Thầy Cô Đăng Văn Châu tại nhà hàng Soir d’ Asie của Anh Chị Nguyễn Ngọc Nhơn năm 2006.
Thầy Đặng Văn Châu, nguyên Giám Đốc Trường Việt Nam Hàng Hải hiện đang sinh sống với Cô tại Grenoble, Pháp Quốc. Trước khi di chuyển về Grenoble, Thầy Cô cư trú cách Saint Maximin hơn 20km, và những ngày cuối tuần, thỉnh thoảng Thầy Cô đến thăm vợ chồng người học trò củ, Nguyễn Ngọc Nhơn, cựu sinh viên khóa 13 ngành Pont trường Việt Nam Hàng Hải, hoặc vợ chồng của Nhơn lên thăm Thầy Cô khi rảnh rỗi công việc. Nay Thầy đang tạm ở trong một nhà dưởng lão tại Grenoble, Cô vẫn còn ở tại nhà riêng nhưng Cô cũng đau yếu nên không thể chăm sóc Thầy đúng như ý muốn được, còn các em thì bận rộn với công việc làm hàng ngày và lo cho các con, nên cả nhà cùng đến thăm Thầy khi điều kiện cho phép. Cách đây một tháng vợ chồng Nguyễn Ngọc Nhơn và bà bạn thân lái xe khoảng trên 600km để thăm Thầy nhưng sự phối hợp giữa anh Nhơn và người con của Thầy bị trục trặc vào giờ chót, nên phải lái xe về không trong sự ấm ức của mọi người, vì chị Nhơn và bà bạn làm nhiều món ăn mà Thầy rất thích. « Thua keo nầy ta bày keo khác« , Anh Chị Nhơn và bà bạn sẽ tổ chức chuyến thăm viếng khác trong một ngày gần đây.
SĨ QUAN HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN TRONG THỜI CHIẾN TRANH VIỆT NAM.
Thuân Châu An Lê – Vendredi 19 Mai 2017
Đa số anh em đồng môn với tôi tại trường Việt Nam Hàng Hải, từ khóa 13 trở về trước hoặc từ khóa 20 trở về sau đều có cơ hội làm việc trên các thương thuyền Việt Nam, Pháp, Panama hoặc các hãng có quốc tịch khác; các khóa ở giữa các khóa trên thì đa phần phải vào quân đội do Lệnh tổng động viên, hoặc là vào hải quân hoặc là vào quân vận.
Lính « nghiệp dư »
Các hãng tàu Messageries Maritimes, Chargeurs Réunis đặt trụ sở của hãng tại Việt Nam tại cảng Nhà Rồng hoặc bên kia đường của cảng Nhà Rồng trên đường Trịnh Minh Thế, Quận 4, Saigon. Các hãng tàu nầy trước đó đều có nhận sĩ quan tập sự hoặc sĩ quan pont hoặc máy người Việt Nam để đi trên các tuyến đường như Ai Cập – Ấn Độ; Đông Dương /Indo-China/ – Trung Quốc-Nhật Bổn; Úc Châu – Madagascar…
Nhờ được trau dồi nghề nghiệp với những “sói biển” người nước ngoài nên sau nầy những sĩ quan hàng hải thương thuyền Việt Nam rất tự tin khi điều khiển các con tàu 10,000 tấn của các hãng tàu như Vishipco Lines, Việt Nam Thương Tín… Có thể nói đội thương thuyền miền Nam lúc đó có tầm vóc khá mạnh so với các nước Đông Nam Á khác.
Dù được đi rất xa ở các nước châu Á, châu Âu hay châu Mỹ, nhưng ít có đồng môn hoặc đồng nghiệp nào của chúng tôi có ý định ở lại nước ngoài sinh sống. Sau nầy, khi tình hình chiến trận càng lúc càng khốc liệt, lịnh tổng động viên được ban hành, mọi thanh niên trong hạn tuổi, dù cho có nghề nghiệp chuyên môn cao cũng phải lên đường nhập ngũ. Chúng tôi, những sinh viên Pont và Máy các khóa đang làm việc trên các tàu ngoại quốc đều lần lượt trở về nước để vào quân đội.
Sĩ quan tập sự trên tàu M/T Cyprea
Bản thân tôi lúc đó đang là Sĩ quan tập sự Élève officier/ trên tàu M/T Cypréa của hãng Shell tại Việt Nam, đành giã từ cuộc sống dân sự để vào quân ngũ. Chúng tôi vào Quân trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức khóa 21 vào tháng 10-1965. Tại đây chúng tôi gặp lại bạn bè thời trung học mà đã lâu không biết “tung tích”, đứa là kỹ sư nông nghiệp, đứa là trưởng ty ở các tỉnh, có đứa đã là phó quận… thôi thì cùng vào chung một thao trường để cùng nhau đổ mồ hôi… tất cả về đây từ vùng 1 cho đến vùng 4, từ nông thôn cho đến thành thị. Một cuộc gặp mặt đầy thú vị ; trai thời chiến có khác!
Chúng tôi theo học giai đoạn 1 và được huấn-luyện phần căn-bản quân-sự, bộ-binh thuần-túy, từ cá-nhân đến cấp tiểu-đội. Thời-gian là nầy kéo dài khoảng 6 tháng, sau đó anh em có chuyên môn được tuyển chọn về các quân binh chủng khác. Tôi và một số đồng môn trường Việt Nam Hàng Hải được tuyển chọn sang Hải Quân để học tiếp giai đoạn 2, đi trên các chiến hạm Hải Quân như là sinh viên thực tập.
Tôi lần lượt phục vụ trên các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa như sau:
Hỏa vận hạm HQ. 470
Thực tập trên Hỏa vận hạm HQ. 470, dưới dạng sinh viên trừ bị Thủ Đức, giai đoạn 2; đang đi tàu dầu trên thương thuyền dân sự sang quân đội lại cũng là tàu dầu, thoải mái vì có dịp gần nhà nhiều hơn khi còn đi trên tàu M/T Cypréa;
. Ghi chú: TT: Trọng tải – KT: dài × rộng × mớm nước – VT: Vận tốc – TD: Thủy thủ đoàn – VK: Vũ khí.
Hộ Tống Hạm Chí Linh, HQ. 11
Khoảng giữa tháng 9, 1966 tôi được thuyên chuyển xuống Hộ Tống Hạm Chí Linh, HQ. 11 sau khi mãn khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Đi công tác dài ngày trên biển; 4 vùng zuyên hải đều có mặt đầy đủ, học hỏi được nhiều với vị Hạm Trưởng, ông Nguyễn Văn May, ông cũng là Sĩ Quan Hàng hải Thương thuyền, tốt nghiệp khóa 5 trường Việt Nam Hàng Hải. Anh em trên tàu đều rất kính trọng ông, về tư cách và hành xữ của ông đối với anh em. Sau nầy tôi lại được làm việc dưới quyền ông một lần nữa khi ông là Chỉ Huy Trưởng Hải đội Chuyển Vận và tôi là một Hạm Trưởng.
Đặc tính chiến hạm:
Trọng tải: Tiêu chuẩn 640 T, chở nặng 903 T; Kích thước: 184.5 X 33.1 X 9.5; Vũ khí: 1 khẩu 3 in (76 ly) 2 khẩu 40 đơn- 8 khẩu 20 ly đôi; Máy chánh: dầu cặn 2000 mã lực, 2 trục; Tốc độ: 15 gút; Thủy thủ đoàn: khoảng 90.
Trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long, HQ. 230
Sau gần hai năm phục vụ trên HQ. 11 , tôi có lệnh thuyên chuyển về Trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long, HQ. 230, có dịp thực hành hàng hải thiên văn trên Thái Bình Dương khi đi sửa chữa tàu ở Guam. Chúng tôi rời Saigon vào ngày 17 tháng 12 năm 1968 và về nước ngày 8 tháng 9 năm 1969 để đại kỳ chiến hạm và quan trọng là lấp phần chống B. 40 bao quanh đài chỉ huy và phòng lái chiến hạm. Có dịp ở Philippines nhiều ngày và đi thăm thủ đô Manila và các tỉnh thành của Phi, có kiến thức nhiều hơn về văn hoá, kinh tế, chính trị của nước chủ nhà.
Ông Hạm Trưởng trong thời gian nầy là ông Nguyễn Văn Chuyên, vừa mới mất cách đây bốn ngày, và tôi có đến tám cảnh chùa ở Houston nầy để cầu nguyện cho ông và cho hai người em đã mất của tôi và của vợ tôi.
Sau khi vềnước, chiến hạm hoạt động trên sông Mékong và hộ tống thương thuyền nước ngoài lên xuống Phnom Penh, và sông ngòi miền Nam nhiều hơn là tuần tra trên biển.
