng im lặng đến rợn người của rừng rậm U Minh. Rời Rạch Sỏi với những trận ác chiến chưa tan mùi thuốc súng trên áo trận, giang đoàn của tôi trực chỉ Cà Mâu nhiều hứa hẹn với phong ba. Đoàn tàu nối đuôi nhau đi dọc theo con sông Năm Căn quanh co khúc khỉu, hai bên bờ toàn là dừa nước, đầm lầy. Tiếng chim nơi đây nghe như xao xát chứ không trong trẻo vui tươi như những chỗ thanh bình. Tôi đi trên chiến đỉnh dẫn đầu bởi vì tôi không xa lạ gì với con sông này. Ngày còn phục vụ trên Trợ Chiến Hạm (LSS) HQ230 với NT Lẽ Châu An Thuận, con sông này tôi đã … quen đi lại lắm lần. Đó là những lần HQ230 được biệt phái về đây chờ hộ tống những Duyên Vận Hạm hay Y Tế Hạm tiếp tế thực phẩm, nước uống hoặc thuốc men cho căn cứ HQ Năm Căn. Dòng sông đục ngầu này, nước mặn chảy xiết quanh năm, bề rộng có nơi chỉ vừa đủ cho một chiến hạm đi qua với những hàng đáy của dân nằm la liệt vô trật tự và ban đêm thì chỉ được thắp sáng bởi những ngọn đèn dầu leo lét, chập chờn ẩn hiện sau lớp sương khuya dày đặc. Đòan PBR có khi lầm lũi đi trong đêm, có khi thì giang hành trong tiếng đạn đại liên bắn trực xạ hai bên bờ lau sậy um tùm rồi cuối cùng thì đoàn tàu cũng đến Cà Mâu, nơi bộ tư lệnh của lực lượng đặc nhiệm trú đóng. Mệt mỏi sau hai ngày trời không ngủ vì giang đoàn phải di chuyển giữa vùng sông rạch đầy dẫy mìn trôi và nguy hiểm không biết đến lúc nào, tôi tính lên phòng hành quân “chấm” xem qua cho biết tình hình chiến sự rối kiếm chỗ ngủ một giấc thật dài thì bỗng nhiên bên tai có tiếng gọi mừng rỡ:
– Tôi đoán không lầm mà, nghe trên máy từ hôm kia đã nghĩ là ông rồi.
Quay lại nhìn, tôi nữa mừng nữa bỡ ngỡ. À, té ra mấy hôm nay một hai lần nói chuyện với Charlie của phòng hành quân “chấm”mà không biết đó là Chí, người bạn cùng khóa ở trường Hàng Hải. Tôi bắt tay Chí thật chặt:
– Hèn chi tôi cũng ngờ ngợ, nhưng không hỏi trên tần số làm việc được. Ông nằm đây lâu chưa?
– Đã một năm nay rồi, có cả con nhà Vinh nửa, tối nay nó sẽ từ vùng về dưỡng quân. Nó ở 72 Thuỷ Bộ đang xử lý thường vụ Chỉ huy phó vì ông phó vừa lên chức… cố!
Tôi đề nghị chờ Vinh về đến, ba đứa lấy xe jeep ra phố kiếm vài ba chai bia lẻ tẻ bởi mấy ngày nay đã khát nước lắm rồi! Chí dẫn tôi vào phòng hành quân, lấy cái handset nơi tay người trung sĩ vô tuyến gọi cho Vinh.
– Victor, đây Charlie.
– Victor nghe! Tiếng của Vinh trả lời nho nhỏ trên máy,
– Ngày xưa còn bé đi Victor. (Máy PRC 25 hay PRC 46 có hai nút đổi tần số từ 0 đến 9, chỉ cần tăng nút bên trái lên 2 nất, nút phải lên 3 nất như thuở còn 2, 3 tuổi là chúng tôi ra khỏi tần số làm việc để nói chuyện riêng mà không sợ quấy rầy ai cả).
– Nghe chưa Victor. Về nhanh lên, Kilo vừa đến Charlie Mike (Cà Mâu). Đố ông biết Kilo là ai?
– Kilo ở 2 lần Hotel (Hàng Hải) phải không?
Chí không trả lời, đưa handset cho tôi. Tôi cầm lấy trả lời Vinh:
– Tao Kilo đây, hai đứa tao chờ mày về sẽ ra phố đổ vài két ăn mừng mày còn sống sót trở về. Nhanh lên đi thằng con dại.