Đặc tính chiến hạm:
Trọng tải: tiêu chuẩn 227 T, chở nặng 383 T; Kích thước: 159 X 23.7 X 5.7 bộ; Vũ khí: 1 khẩu 76.2 ly, 4 khẩu 40 ly, 4 đại liên; Máy chánh: dầu cặn 1600 ML, 2 trục; Tốc độ: 14 gút; Thủy thủ đoàn: khoảng 40.
Hộ Tống Hạm Vân Đồn HQ. 06
Sau một năm làm việc ở bờ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân/Khối Quân Huấn với chức vụ Sĩ quan Liên Lạc giữa Hải Quân và Trường Sinh ngữ Quân Đội kiêm Tiểu đoàn trưởng khóa sinh Hải Quân, tôi lại được thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Hạm Đội với chức vụ Hạm Phó Hộ Tống Hạm Vân Đồn HQ. 06 thay thế anh Đoản Hồng Hải-khóa 14 Hải quân, tôi với anh trước đây cùng chung phục vụ trên HQ. 11, anh hy sinh vì tổ quốc một thời gian sau đó khi đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Giang đoàn. Đi trên chiến hạm nầy tôi học hỏi rất nhiều về chuyên môn với vị Hạm Trưởng khả kính, ông Nguyễn Quang Hùng. Chân thành cầu xin hương linh Hạm Trưởng siêu thoát và an bình trên thiên đàng.
Sau thời gian dài tham gia hộ tống thương thuyền ngoại quốc lên xuống Tân Châu, chiến hạm được xữ dụng làm huấn luyện hạm.
Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ.16
– Trưởng Khối hành chánh tiếp liệutrên Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ.16. Chúng tôi, hai thủy thủ đoàn khác nhau, đã bay sang Clark Field và đi đường bộ đến Subic Bay của Philippines ngày 21-06-1972 để nhận chuyển giao hai chiến hạm, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt – HQ 16 và Tuần dương hạm Ngô Quyền – HQ 17.
Khi đề cập đến HQ.16, lòng tôi rất bồi hồi và thương tiếc em Nguyễn Văn Duyên đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Em là một người làm việc chuyên cần và liêm khiết mà tôi rất thương mến như người em ruột. Em giúp tôi rất nhiều trong thời gian lảnh tàu tại nước ngoài. Lúc đầu chỉ có tôi và em lo mọi chuyện để nhận phụ tùng cho từng ban ngành, từ cơ khí, trọng pháo, truyền tin, điện tử thám suất, vận chuyển, vật dụng nhà bếp… may mắn là tôi có một anh thượng sĩ Hoa Kỳ phụ giúp tôi, anh ta cũng xông xáo, tận tụy không khác gì em Duyên. Thỉnh thoảng tôi mời hai em nầy ra quán ăn và uống bia philipino San Miguel.
Trước khi mang tàu về nước, Bộ Tư Lệnh Hải Quân/Phòng Tổng quản trị thuyên chuyển nhiều anh em, đủ các cấp, bay sang đây để cùng chúng tôi thử tàu trên biển, học hỏi và thao tác thông suốt các phương tiện được trang bị trên tàu, nên khi mang tàu về nước, thủy thủ đoàn tự tin và hoàn thành tốt công tác được giao.
Đặc tính chiến hạm:
Trọng tải: tiêu chuẩn 1766 T, chở nặng 2800 T; Chiều dài: 310.75 bộ; Chiều ngang: 41.10 bộ; Chiều sâu: 13.50 bộ; Vũ khí: 1 đại bác 5 in (127 ly), 1 hay 2 súng cối 81 ly, nhiều đại liên. Máy chánh: dầu cặn 6080 mã lực, 2 trục chân vịt; Tốc độ 18 gút; Thủy thủ đoàn: khoảng 100.
Tuần Duyên Hạm Kiến Vàng HQ. 603
Giữa năm 1973, tôi được chỉ định giữ chức vụ Hạm Trưởng Tuần Duyên Hạm Kiến Vàng HQ. 603, đây là lần đầu tiên Bộ Tư Lệnh Hải Quân chỉ định một Sĩ quan Hàng hải Thương Thuyền đảm nhận chức vụ Hạm Trưởng. Đây là một vinh dự cho cá nhân tôi và cho anh em Hàng hải Thương Thuyền còn đang phục vụ trong Quân chủng Hải Quân. Tôi hứa với lòng là phải làm đúng mọi việc, đúng chức năng trách nhiệm được ghi chép trong Hải Quy để cánh cửa tiếp tục mở ra cho những anh em Hàng Hải Thương Thuyền khác. Tôi đã làm tốt lời tự hứa của bản thân mình. Nhớ lại những chuyến công tác đầu tiên, tôi đều ăn ngủ không yên vì chưa tin tưởng khả năng chuyên nghiệp của anh em sĩ quan dưới quyền, nhưng sau nầy thì đâu cũng vào đó.
Đặc tính chiến hạm:
Trọng tải: chở nặng 117 T; Kích thước 100.33 X 21.1 X 6.9 bộ; Vũ khí: 1 khẩu 40 ly, 2 hay 4 khẩu 20 ly, 2 đại liên; Máy chánh: dầu cặn, 1900 ML, 2 trục; Tốc độ: 15 gút; Thủy đoàn: khoảng 25.
Hạm Trưởng Hỏa Vận Hạm HQ. 472, loại tàu nầy có tổng cổng 6 chiếc dùng để tiếp tế dầu cho các căn cứ tiếp liệu, các chiến hạm… Công tác xa, nếu có, thì cũng rất ngắn ngày so với các loại tàu trên. Có cùng đặc tính như HQ. 470. Vào đầu tháng 2 năm 1975, tôi có Lệnh Thuyên Chuyển về làm Thuyền trưởng cho hãng tàu Vishipco Lines, và chờ vị Hạm Trưởng mới đến thay thế tôi; đến giờ nầy tôi vẫn còn giữ LTC làm “kỷ vật”. Tiếc thay vị đó lại đi học khóa Cao cấp, một vị khác được chỉ định đến thay thế cho tôi, nhưng không biết vì lý do gì cũng chưa trình diện BTL/Hạm Đội để nhận công tác. Ông Chỉ Huy Trường Hải Đội động viên tôi để đi thêm một chuyến công tác. Từ cực nam của miền Nam chúng tôi “dong ruỗi” trên con đường tiếp tế cho từng vùng để các đơn vị, các chiến hạm có đủ nhiên liệu hoạt động trên biển. Từ An Thới, Phú Quốc chúng tôi bơm đầy cho Căn cứ Yểm Trợ Tiếp vận và các chiến hạm hoạt động trong vùng; ghé qua Côn Sơn tiếp tục nhiệm vụ của mình vả trực chỉ Vũng Tàu để vào Cát Lỡ lấy dầu và tiếp tế cho các chiến hạm đang neo đậu tại đây. Nhận được lịnh ra Qui Nhơn để tiếp tế cho các chiến hạm từ Vùng I Duyên Hải trên đường xuôi nam. Tình hình chiến sự trong đất liền thì càng lúc khó khăn cho miền nam, tinh thần anh em dưới tàu không có biểu hiện hoang mang hay lo sợ. Tôi vững lòng vì mọi người trong chúng tôi hiểu lẫn nhau và đã cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn trong một thời gian tương đôi khá dài.
Hỏa vận hạm HQ. 472
Từ nhiều nguồn quân sự và dân sự tôi biết chắc rằng miền Nam Việt Nam đang trải qua những ngày tháng đen tối, từ sai lầm chiến lược và chiến thuật, chúng ta khó có thể đảo ngược và gìn giữ sự nguyên vẹn của miền nam như trước đây. Giải pháp chính trị nào cho Việt Nam đây? Thi hành Hiệp định Paris chăng? Đành chờ và xem.
Tôi và anh em trên tàu phải làm tròn trách nhiệm mà mình đang gánh trên vai, tuy nhỏ nhoi nhưng chúng tôi phải làm tốt để cuộc triệt thoái được thành công. Sau khi vào lấy dầu tối đa có thể tại Căn cứ xăng dầu của Quân vận, tôi ra lệnh anh em phải cẩn thận vì tối hôm trước đó người nhái Việt cộng toan tính đặt mìn tàu Bệnh viện hạm HQ.400 nhưng may mắn anh em phát hiện được và bắt được hai người, chúng tôi ra neo ở ngoải cảng và cho một số anh em ra phố đi chợ vì thực phẩm trên tàu đã cạn kiệt; anh em đi chợ về và cho biết thành phố gần như bỏ ngõ, chỉ lèo tèo vài anh cảnh sát còn phụ trách lưu thông trên đường phố.
Tôi được nhận được yêu cầu từ Hộ tống hạm HQ. 08 đến tiếp tế dầu; tôi được biết Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lịnh Vùng I Duyên Hải đang trên chiến hạm nầy. Tôi gặp anh Nguyễn Văn Yên, Hạm trưởng, anh là một trong ba bốn anh cùng khóa 15 rất xuất sắc và đảm nhiệm chức vụ Hạm trưởng trên các chiến hạm lớn sớm nhất. Tôi lên đài chỉ huy của chiến hạm và trình diện Tư Lịnh Vùng và nhận thấy ông đang mặc Jacket hải quân và trên mặt có vết sước nhẹ. Trọng tâm của ông trong lúc nầy là rước càng nhiều càng tốt anh em binh sĩ Sư đoàn 3 Bộ binh và hướng dẫn các đơn vị chiến hạm, chiến thuyền của vùng I về Vũng Tàu.
Trích hai trang trong quyển Can Trường trong Chiến Bại
Tách khỏi chiến hạm HQ. 08, thì vào lúc 1:00 chiều ngày 31 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đón tiếp HQ. Đại tá Nguyễn Công Hội, Tư Lịnh phó Vùng I Duyên Hải lên chiến hạm chúng tôi để chỉ huy đơn vị trưởng các chiến đỉnh của vùng tập trung lại để cùng về Vũng Tàu. Tôi và ông có quan hệ trong công tác, trước đây ông là Chỉ huy trường Hải đội Tuần Duyên và tôi là Hạm trường một chiếc PGM dưới quyền ông; sau nầy khi ông về vùng I thì tôi lại trình diện ông mỗi khi công tác ở đây.
Đồng thời chúng tôi cũng có chở Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh và các Sĩ quan Tham mưu của ông trên chiến hạm của chúng tôi. Mọi người đều lo lắng cho các đơn vị và binh sĩ dưới quyền. Binh lính của Sư đoàn 3 Bộ binh có mặt trên tàu khá đông song anh em giữ kỷ luật rất tốt.
Tôi đã gặp Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh tại thành-phố San Jose, California vào ngày 7 tháng 11, năm 2009, nhân dịp Giáo-Sư và các anh chị em trong Uỷ-Ban Hoàng Sa tổ-chức họp-mặt tổng kết thành quả các công tác trong năm qua, thông-báo về sự chọn lựa ngày Hoàng Sa hàng năm là ngày Ghi Ơn các anh hùng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974 và đồng thời làm lể Vinh Danh cho anh chị Lữ Ngọc Sơn, Hàng-Hải khoá 19 Pont, từ thành-phố Sydney, Úc Châu. vừa đến thăm viếng California, lần đầu tiên Anh chị Sơn đã đóng góp rất nhiều cho các công tác của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ tại Úc Châu. Từ 1995 cho đến nay Giáo sư Canh là Chủ tịch Ủy Ban này, với sự có mặt của các Giáo sự Luật Khoa Vũ quốc Thúc, Giáo sư Nguyễn cao Hách v.v..Giáo sư Canh, cũng đã ngoài 70 tuổi, dáng người khả -kính, đi đứng còn nhanh-nhẹn lắm, rất hoạt-động. Trước khi buổi hợp bắt đầu, ông cũng rất năng-động chỉ-dẩn, sắp xếp công việc.Vì cũng là giáo sư dạy Trường Hàng Hải, nên tôi gọi Giáo sư là Thầy. Thầy nói chuyện cũng dí dỏm lắm, có những câu chuyện về ‘political untold stories’, nghe rất hay, rất lạ. Không biết khi nào, Thầy sẽ có thể viết lại những chuyện như vậy. Những chuyện đã xảy ra giữa các vị quân sự, dân sự, Việt Mỹ, các giáo sư, tướng tá, dân biểu, chính tri gia, các chuyện ngoài lề, và rất nhiều… Thầy cũng thường đi nhiều nơi, trong quốc-nội Hoa-Kỳ, sang Âu Châu, Úc Châu, Liên bang Sô Viết để vận động, thuyết-trình về các vấn đề đất nước thuộc nhiều lãnh vực khác nhau.. Là một giáo sư Luật khoa về Công pháp quốc tế và chính trị học và với những kiến thức và kinh-nghiệm về Cộng sản trải qua từ Âu Á… Thầy có những lập luận chính xác và vững chắc để thuyết phục các người làm chính sách Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu. Và vì thế, Đại tá Gene Castagnetti từ Hawaii sang, nói trong buổi họp do các Giáo sư Việt vùng Vịnh San Francisco tổ chức tại Santa Clara, CA vào tháng 2 năm 2008 để Vinh Danh Thầy rằng: “GS Canh đã có thể làm thay đổi tiến trình suy tư của người Mỹ…” Khi chúng tôi nói chuyện với Giáo sư , chúng tôi gọi bằng “Thầy” hoặc “Giáo sư” và xưng là “Em”, vì trước 1975, Giáo sư đã được mời dạy về Luật Hàng Hải ở trường Hàng-Hải, thuộc Trung-Tâm Kỹ-Thuật Phú Thọ, Sài Gòn, cùng thời với những Giáo sư khác đến từ các Viện Đại-học khác (Luật-khoa, Quốc-Gia Hành-Chánh… và các cơ-quan Hàng-Hải, Hàng-Hà cho những môn học không do các Giáo-sư cơ-hữu của Trung-Tâm giảng dạy)
Sau khi anh Lê Châu An Thuận, phụ-trách Kỷ-Yếu Hàng-Hải, gợi ý cho tôi để viết một bài trong Kỷ-Yếu Hàng-Hải về Thầy Nguyển Văn Canh, tôi đã liên-lạc với Thầy qua Email, và được Thầy đồng- ý và gửi ngay cho tôi các tài-liệu cần-thiết.
Sau đây, tôi xin tóm-tắt về tiểu-sử và các công việc của Giáo sư, dựa vào tài-liệu đã được tham-khảo…
Tại Việt Nam: từ 1961 đến 1975 Đại học Luật Khoa, Sàigòn: Phụ tá Khoa Trưởng & Giáo sư Phụ trách diễn giảng các môn: “Những vấn đề Chính Trị Quốc Tế Hiện Đại” (Năm IV Ban Tư Pháp); “Sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam: Khảo cứu về chiến lược bành trướng thế lực”, (Năm thứ IV Ban Công Pháp); “Luật pháp Đối Chiếu” (Năm thứ I Ban Cử Nhân). Theo dõi và Đánh giá Sinh Viên Cao Học Ban Công Pháp.
Đại học Luật Khoa Huế: “Luật Hiến Pháp”, Năm I, Ban Cử Nhân.
Phân Khoa Khoa Học Xã Hội, Đại Học Vạn Hạnh: Chính trị Học Tổng Quát, Năm I, Ban Cử nhân, Các Chế Độ Chính Trị Quốc Tế Đối Chiếu, Năm III, Ban Chính Trị. Quốc Tế Công Pháp, Năm IV, Ban Chính Trị.
Trường Chỉ Huy và Tham Mưu, Quân Lực VNCH Thuyết trình về “Cộng sản Việt Nam: Kỹ thuật củng cố quyền hành”
Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Quân Lực VNCH: Thuyết trình về “Cộng Sản Việt Nam: Ý thức hệ và các sách lược thi hành” và Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh-Sát Quốc-Gia, rồi Học Viện Cảnh Sát Quốc gia, Văn-phòng Phủ Tổng-Thống, giảng-dạy hoặc thuyết-trình về Cộng Sản Việt Nam và Luật-pháp.
Tại Hoa Kỳ từ 1977 đến hiện nay:
• 1977-1979: phụ trách môn Luật-pháp Đối-chiếu tại Lincoln Law School, San Jose, CA cho các Luật-sư Việt muốn thi lấy bằng hành nghề tiểu-bang California. • 1976-1979: Giám Đốc chương-trình Bilingual Cross Cultural Program và làm Điều-hợp viên của chương-trình Indochinese Refugee Resettlement Program ở San Mateo County, Office of Education, Redwood City, California: 1979- 1995: Học giả nghiên-cứu về Việt-Nam tại Viện Nghiên cứu Hoover về Chiến Tranh Cách-Mạng và Hòa Bình, thuộc Đại Học Stanford. Viện Nghiên cứu Hoover là một phần của đại học Stanford, chuyên nghiên cứu về Cộng sản trên thế giới, Giáo sư Canh là người Á châu duy nhất nghiên cứu về Cộng sản Việt nam. Hiện nay, bà cựu ngoại trưởng Condoleezza Rice, đã trở lại dạy về khoa Chính-trị học tại Stanford. 1984-1989: Đồng Giám Đốc tại Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại Học U. C. Berkeley, California, Dự Án Oral Life History. 1981-1990: Giám Đốc trung-tâm Indochinese Employment & Training Center tại San Jose, California. · 2002 : Giám Đốc, Center for Vietnam Studies, San Jose, CA Giáo sư còn là tác giả nhiều cuốn sách, nhiều bài nghiên cứu đăng tải trên nhiều tạp chí bằng Anh và Việt ngữ.