Ngày xưa tôi và Vinh chơi rất thân trong trường, khi biệt phái về Hải Quân, mỗi đứa về một chiến hạm, hoạ hoằng lắm mới được cùng về bến một lần, thôi thì túy luý với nhau cho đến khi một thằng tách bến. Rồi sau đó tôi được lệnh thuyên chuyển về Đà Nẵng lãnh chiếc Coast Guard 709 thuộc Hải đội I Duyên phòng còn Vinh thì về HQ 605. Từ ngày ra trường, đã 5 năm tôi không hề gặp lại Chí, giờ đây trông Chí hơi gầy nhưng khoẻ hơn daọ còn đi học nhiều lắm. Nước da rám nắng nên hơi đen và tóc vẫn hớt ngắn, nụ cười hiền hòa không bao giờ thấy vắng trên môi. Chúng tôi chơi thân với nhau nhưng không hiểu sao từ khi còn ở trong trường đã không xưng hô mày tao chi tớ như với các bạn khác mà từ bao giờ đã “Ông Ông Tôi Tôi”! Đêm hôm đó 3 đứa ngủ lại ngay… trên bàn đầy cả vỏ bia. Chí không uống được nhiều như Vinh và tôi, cũng không hút thuốc liên tục như Vinh và tôi nhưng Chí có nhiều chuyện tiếu lâm để kể rồi cả ba đứa cùng ôm bụng cười. Cà Mâu về đêm, đèn đường không sáng, đèn trong quán đã mờ theo khói thuốc, mấy dãy bàn chật ních vừa quan vừa lính của hai giang đoàn được nghỉ dưỡng quân. Đêm hôm đó, một nửa quan quân được đi bờ, nữa kia dẫn tàu tản mác khắp nơi để phòng địch pháo kích gây thiệt hại cho nhiều chiến đình. Đoàn kết thì chết hết, chia rẽ chỉ chết lẻ tẻ mà thôi! Nơi vùng lửa đạn, chúng tôi đã thuộc nằm lòng “bài học khôn ngoan” đó những lúc ra quân. Con đường chính của thành phố có hơn mười quán nhậu, quán nào cũng vang vọng tiếng cười và tiếng cụng chai. Tụi tôi được mấy thằng em tiếp tế cho những dĩa thịt gà xé phay thơm phức, những con gà mà có lẽ sáng hôm nay vẫn còn ưỡn ngực đứng gáy hiên ngang như chưa bao giờ được gáy, bây giờ nằm đây lạc lõng giữa đống vỏ chai vô tri, giữa tiếng cười nói thân tình của nhiều đám bạn bè gặp lại nhau sau nhiều năm tháng lang thang khắp vạn nẽo sông hồ, của những người không thể “hẹn với nhân gian kiến bạch đầu” bởi vì ở nơi đây chuyện sinh tử cách nhau chỉ một đường tơ kẻ tóc ! Gặp nhau thì uống, rồi ngày mai mỗi đứa một phương trời mà có khi là vĩnh biệt.
Từ đâu trong góc quán, một giọng hát nghe đã “rè” nhưng vẫn còn mang âm hưởng thật ngọt ngào, ấm áp, và đủ sức làm xao xuyến lòng người: “quán nửa khuya đèn mờ theo hơi khói, trút tâm tư vào đêm vắng canh dài”. Chí nhìn tôi “ngày mai tôi vô vùng, ra đây mới đó mà đã một tuần rồi, nhanh quá!” Rồi không đợi tôi trả lời, Chí nói tiếp “ra đây không uống trà, chỉ uống bia, vào trong đó, không có bia, chỉ có trà để uống mà thôi, Ông nhớ đó nghe”. Ngày mai Chí vào Chương Thiện, một tỉnh nhỏ dưới quyền kiểm soát của địch. Chí là một trong những sĩ quan hành quân của bộ tư lệnh lực lượng đặc nhiệm 211, họ thay phiên nhau vào đó để trực tiếp liên lạc với những giang đoàn Thuỷ bộ, Xung phong, Ngăn chặn và Tuần thám hoạt động trong vùng, củng cố an ninh cho Chương Thiện. Tôi cười bảo Chí:
– Ông nói đùa chứ thằng con nhà Vinh cũng từ trong đó mới mò ra tối nay mà sao miệng toàn cả mùi bia, hồi nảy gặp nó, chỉ nghe mùi, tôi đã muốn say rồi!
Chí nói qua chuyện khác:
– Mới đó đã 5 năm rồi, từ khi tụi mình ra trường!