Những cuốn sách nghiên-cứu về Cộng-Sản và xã-hội dưới chế-độ CS đã được in như là: – The Vietnamese Communist Warfare, Doctoral Thesis, Saigon Law School, 1971. – North Vietnam Major Policies: a research on the communist party on Agricultural Cooperativization and Cultures, Saigon Law School, 1972. – Contemporary World Political Problems: North Vietnam’s and China ‘s Foreign Policies, Saigon Law School, 1974. – A Comparative Study of Modern Political Regimes: Parliamentary System (GB); Presidential System (USA); Collective Leadership (USSR & Switzerland), Saigon, 1974 – Vietnam under Communism, Hoover Press, Stanford University, 1983. – Washington-Hanoi Relations, Center for Vietnam Studies, San Jose, 1987 – Nong Dan Bac Viet (North Vietnam’s Peasants) 1953-1970, Center for Vietnam Studies, 1987 – Vietnam in face of Changes in Socialist Countries, Center for Vietnam Studies, 1990 – Hanoi-Beijing Relations, Center for Vietnam Studies, 1992 – Communism on the Vietnamese Soil – The Boatpeople in Hong Kong, Center for Vietnam Studies, 1990 – Bộ sách Cộng Sản trên đất Việt, quyển I và II, nhà sách Kiến-Quốc, Garden Grove, 2002 gồm các bài thuyết trình và tiểu luận trong vòng 20 năm nay của giáo-sư. Đây không phải là lịch sử cá nhân, mà là nghiên-cứu quan trọng và phê bình một cách chính xác những diển-tiến chính-trị xã hội của đảng Cộng sản đối với dân tộc Việt nam và thế giới . – Hồ sơ Hoàng Sa & Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc, Center for Vietnam Studies, 2008 và nhiều bài viết khác nghiên-cứu về Việt-Nam.
Giáo Sư cũng đã tham-dự và thuyết trình tại nhiều hội nghị quốc tế về Việt Nam và Đông Nam Á. Vài thí dụ như: – International Conference on Vietnam, Paris, Dec. 1987. – Paper presented: THE AFTERMATH OF THE WAR IN VIETNAM – International Conference on Vietnam, Bangkok, Dec. 1988 – Paper presented: DEMOCRATIZATION IN THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM – International Conference II on Human Rights, Leningrad, USSR, Sept-1990 – Paper presented: DEMOCRACY AND HUMAN RIGHTS IN VIETNAM – National Conference of Vietnam Veteran Ministers – Luncheon address on Violations of Religious Rights by the CPV, Lantana, Florida, Oct.1994…..
Hiện nay, mục tiêu của Thầy là: phát động công cuộc gây dựng ý thức bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ trong việc chống lại Trung Cộng lấn chiếm khu vực Hoàng Sa và Trường Sa; và Nhà nước Cộng sản Việt nam là kẻ đồng lõa trong việc dâng hiến đất đai của tổ quốc cho ngoại bang. Công tác trước mắt là chọn môt ngày kỷ niệm, gọi là Ngày Hoàng Sa 19 tháng Giêng, là ngày Hải quân Việt Nam Cộng hoà đã hiên ngang đưa tàu chiến ra ngăn chận và nghênh chiến với một lực lượng hùng hậu Hải quân Trung cộng tại Hoàng Sa năm 1974. Trong trận chiến này Hải quân VNCH đã giết chết viên Đô Đốc Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam Hải, kiêm tư lệnh Mặt trận Phương quang Kính, 4 hạm trưởng là Đại tá Quan Đức, Soái hạm chiến dịch ( chỉ huy hộ tống hạm Kronstadt 274), Đại tá Vương Kỳ Uy ( hộ tống hạm Kronstadt # 271), Đại tá Diệp mạnh Hải ( trục lôi hạm #396); Trung tá Triệu Quát,trục lội hạm #389 . Cả thảy 4 đại tá và 6 trung tá của TC, ngoài viên Đô Đốc tư lệnh đã bỏ mình trên quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1, 1974. Thầy hy vọng các anh em Hải quân và Hàng Hải, đã gắn liền đời mình với sông biển Việt nam, thì không nên thụ động trước tình thế xâm lăng của TC và có đồng lõa của VC. Hội HQ Cửu Long, Nam California đã đồng ý đứng ra tổ chức ngày Hoàng Sa ở Orange County ngày 17 tháng Giêng , 2010. Thầy sẽ về đây để nói chuyện. Thầy rất muốn anh em Hải Quân và Hàng Hải sẽ tham dự , dù nhiều hay ít, để chứng minh rằng quí anh chị Hải Quân hay Hàng hải không quên đất tổ của mình. Một tuần sau đó, ngày 24 tháng Giêng, các anh em thuộc Thanh Niên Cờ Vàng hay « Tuổi Trẻ Đứng Lên Bảo vệ Đất Nước”, sẽ tổ chức ngày Hoàng Sa ở San Jose, California do Ủy Ban Hoàng Sa hướng dẫn. Tại Pháp, Hội Hải Quân và Hàng Hải sẽ tổ chức Ngày Hoàng Sa vào 31 tháng 1, năm tới. Nhiều nơi cũng đã chuẩn bị, gồm cả nhiểu tiểu Bang ở Úc Châu… Về các anh em Hàng Hải, xin liên lạc với Thầy nếu cần giúp đỡ, xin ý kiến và yểm-trợ trong các chương trình này. Email canhnguyen1@yahoo.com Xin đọc Web site http://vietnamadvisory.org/library.htm để biết thêm, trau dồi và học hỏi những luận cứ khuôn mẩu đứng đắn , mạch lạc, vững chắc.Xin giới thiệu ỦY BAN BẢO VỆ SỰ VẸN TOÀN LÃNH THỔ ỦY BAN HOÀNG SABAN CHỈ ĐẠO:
– GS QGHC Nguyễn Thị Ngọc Dung, Chủ Tịch – BS Nguyễn Huy Trụ, LS Đổ Doãn Quế, LS Trần Thiện Hải, LS Trần Minh Nhựt, LS Đỗ Ngọc Phú, GS Trần Huy Bích., Ô. Nguyễn Ngọc Liên, Ô. Nguyễn Kim Dần, Ô.Trần Nhật Kim v.v.
BAN CHẤP HÀNH: Chủ tịch: LS Nguyễn Ngọc Bích, Tổng thư Ký: Ông Huỳnh Khương Trung Các thành viên: ÔÔ. Lưu Hậu Sâm, Cao Nguyễn, Hà Nguyễn, Bà Trương Quế Hương, GS Nguyễn Kim Loan.
Có thể nói, tất cả những người Việt Nam tị nạn Cộng Sản đang sống tại hải ngoại; đã và đang có một cuộc sống mới. Một đời sống tự do, không phải đi hội họp sau những giờ làm việc mệt nhọc, không phải xếp hàng cả ngày trời để mua từng ký gạo, không phải tự khai, tự kiểm điểm và tự phê bình…v…v…
Để chuẩn bị cho sự đổi đời đó, là những giai đoạn tính toán, sắp đặt; những lo âu sợ sệt. Nhưng lòng căm thù và chán ghét cộng sản đã giúp họ tinh thần khắc phục mọi khó khăn. Họ chen chúc trong những chiếc thuyền, chiếc tàu để rời khỏi quê hương, để thoát khỏi vùng đất đọa đày của cộng sản…Sóng gió đôi khi đã nhẩn tâm đối với họ, nhưng đó chỉ là sự thử thách. Những con tàu trung thành vẫn đưa họ tới những bến bờ tự do. Những con tàu đều vô tri, vô giác; nhưng đối với những người thủy thủ, con tàu đã là người bạn đường lý tưởng; như hình với bóng. Đối với những người vượt biển, hình ảnh con tàu là hình ảnh của ân nhân.
Cuộc sống của con tàu là sự lênh đênh trên biển cả, mang theo người thủy thủ ngược xuôi khắp miền đất cảng. THỦY THỦ và CON TÀU, hai danh từ không thể đứng cách biệt. Sự gắn bó giữa “thủy thủ” và “con tàu” có thể thi vị hoá như một mối tình chung thủy, cuộc sống của con tàu không thể thiếu người thủy thủ và ngược lại.
Xin ghi lại nơi đây, vài dòng lịch sử của chiếc tàu Vàm Cỏ 24…Một ân nhân của thủy thủ đoàn tàu Vàm Cỏ 24. Trên cương vị một người thủy thủ, tôi muốn nhắc nhở lại một kỷ niệm, để giới thiệu về một con tàu cũ. Con tàu đã có nhiều thành tích và kỷ niệm đáng được nhắc đến.
Tàu Vàm Cỏ 24 với tên cũ là tàu Nhựt Lệ của công ty Hàng Hải Hỏa Xa SaiGon.
Tàu Nhựt Lệ được hạ thủy năm 1958 tại Nam Tư và được khai sinh dưới trào Tổng Thống Ngô Đình Diệm( năm 1960 ). Dưới sự điều hành của Hàng Hải Hoả Xa Sài Gòn và với trọng tải 1200 tấn. Tàu Nhựt Lệ đã có mặt trên khắp các miền đất cảng của miền Nam Việt Nam, với nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá. Trong công tác chuyển vận, Nhựt Lệ đã tham gia rất nhiều chuyến hàng quân sự cho các vùng chiến thuật và đó đã là cái “mốc” cho sự phá hoại của Việt Cộng. Vào ngày 26/03/1973 lúc 3 giờ sáng, tại cảng Chợ Cá Qui Nhơn; những tiếng nổ kinh hoàng của các quả thủy lôi (do Việt Cộng gài đặt) đã làm tàu Nhựt Lệ bị thương trầm trọng (hầm hàng số 1 phía hữu hạm bị lủng và nước đã tràn ngập làm nghiêng hẳn tàu) Trong vụ khủng bố này Việt Cộng đã đánh đắm chiếc tàu Thống Nhứt cũng thuộc về công ty Hàng Hải Hỏa Xa SaiGon.
Sau đó, với sự nổ lực sửa chữa của Hải Cảng Qui Nhơn…Nhựt Lệ đã cố gắng về được SaiGon để sửa chữa và tu bổ hoàn hảo, trước khi tiếp tục lại những chuyến công tác…
Tháng 05/1975 sau khi cướp được miền Nam…Cộng Sản đã xoá tên Nhựt Lệ…
Cộng Sản đã đổi tên tất cả những chiếc tàu vừa cướp được của miền Nam Việt Nam và đã lôi một số cán bộ ngoài Bắc về để thành lập Công Ty Vận Tải Biển miền Nam Việt Nam.
Tàu Nhựt Lệ với cái tên mới là Vàm Cỏ 24, lại được Cộng Sản tiếp tục sửa chữa cho đến tháng 06/1976 mới hoàn tất.
Trở lại với biển cả, Vàm Cỏ 24 đã phải “ngậm đắng nuốt cay “để phục vụ cái kế hoạch vơ vét hàng hoá và thực phẫm từ Nam ra Bắc của Cộng Sản.
Cuối tháng 3/1978, sau một chuyến công tác tại Hải Phòng và trên đường về SaiGon.
Vàm Cỏ 24 đã “tạm biệt” quê hương…Đó là ngày 01/04/1978 lúc 2 giờ sáng, giờ phút lịch sử của thủy thủ đoàn tàu Vàm Cỏ 24, giờ hành động của nhũng người không khuất phục trước bạo quyền, trước những giáo điều Cộng Sản. Giờ phút ghi nhận một biến chuyển lớn…giờ kinh hoàng của các cán bộ Cộng Sản lãnh đạo tàu Vàm Cỏ 24.
Sự ra đi của tàu Vàm Cỏ 24, đã nối tiếp hình ảnh bất khuất của tàu Vàm Cỏ 16 và Tàu Sông Bé 12, để nối dài trang lịch sử vượt biển của những nguời yêu chuộng tự do.
Bằng những chiếc thuyền, bằng những chiếc tàu; người ta đã trốn chạy khỏi chế độ Cộng Sản. Với con tàu Vàm Cỏ 24, tôi đã có dịp đi đến những vùng đất cảng của Xã Hội Chủ Nghĩa miền Bắc và đã thấy quá rỏ “những gì Cộng Sản làm “. Cũng với con tàu đó tôi đã rời khỏi đất nước, rời khỏi sự kềm kẹp và “văn minh , tiến bộ kiểu Cộng Sản “.
Trong những giây phút lắng đọng của tâm tư, để hồi tưởng về quá khứ, thì hình ảnh “con tàu vượt biển “ là hình ảnh không thể nào quên được trong lòng của những người đang sống tại hải ngoại, đó là “hình ảnh của kỷ niệm”, của ân nhân. Và đối với những nguời còn sống với chế độ Cộng Sản, thì hình ảnh con tàu là hình ảnh của tương lai là những phương tiện “thoát ly “ khỏi chế độ. Người ta sẳn sàng chấp nhận thử thách với sóng gió, với hiểm nguy để thoát khỏi gông cùm của Cộng Sản.
Bao nhiêu chiếc thuyền, chiếc tàu đã rời bỏ quê Cha , đất Tổ và sẽ còn bao nhiêu chiếc khác nữa sẽ rời bỏ Quê Hương (?). Sự ra đi càng gian nan, hiểm trở; thì lòng căm thù Cộng Sản của chúng ta càng cao, và kỷ niệm buồn vui càng nhiều.
Những kẻ hải hồ tuy đã đi qua nhiều bến lạ, nhưng vẫn luôn chọn cho mình một bến cũ; để hy vọng có ngày sống lại với kỷ niệm. Đối với thủy thủ, thì biển cả lúc nào cũng như có lời mời gọi và những người thủy thủ vẫn cảm thấy cô đơn vì thiếu sự gắn bó với con tàu.
Riêng tặng Thuyền Trưởng HUỲNH Chef Máy THƯỞNG Nha Trang,ngày…….tháng 3 năm 1975 Tàu vừa mới xong hàng tối hôm qua. Sáng nay nhận lệnh từ công ty……Tàu phải ra Đà Nẵng để tiếp tay với các tàu Hải Quân phụ giúp đồng bào… Mọi người trên tàu đều hoang mang về chỉ thị của công ty vừa đánh ra. Trên đường trở ra Đà Nẵng sáng hôm đó….chỉ cách Đà Nẵng vài giờ tàu chạy, chúng tôi đã thoáng thấy ghe thuyền và các tàu Hải Quân đang ngược đường về hướng Nam…Thuyền Trưởng HUỲNH đã điện khẩn về công ty, để xin chỉ thị rõ ràng hơn, thì vẫn là lệnh rất mơ hồ…. »Tiếp tay với Hải Quân và di chuyển đồng bào về Qui Nhơn « … Cảng Đà Nẵng đã thấy mờ xa trong tầm mắt, bầu trời hôm đó không có một ánh nắng, mặc dù đã hơn 10 giờ sáng, nền trời mang nặng màu xám chì, không có dấu hiệu gì là sẽ mưa, gió tuy không mạnh lắm, nhưng cũng đủ làm thành những con sóng « bạc đầu « . Chung quanh tàu, lúc đó đã được bao bọc bởi các ghe thuyền lớn nhỏ…..Phía tả hạm của tàu đang có một xà lan lớn (của công ty R.M.K) chở đầy người và người, già có, nhỏ có, mọi người đang nhốn nháo trên xà lan, tiếng gào thét, tiếng la hét hỗn độn…một vài tiếng súng nổ trên xà lan, như muốn kêu gọi chiéc tàu hãy dừng lại….xà lan đã cặp sát tàu trong khi máy chính của tàu đã ngừng hẳn…một sự va chạm mạnh, khi sườn tàu đụng phải chiếc xà lan…một vài người trên xà lan đã bám vào thành tàu, người nầy lên, nối tiếp người khác và những sợi dây trên tàu đã được thả xuống. Chúng tôi, một số thủy thủ đoàn không phải ca trực cũng đã tham gia công việc « bốc người » đó…..Sóng vẫn lớn, con tàu vẫn nhấp nhô trên biển cả, có những chiếc xe gắn máy, những đồ đạc được cột dọc theo xà lan,đã là những »trái độn” cho sự va chạm giữa tàu và xà lan..Mọi người đang cố gắng bằng đủ mọi cách để lên được tàu….Trên tàu lúc đó gần như không còn chỗ nào trống để người khác có thể chen chân vào, một vài gói vật dụng không cần thiết đã được vất xuống biển, để có chỗ cho người khác… Thuyền Trưởng đã ra lệnh cho tàu nổ máy và quay ngược về hướng Qui Nhơn, chiếc xà lan vẫn như con đỉa đói cố bám chặt không chịu rời…một số lính đã qua được bên tàu, đang tìm cách chặt đứt những sợi dây đang cột chặt tàu và xà lan…để tàu có thể khởi hành về Qui Nhơn… Đà Nẵng xa dần phía sau chúng tôi….hơn một ngày trời hải hành chúng tôi lại được tin Qui Nhơn đang “bỏ chạy”…đồng bào tại Qui Nhơn đang ùn ùn chạy ra cửa biển…Tàu không vào được Qui Nhơn, chúng tôi lại tiếp tục về Nha Trang…Cuộc hành trình sang ngày thứ hai, đã có nhiều sự hỗn loạn..Số đồng bào trên tàu đã cạn lương thực…. người ta quan tâm nhiều đến những người già cả và các em bé…Vấn đề nước uống đã trở nên khan hiếm..nước trên tàu đã gần cạn… Đêm hôm thứ hai của cuộc hải hành đó, có một phụ nữ mang thai, đang lên cơn chuyển bụng, người ta đã cầu cứu ầm ĩ đến sự trợ giúp trên tàu, tôi đã hỏi ý kiến thuyền trưởng và đưa chị ta vào phòng ăn của sĩ quan trên tàu…..phải vất vả, len lỏi giữa đám đông người, tôi mới kiếm được một ông y tá trong quân đội, biết chút ít về sản khoa, để giúp đở chị sản phụ kia..