Rồi ba đứa tụi tôi ngồi kể cho nhau những kỷ niệm trong trường. Chí nhắc lại giờ học sextant với Thầy Ducasse, từ trên lầu trước cửa lớp, Thầy chỉ cho tụi tôi cách xử dụng sextant cho đúng cách, thằng Vinh loay hoay chĩa sextant xuống bên kia trường Hoá học, nơi có mấy cô sinh viên đang thơ thẩn, nhởn nhơ trò chuyện. Thầy Ducasse không nói một lời, lặng lẻ đưa tay nâng nhẹ cái sectant trong tay Vinh chĩa thẳng lên trời. Cả bọn không dám cười thành tiếng! Chí kể lại chuyện cả bầy rủ nhau bỏ học, xuống ngồi làm reo dưới sân cỏ trước trường, chỉ mình Lê tấn Thành vào lớp học giờ legislation! Sau đó cả bọn bị Thầy Giám đốc quạt cho một trận tơi bời hoa lá. Chí nhớ rất nhiều những chuyện nghịch ngợm hồi còn ngổ ngáo, coi cái mark sinh viên HH to như cái thúng! Tôi kể lại chuyện Thầy Ducasse hỏi bài một đứa, thằng trên bục gỗ chưa nói, Phạm kế Thắng ngồi dưới lớp đã xầm xì “tàu lùi lái theo hướng gió, tàu lắc lư, tàu…chìm luôn!” Thầy Ducasse không nói một tiếng, Thầy xếp sách vào cặp rồi chậm rãi bước ra khỏi lớp. Té ra Thầy nói và hiểu rành tiếng Việt. Thầy đọc cả Tam Quốc chí và gối đầu giường những tập truyện của Kim Dung nhưng dạo đó tụi tôi đều không đứa nào biết! Ba đứa vừa uống bia, vừa nhắc lại chuyện ngày xưa và cười nghiêng ngửa, quên bẵng ngày mai đây không biết chuyện gì sẽ đến cho mình. Lâu ngày quá mới gặp lại nhau mà, phải không Chí, Vinh?
“Năm năm rồi không gặp, từ khi… Ông ra trường!”
Cuối đường đạn bay
Thấm thoát cũng đã được 8 tháng, từ khi Giang đoàn tôi về tăng cường cho lực lượng đặc nhiệm 211. Khi thì yểm trợ cho căn cứ hỏa lực Rạng Đông, Bừng Sáng, khi trở về lục xét, trấn giữ Thới Bình, Chương Thiện, đêm về nằm lặng lẽ trong rừng tối U Minh. Những chuyến kích đêm có khi trời trở lạnh, càng lạnh thêm vì đẫm ướt nước mưa. 2, 3 giờ sáng, qua chiếc máy truyền tin mở nhỏ, nghe gịong Chí hỏi han, thấy lòng ấm lại thật nhiều. Có khi ba đứa gặp nhau ngay trong vùng hành quân, chỉ nói năm ba câu trên máy rồi phải trở về tần số làm việc, tiếp tục lao đầu vào lửa đạn. Cũng có khi một hai thằng vô vùng, thằng nằm hậu cứ, suốt ngày ngồi nghe ngóng tin tức hai đứa kia, chờ mong có thằng rời vùng để rồi rủ nhau ra Cà Mâu la cà nhậu nhẹt. Tôi và Vinh đi nhiều, còn Chí có bổn phận ngồi phòng hành quân, họa hoằng lắm mới cùng hai đứa tụi tôi tham dự một vài trận đụng độ. Tuy Chí không đi nhiều nhưng luôn luôn nắm vững tình hình địch quân, chỗ nào “hắc ám” Chí đều biết rất rõ ràng. Những lần chia tay, Chí hay nhìn tụi tôi ân cần căn dặn đủ điều, “nhớ khi qua khúc “cùi chỏ” đó, ở bên phải có những ụ đất cao, phải coi chừng. Cứ nổ trước đi cho chắc ăn nghe!“
Tôi và Vinh đều biết, ở nơi đây, tuy là vùng tác xạ tự do, nhưng khi chưa cần thiết thì chưa thể ra lệnh bắn vì để tiết kiệm đạn dược cho những khi thật sự cần đến. Tuy vậy để cho Chí yên tâm tụi tôi vẫn luôn luôn gật đầu, “đừng lo mà!” Mỗi bận giang đoàn vào Thới Bình dừng quân, Chí cũng nhắc cho mấy câu thơ :
Gái Thới Bình chung tình chung thủy,
Trai bạc tình, một cẳng về quê!