Đến khi tôi và ông y tá trở lại , thì một em bé gái đã lọt lòng mẹ….bằng tất cả những gì hiện có, chúng tôi đã cố gắng lo lắng cho hai mẹ con của chị ta…. Hỏi thêm về hoàn cảnh, thì được biết chị ấy đi kiếm người chồng là lính chiến đóng tại Đà Nẵng , nhưng đã không gặp..có lẻ đơn vị của anh ấy đã di chuyển trước khi chị ấy đến Đà Nẵng. Bằng những giọt nước mắt chân thành, chị ấy đã có lời cám ơn đến toàn thể nhân viên trên tàu đã cứu mạng sống của chị và hơn thế nữa, đã cứu luôn mạng sống đứa con đầu đời của chị…Chị ấy hứa là sẽ chọn tên của tàu để đặt tên cho đứa con của mình….Nguyễn Thị Hoà Bình….Tội nghiệp cho cô bé Nguyễn thị Hoà Bình, được ra đời trong lúc hỗn loạn, thiếu hẳn mọi phương tiện cho một hài nhi….Những lá cờ hiệu, cờ chữ trên tàu đã được dùng làm tã để bao bọc thân hình bé nhỏ của cháu… Vài gìờ sau đó, chúng tôi đã không gặp lại người đàn bà có đứa con sẽ mang tên Nguyễn Thị Hòa Bình đó, vì tàu đã cặp bến Nha Trang…và tất cả đồng bào đã xuống bến….. NGUYỄN THỊ HÒA BÌNH Sanh ngày…(trung tuần) tháng 3 năm 1975 Quê quán : Qui Nhơn – Đà Nẵng Tên cha : (chưa biết) Tên mẹ : (chưa biết) Nơi sinh : M/V HÒA BÌNH (Công ty VISHIPCO LINE ) Nguyễn Thị HÒA BÌNH con đã là đứa con tinh thần của tàu HÒA BÌNH (theo truyền thống Hàng Hải ). Giờ này chắc con đã nên người…Con đã được sinh ra trong hoàn cảnh hỗn loạn của chiến tranh, nhưng con lại được mang tên Hòa Bình, đúng như ý nguyện cuả mẹ con. Con có hưởng hòa bình thật sự trên quê hương chăng(?) Trong khi các bác, các chú của con vẫn lưu lạc nơi xứ người………
Bìa cuốn kỷ yếu Hành trình tìm Tự Do – Journey to Freedom – April 22, 2015
Đó là tựa đề cuốn Kỷ Yếu do nhóm thân hữu Trường Xuân ở Sydney, Úc Châu, thực hiện để ghi nhớ đúng 35 năm gần 4000 người tỵ nạn Việt Nam rời bỏ quê hương trên chuyến tầu định mệnh Trường Xuân. Tôi rất ngạc nhiên khi cầm trên tay cuốn kỷ yếu thật đặc biệt từ hình thức tới nội dung và khá tốn kém này. Thoạt nhìn, có người tưởng lầm đây là một cuốn tự điển vì vẻ “gồ ghề” của nó từ cái bìa cứng in chữ lớn mạ vàng óng ánh tới bề dầy 2 inches và hơn 600 trang bằng loại giấy láng dầy. Theo tôi, ngoài nhóm thân hữu Trường Xuân ở Úc ra, có lẽ không có một hội đoàn hay đoàn thể non-profit nào tại hải ngoại dám gồng mình thực hiện một cuốn kỷ yếu có tầm cỡ và tốn kém như vậy. Cuốn kỷ yếu mang tựa đề “Hành trình tìm Tự Do – Journey to Freedom”quả là một di sản giá trị để lại cho các thế hệ con cháu sau này, có thể đọc và hiểu được lý do tại sao cha ông của họ đã phải liều chết đi tìm Tự Do. Tất cả những tài liệu, những bài viết, những hình ảnh trong cuốn Kỷ Yếu đều được trình bày bằng song ngữ Việt-Anh để giới trẻ có thể đọc hay nghiên cứu. Chưa hết! Cuốn Kỷ Yếu này còn được gửi tặng tất cả các vị nguyên thủ của 14 quốc gia đã dang rộng vòng tay nhân từ đón nhận những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam trên chuyến tầu Trường Xuân. Cuốn sách sẽ được lưu giữ và trưng bày tại nhiều thư viện của nhiều quốc gia trên thế giới.
Ðã có rất nhiều người nghe biết về chuyến tầu Trường Xuân nhưng có lẽ vẫn chưa rõ các diễn biến và các chi tiết về chuyến hải hành đầy cam go này. Nhạc sĩ Lam Phương cũng là một thuyền nhân trên con tầu định mệnh Trường Xuân.
Xin mượn những dòng tâm sự của Thuyền trưởng Phạm-Ngọc-Lũy để nói về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân: “Thượng đế đã ban cho tôi ân huệ được sống với đồng bào trong những giờ phút đau thương và bi thảm nhất của một giai đoạn lịch sử tan vỡ. 10 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiếng nói từ đài phát thanh Sài gòn gieo vào lòng người quốc gia nỗi kinh hoàng đến tuyệt vọng. Làn sóng người đổ xô ra tầu Trường Xuân mỗi phút mỗi đông. Tôi thấy bóng dáng nhiều binh chủng lẫn trong đám đồng bào. Tất cả đã hy sinh rất nhiều, đã quá yêu tổ quốc và gia đình… Tất cả đều mang nét mặt buồn thảm, hốt hoảng đến cùng cực, đi tìm đường sống trong cái chết. Trên đài chỉ huy, tôi bị dằn vặt và bị ám ảnh nặng nề về tin tức tôi mới nhận được từ viên sĩ quan phụ tá: có âm mưu phá hoại! Tôi biết mình phải làm gì? hành động thế nào để có thể đưa thoát đồng bào rời khỏi Sài Gòn nơi chúng ta đã bám vào đấy để sống. Tôi vốn dĩ lạnh lùng trước hiểm nguy nhưng tôi lại có nhược điểm là rất dễ bị xúc động. Bình tĩnh trước gian nguy tôi thấy dễ nhưng ngăn chặn được giọt nước mắt lăn trên má lúc này mới là điều khó khăn. Không bình tĩnh, không nén được xúc động, tôi sẽ mất hết đồng bào, mất hết những người thân yêu. Tôi đã vận dụng hết khả năng, ý chí, tận dụng nguồn sinh lực để cố giữ bình tĩnh cho chính mình vì tôi không muốn và không được phép “chưa lâm trận đã chịu thất trận”. Trong giờ phút muộn màng, gay go, nguy cấp nhất và biết trước sẽ gặp rất nhiều bất trắc, tôi vẫn tin tưởng, tin mình, tin đồng bào ý thức được mối nguy chung… tôi ra lệnh khởi hành. Ðồng hồ chỉ 13 giờ 30 phút.”
Ðể quý vị có một cái nhìn khá chi tiết về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân, xin được ghi lại vài trang Nhật ký Hải hành của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy như sau:
14-4-1975: Trường-Xuân (TX) rời Singapore về Sài gòn.
17-4-1975: TX cập bến kho 5 Khánh Hội lúc 14 giờ.
20-4-1975: Thuyền chủ Trần-Ðình-Trường đề nghị: TX chở hết đồng bào nào muốn di tản tại miền Trung…
21-4-1975: TX chất đầy hàng sắt phế thải để chở đi Manila.
26-4-1975: Sắt đã chất đầy 2 hầm tầu. Thủ tục quan thuế và giấy xuất ngoại đã chuẩn bị đầy đủ… nhưng lò hơi vẫn chưa sửa chữa xong.
27-4-1975:Tầu trong tình trạng không có Cơ khí trưởng… việc chở người di tản coi như bị hủy bỏ.
29-4-1975: Phi trường TSN bị pháo kích dữ dội.
– 13 giờ: tôi lại hãng tầu nhưng không gặp Thuyền chủ Trần Ðình Trường (TÐT).
– 16 giờ: Ông TÐT chỉ thị: Thuyền Trưởng có toàn quyền sử dụng tầu TX.
– 19 giờ : Tôi ra tầu nhưng không gặp Cơ khí trưởng. Tôi chỉ thị sĩ quan phụ tá TVC: Tầu sẽ khởi hành ngày 30 tháng 4 khoảng 12 giờ trưa…
– 20 giờ: Tôi trở về nhà và suốt đêm không sao ngủ được. Tôi phải có quyết định dứt khoát: đi hay không đi ! Tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cuộc di tản đầy chết chóc tại miền Trung.
– 6 giờ sáng: Tôi ra tầu để thẩm định tình trạng con tầu.
– 7:45 sáng: Tôi trở lại nhà… Gần 200 bà con anh em, hàng xóm dồn lên 2 chiếc xe GMC nhưng bị chận lại ở cổng thương cảng mặc dù đã xuất trình giấy tờ của Bộ nội vụ. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng vô được bên trong…
– 9:45 sáng: Sĩ quan vô tuyến xin ở lại vì thất lạc gia đình. May mắn cùng lúc đó anh NNT, sĩ quan vô tuyến của một tầu khác cùng hãng đến xin thay thế. Ðồng bào kéo tới và lên tầu mỗi lúc một đông.
– 10:25 sáng: Ðài phát thanh loan tin đầu hàng… và ngay sau đó hàng ngàn người gồm các quân, dân đổ xô xuống tầu TX từ khắp mọi nẻo.
– 12:00 trưa: Dinh Ðộc Lập và Ngân hàng quốc gia bị chiếm
– 12:30: Cơ khí trưởng báo tin máy đã ở tình trạng chuẩn bị sẵn sàng. Lệnh khởi hành được ban ra tức khắc. Nhưng vừa tách bến, hệ thống lái bị phá hoại: có người đã đổ nước vào máy thay vì đổ dầu… Thủy triều bắt đầu lên đẩy lái quay ngang sông và dần dần mũi tầu quay ra biển. Ðến bây giờ tôi vẫn còn thắc mắc : Tại sao lại có cái may mắn lạ lùng này ???
– 13:30 : Tầu TX khởi hành sử dụng hệ thống lái tay phòng hờ, một việc mà không thuyền trưởng nào dám làm trong sông. Tôi thành lập ngay ban tham mưu và các ban cần thiết khác :
a. Ban tham mưu: gồm 1 trung tá phi công, 1 thiếu tá cựu sĩ quan sư đoàn 25 BB, 1 nha sĩ, 1 giáo sư, 1 -3 luật sư, 2 cựu sĩ quan hải quân, 1 sinh viên.
b. Ban an ninh trật tự: gồm 1 trung tá cảnh sát dã chiến, 1 thiếu tá dù và nhiều sĩ quan, binh sĩ, 1 dân sự.
c. Ban y tế : gồm 1 bác sĩ và nhiều tình nguyện viên khác…
– 17 giờ: Máy phát điện bị tê liệt. tầu mắc cạn, mũi tầu đâm vào bờ. Hàng chục thanh niên xuống phòng máy bơm thuyền trưởng năn nỉ cầu xin giúp đỡ, tầu kéo xà lan mang tên Song An đã cột dây thừng kéo tầu TX khỏi chỗ bị mắc cạn và kéo TX từ từ ra Vũng Tầu ví như con kiến mà kéo con… voi.
– 23:00 : Tầu Song An đâm vào lưới cá. Các anh em binh sĩ nỗ lực cưa dây cáp và lưới cuốn vào chân vịt tầu Song An.
01-5-1975: Dây kéo tầu bị đứt liên tục vì tầu TX quá nặng với hàng ngàn tấn sắt vụn và gần 4000 sinh mạng. Thủy triều lên quá mạnh.
– 5 giờ sáng: TX chạy sát gần ven chân núi Vũng Tầu để tránh con tầu chìm “Kagwamaru”. Dây cáp lại bị đứt. Tầu TX trôi ngược lại dạt ra xa chân núi. Quân nhân trên tầu ở tư thế chiến đấu nếu bị tấn công
– 7:30 sáng: TX chạy ngang bãi trước
– 8:00 sáng: TX chạy ngang phao London Maru, cách Sài Gòn 45 hải lý. Nước bắt đầu ròng
– 10:00 sáng: TX cách Vũng Tầu 16 hải lý về phía nam. Máy chạy lại được. Tôi ra lệnh nộp tất cả vũ khí. Súng lớn súng nhỏ vào khoảng 50 cây được cất trong phòng hải đồ và được khóa cẩn thận.
02-5-1975: Sau bao nhiêu tai nạn liên miên xảy ra, chịu đói chịu khát, nhưng nhờ nỗ lực và ý thức tự giác cao độ của tất cả đồng bào trên tầu… nên tới 16 giờ ngày 2-5-1975, gần 4000 đồng bào tỵ nạn cộng sản đã được chuyển sang an toàn trên tầu Ðan Mạch mang tên Clara Maersk trong khi nước biển đã tràn ngập phòng máy. Sau khi nhận được tín hiệu SOS kêu cứu, chiều ngày 2 Tháng Năm, tầu Ðan Mạch đã chạy tới gần tầu Trường Xuân. Tôi vội vã sang tầu Ðan Mạch để gặp vị Thuyền Trưởng và khẩn thiết yêu cầu ông hãy vì nhân đạo mà cứu hết mọi người. Lúc đầu TT Olson chỉ muốn tiếp tế thức ăn, nước uống và thuốc men nhưng sau khi tôi xin ông qua thăm tình trạng bi đát của đồng bào và sau khi thấy tận mắt rất nhiều người nằm la liệt trên tầu TX vì kiệt sức, vì đói khát nhất là tình trạng vệ sinh rất tồi tệ rất dễ sinh ra các bệnh truyền nhiễm khác v.v. TT. Olson, đã quyết định cứu vớt tất cả trong tiếng reo hò và vỗ tay vang dội của mọi người. Khi tất cả đã an toàn trên tầu Ðan Mạch, tầu TX bị bỏ lại bồng bềnh trên mặt biển bao la. Và khoảng một tháng sau đó, một tầu đánh cá của Hồng Kông đã tình cờ gặp tầu TX và kéo vào bờ cùng với thi hài của Ðại Tá Vòng A Sáng. Ông đã chết vì kiệt sức không thể leo qua tầu Ðan Mạch và thay vì bị ném xuống biển, xác ông đã được bỏ lại trên tầu TX. Trước ông Sáng, đã có 2 người tự sát vì quá tuyệt vọng và vì vợ con còn ở lại không có mặt trên tầu TX. Nhưng bù lại, đã có 2 em bé được sinh ra trên tầu TX và hiện nay cả 2 em đều rất thành công tại hải ngoại sau đúng 40 năm.
Tầu Ðan Mạch chở đồng bào tới Hông Kông vào tối ngày 2-5-1975 và chúng tôi được cho tạm trú tại 3 trại tị nạn để chờ được định cư tại quốc gia thứ ba. Ðược biết đã có 14 quốc gia tiếp nhận gần 4000 đồng bào tỵ nạn trên con tầu Trường Xuân.
Sau bốn mươi năm xa xứ, các thế hệ con cháu của những người di tản đã và đang đóng góp tài năng, trí tuệ cho quốc gia mà họ đã nhận làm quê hương thứ hai. Và niềm hy vọng nhìn thấy một quê hương thanh bình, tự do vẫn luôn trong tâm thức họ…
Mãi đến bốn giờ chiều ngày 29/4/75, sau khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị oanh tạc và pháo kích, chủ tàu Trần Đình Trường mới chạy xe tới nhà Lũy báo tin : « Thuyền Trưởng được toàn quyền xử dụng tàu Trường Xuân để chở đồng bào tị nạn đi Phú Quốc. Xếp máy Lê Hồng Phi sẽ xuống tàu ». Trường trao cho Lũy giấy phép của Bộ Nội Vụ trưng dụng tàu Trường Xuân để chở người tị nạn.