Con gái Thới Bình phải nói là trắng trẻo xinh xắn lắm, nhưng không biết có phải vì bạc tình mà thật nhiều chàng Hải Quân đã để lại những phần thân thể nơi vùng đất mang cái tên thật êm đềm này chăng? Nghe kể rằng đây là lời nguyền của một thiếu nữ bị tình phụ nên trước khi quyết định quyên sinh nàng đã lập lời thề “sắt máu” đó. Có thật hay không, tôi thật sự không hề nghĩ đến chuyện chứng minh cho mình, chỉ biết rằng mấy thằng em của tôi nhiều đứa cũng đã mang thương tật, vài đứa còn để lại xác nơi chốn thiên đường này! Dù sao tôi vẫn thích Thới Bình với những quán tranh xiêu vẹo, những buổi sáng từ trong rừng, theo ánh nắng ban mai, đoàn chiến đỉnh kéo nhau về ủi ngay trước chợ Thới Bình mãi mãi vẫn là những hình ảnh đẹp rạng rỡ trong lòng tôi. Thường thường thì ở nơi đây, tụi tôi tha hồ vừa uống bia, vừa ngắm những bông hoa của vùng nước đục ngầu, lơ lớ mặn, chỉ cần đừng quên mang áo giáp, nón sắt và súng ống bên hông. Nhưng buổi sáng hôm đó, không hiểu sao tự nhiên tôi chẳng thích ai quấy rầy mà chỉ muốn ngồi một mình trên nóc chiến đỉnh, lặng lẽ theo dõi cuộc hành quân của Vinh và Chí bên phía Chương Thiện. Tôi vào Thới Bình đã hơn tuần nay. Chí mới đi phép về và được lệnh vào vùng thay thế cho một sĩ quan khác tới ngày ra Cà Mâu công tác. Ba ngày trước đây, Chí lên máy liên lạc với tôi. Chí kể chuyện SG và những ngày đẹp tuyệt vời với người yêu sắp sửa làm cô giáo. Chí than phiền “tôi về đây , gấp quá để quên cái nón képi ở nhà rồi!” Tôi đùa với Chí “khi nào chào cờ, Ông hãy xuống tàu núp với tôi”. Chí bảo có mang mấy món nhậu thật ngon, chờ tôi về sẽ cùng nhau nhậu cho đã… Hôm đó tôi bồn chồn ngồi nghe giang đoàn 72 Thủy bộ của Vinh và giang đoàn Xung phong đang chạm địch nặng nề, tiếng của Vinh và Chí thỉnh thoảng vang lên trong máy PRC 25 xen lẫn tiếng đại liên nỗ dòn và nhiều khi cả tiếng B40, chứng tỏ địch quân không cách xa những chiếc Tango của Vinh và Chí là bao nhiêu. Bỗng nhiên tôi linh cảm như có một điều gì không may sắp xảy ra. Bất giác tôi rùng mình vì một thứ hơi lạnh buốt từ đâu như đang len lỏi vào cột sống dù lúc bấy giờ trời đang nắng chói chang. Tôi thấy trong lòng hồi hộp lạ thường. Chiếc máy PRC 25 nằm bên cạnh tôi chợt vang lên tiếng gọi của Vinh.
– Kilo, đây Victor.
– Victor, Kilo nghe đây!
– Charlie bị trúng đạn! Tao đang chạy đến coi thử đây.
– Nhanh đi, và nhớ cho tao hay liền nghe Victor.
Nhưng Vinh không đến kịp và Chí cũng đã đi rồi!!! Chí đi trên chiếc Soái đỉnh Thuỷ bộ (Command Communication Boat) dẫn đầu đoàn tàu mở rộng vòng đai an ninh cho Chương Thiện và tiến thẳng vào căn cứ hoả lực Rạng đông. Nước ròng xuống thấp, bờ sông cao hơn nóc chiến đỉnh là điều tối nguy hiểm. Khi chiếc Soái đỉnh đi ngang khúc quanh ngặt về phía trái, từ bên bờ hữu mạn, địch quân thình lình khai hỏa tới tấp mong đánh chìm tàu, chận bít lối đi. Chí đã bình tĩnh ra lệnh cho tàu đổi hướng, tay lái về hết bên mặt để trực diện với quân thù. Thay vì cố gắng xả máy vượt khỏi vùng phục kích, chiếc chiến đỉnh vừa đổi hướng vừa bắn thật gắt vào bờ khiến địch quân lập tức bị rối loạn và tiếng đạn trên bờ vì thế đã giảm đi rất nhiều. Đây là một quyết định rất can đảm và thông mình bởi vì khi đổi hướng tàu, Chí đã chuyển từ thế thụ động sang thế công và nếu trường hợp chiến đỉnh bị đánh chìm cũng sẽ không làm nghẻn dòng sông qúa hẹp, cản trở đường đi của những chiếc đằng sau khiến tất cả bị dồn đống trên khúc sông nhỏ bé này để rồi trở thành những “mục tiêu vĩnh biệt sớm mai hồng”! Đứng trước sân mủi của chiếc Soái đỉnh, Chí điều động đoàn tàu đằng sau và đồng thời phản công để cố dành đường sống cho tất cả thủy thủ trên tàu. Một viên đạn B40 đã vô tình kết liễu cuộc đời của người Sĩ quan anh dũng đó. Chiếc đầu theo lằn đạn oan nghiệt, văng ra từng mảnh nhỏ nhưng thân hình Chí trong bộ quân phục màu tím đã nhuộm đỏ máu đào, vẫn còn đứng thẳng hiên ngang, tay cầm chắc chiếc handset. Tiếng súng của địch quân trên bờ đã tắt, chiến đỉnh đã ủi bãi an toàn, và đoàn tàu bình yên vượt qua khúc quanh đẫm máu. Khi Vinh đến đó thì những người lính đã bồng cái xác của Chí đặt nằm trên chiếc poncho tạm thời làm nơi yên nghỉ cho người Sĩ quan mà họ thương mến vô cùng. Họ vừa khóc vừa kể :
– Tàu trúng đạn thật nhiều, chòng chành dữ dội nhưng cái xác của Ổng vẫn đứng vững cho đến khi tàu ủi bãi, chấn động mạnh mới làm Ổng ngã xuống!
Tối hôm đó tôi được phép về Cà Mâu, ra nhà xác để thăm Chí. Khi tôi đến nơi, những nhân viên ở đó đã phải dùng bông gòn và băng làm tạm một chiếc đầu và đặt lên cổ cho Chí rồi sau đó xác của bạn tôi được bỏ vào hòm sắt chờ đưa về cho gia đình. Dưới ánh nến chập chùng, lạnh lẽo, những người lính nghiêm trang trong tư thế bồng súng chào, đứng canh suốt đêm bên xác của “Ông Thầy” .
Thắp lại nén hương
Khi tôi và Vinh từ vùng hành quân được phép về Saigon để tiễn đưa Chí đến nơi an nghỉ cuối cùng thì quan tài đã được đưa về đó. Các đồng môn huynh đệ trường Việt Nam Hàng Hải đã đến rất đông và chia phiên nhau túc trực bên quan tài. Các em của Chí còn nhỏ dại nhưng cũng đã đủ khôn để biết rằng từ đây người anh cả không bao giờ còn đó nữa để săn sóc cho bầy em! Mẹ Chí khóc sụt sùi, qua tiếng nấc nghẹn ngào Bà hỏi tôi rằng Chí đã chết như thế nào, có toàn thây hay không? Tôi đành phải nói dối rằng thân xác của Chí vẫn còn nguyên vẹn, nhưng Bác gái vẫn quả quyết: – Tôi cứ nằm mơ thấy anh ấy về nói rằng không còn chiếc đầu nữa! Một ngày trước hôm họ đưa xác đến, anh ấy cũng về báo với tôi là ngày mai sẽ về tới!
Bác trai ngồi im lặng cả mấy ngày trước quan tài đứa con trai yêu quý. Bác không khóc nức nở như mọi người trong gia đình, Bác ngồi đó, nhìn đăm đăm vào tấm hình của Chí với hàng chử “Cố HQ Đại Uý HHTT Trần Hoài Chí”. Bác nghĩ gì, tôi không biết, chỉ biết rằng sau đôi mắt kiếng lão, những giọt nước mắt cứ lặng lẽ tuôn ra. Bác nói với tôi rằng “ tuy đau lòng lắm nhưng Bác rất hãnh diện vì anh ấy”.
Hôm nay tôi ngồi đây viết lại những giòng này không phải để vinh danh người bạn cùng khóa đã Vị Quốc Vong Thân bởi vì cũng như những Anh Hùng Tử Sĩ khác, bạn tôi không cần những tầm thường đó của cuộc đời. Tôi chỉ muốn dùng trang giấy này như một nắm hương thắp lên để tưởng niệm người bạn hiền hòa đã sớm lìa xa cõi đời tạm bợ, bỏ lại đằng sau biết bao nhiêu thương nhớ của gia đình, bè bạn và của người yêu đã khóc ngất, rũ rượi bên quan tài.
Xin một lần nữa nghiêng mình trước anh linh của Chí.