Bài đọc suy gẫm: Trong tuần qua, tin tức về Tỷ phú Trần Đình Trường qua đời sau một thời gian dài bạo bịnh tràn ngập các trang báo trong ngoài nước. Ông cũng là một người mạnh thường quân đã từng giúp đồng hương tị nạn Việt Nam từ khắp thế giới về thành phố New-York sinh hoạt được nhiều lần nghỉ miễn phí tại khách sạn Carter do gia đình ông làm chủ. Và những đóng góp bằng hiện kim quan trọng khác như ủng hộ 1 trăm nghìn mỹ kim cho quỹ thương binh VNCH tại Việt Nam, nổi bật nhất là trong vụ 911 tại New-York, đã đóng góp 2 triệu mỹ kim để giúp đỡ những nạn nhân và gia đình của họ. Nhóm chủ trương Blog 16 xin được “Thành Kính Phân Ưu” và chia buồn đến gia đình thân quyến. Nguyện cầu linh hồn Ông Trần Đình Trường sớm được về hưởng Nhan Thánh Chúa.
Ông Trần Đình Trường và thân hữu
…Những ngày cuối tháng năm 1975, hàng trăm tàu thuyền bè đủ loại lớn nhỏ chở người chạy trốn cộng sản ra biển. Trong số đó, có 2 con tàu khá nổi tiếng mà nhiều bác sau bức tường lửa chắc chưa bao giờ nghe nói tới vì bị bưng bít. Một là chiếc Việt Nam Thương Tín chở hơn 2000 người Việttỵ nạn đến được đảo Guam. Song khi cặp bến con tàu này lại dùng để đưa gần 1600 người Việt hồi hương, trở về Việt Nam vì tin tưởng vào chính sách khoan hồng của chính thể mới, nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam… để rồi tất cả đều được nhà nước ta ưu ái cô lập, đưa lên rừng đào khoai sắn, còn lính tráng thì đi học tập cải tạo… Chiếc thứ 2 là con tàu Trường Xuân do ông Trần Đình Trường là chủ nhân. Dưới sự khéo léo và có lòng của vị thuyền trưởng, đã đưa được gần 4 nghìn người đến được bến bờ Tự Do. Blog 16 xin hân hạnh trích đăng hồi ký “Tàu Trường Xuân và Chuyến Hải Hành Cuối Cùng” – tức thương cảng Sài Gòn, ” Nước Vỡ Bờ”, tác giả Vũ Thụy Hoàng dựa theo “Hồi Ký Một Đời Người” của Thuyền Trưởng Phạm Ngọc Lũy? Hình ảnh từ các nguồn chỉ là minh họa.
Sau khu Hải Quân, thương cảng Sài Gòn là nơi nhiều người Việt ùa tới vào sáng ngày 30/4, khi Cộng quân đã đến cửa ngõ Sài Gòn. Nhiều người tất tả chạy tới, vẻ mặt hãi hùng, buồn thảm, hy vọng kiếm được tàu, thuyền để thoát khỏi Việt Nam. Kho 5 Khánh Hội là địa điểm được nhiều quân nhân, công tư chức túa đến. Tại đấy có mấy chiếc tàu buôn lớn của Việt Nam đang đậu sẵn.
Đứng trên đài chỉ huy của tàu Trường Xuân, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy nhìn thấy rõ cảnh dân chúng xông ra tàu, sau khi lệnh cho quân dân các cấp hạ khí giới được loan báo trên đài phát thanh Sài Gòn. Đàn ông, đàn bà, người già, trẻ thơ. Dân sự có, quân nhân có. Quân nhân đủ loại thuộc nhiều quân binh chủng khác nhau. Có người còn đủ quân phục, súng ống, đạn dược. Cả một trung đội cảnh sát dã chiến võ trang đầy đủ tràn vào. Ai cũng vội vã chạy lên tàu, chen lấn nhau, làm cầu tàu gẫy. Không có cầu tàu họ tìm mọi cách, mọi phương tiện để lên tàu. Người trèo qua cần trục ở gần tàu để xuống. Phía trên bờ, phía ngoài sông, quanh mũi, sau lái, người người leo giây, cõng nhau, công kênh nhau lên vai, trèo lên lưng nhau để cố lên tàu. Có thuyền bị lật, người bơi được, người chới với dưới nước. Chỉ trong chốc lát đã có khoảng ba ngàn người chen chúc nhau như nêm cối trên tàu Trường Xuân.
Là một tàu chở hàng và chỉ đủ chỗ an toàn để chở 12 hành khách, Trường Xuân nay phải tiếp nhận một số khách quá lớn mà không được chuẩn bị dù là tối thiểu. Máy móc đã cũ kỹ, còn bị phá hoại ngầm. Thủy thủ đoàn lại thiếu, chỉ có một phần tư. Có người lên tàu, rồi sau muốn quay trở về. Người khác hoảng hết báo động có đặc công Việt Cộng ở trên tàu. Chuyến đi của Trường Xuân vì thế trở thành một cuộc hải hành có đủ gay cấn, nguy hiểm, bạo hành, đói khát, xen lẫn với những phấn đấu quả cảm, trước những thử thách hư máy, mắc cạn, xô người xuống biển, trôi dạt giữa biển cả.
Trường Xuân là một trong số những tàu Việt Nam chở được nhiều người tị nạn nhất.
Theo thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy (hình bên), trong những buổi chuyện trò năm 1981 và 1999, cùng cuốn Hồi Ký Một Đời Người, Trường Xuân chỉ mới trở lại bến Sài Gòn ngày 17/4 sau bốn tháng ngang dọc vùng biển Đông Nam Á. Tàu lúc ấy lo chuyên chở hàng hóa theo khế ước ký kết với một hãng vận tải ở Tân Gia Ba. Khế ước đáng lẽ đến tháng 6 mới hết hạn, nhưng vào đầu tháng tư thuyền trường Lũy yêu cầu chủ hãng là Vishipco Lines chấm dứt khế ước để tàu trở về Sài Gòn gấp, sau khi Lũy nghe đài phát thanh BBC và Úc Đại Lợi loan báo Cộng quân chỉ cách Sài Gòn chừng 60 cây số mà ít gặp sự chống cự. Lũy cũng như thủy thủ đoàn 24 người đều âu lo cho gia đình ở Việt Nam.
Là người Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Genève năm 1954, và từng gắn bó với nhiều đảng viên của Duy Dân, Lũy và gia đình cũng muốn rời Việt Nam lánh nạn cộng sản. Lũy trở lại Sài Gòn vào lúc thành phố đã giao động mạnh. Nhiều người đang xốn xao tìm đường ra khỏi nước. Lủy đề nghị với chủ hãng Vishipco Lines chuẩn bị dùng đoàn tàu của hãng để chở người tỵ nạn, đồng thời chạy được đoàn tàu ra nước ngoài, nhưng đề nghị đó không được chấp thuận.
Điều Lũy quan tâm nhất đối với Trường Xuân là tình trạng máy móc của tàu. Trường Xuân được đóng tại Nhật Bản vào thập niên 1950, và sau chuyến hải hành vừa qua đáng lẽ phải được đại tu bổ. Vì tình hình Việt Nam, việc đưa tàu vào ụ để sửa phải hoãn lại. Tàu chỉ được sửa những bộ phận cần thiết và lo chuẩn bị cho chuyến đi khác
Trường Xuân không có Cơ khí trưởng để thay thế người đã xin nghỉ việc. Lũy đã xin tuyển gấp mà chưa được. Lũy lo ngại có âm mưu phá hoại tàu khi được biết một vài người xuống sửa chữa tàu có những dáng điệu khả nghi. An ninh của tàu cũng không được bảo đảm. Ngày 28/4 Lũy ra thăm tàu, không thấy một thủy thủ nào, kể cả sĩ quan trực. Trong hoàn cảnh ấy Lũy cảm thấy mình bất lực, và hầu như tuyệt vọng, không biết làm cách nào để đưa tàu và gia đình cùng nhiều người khác ra khỏi Việt Nam.
Mãi đến bốn giờ chiều ngày 29/4, sau khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị oanh tạc và pháo kích, chủ tàu Trần Đình Trường mới chạy xe tới nhà Lũy, báo tin: “Thuyền trưởng được toàn quyền xử dụng tàu Trường Xuân để chở đồng bào tỵ nạn đi Phú Quốc. Xếp máy Lê Hồng Phi sẽ xuống tàu”, Trường trao cho Lũy giấy phép của Bộ Nội Vụ trưng dụng tàu Trường Xuân để chở người tỵ nạn.
Lúc này nhiều máy bay trực thăng Mỹ đã bay lượn trên bàu trời Sài Gòn để di tản người Mỹ và một số người Việt. Lũy và con trai chạy vội ra tàu. Sĩ quan phụ tá báo cáo xếp máy Lê Hồng Phi đã coi máy móc tàu và cho biết tàu có thể khởi hành hôm sau. Phi đang về nhà đón gia đình ra tàu. Lũy liền quyết định lấy phấn viết lên tấm bảng gỗ treo ở cầu tàu: “Trường Xuân rời Sài Gòn 11 giờ sáng ngày 30/4/75.” Lũy sau đó cũng vội vã về nhà, thông báo cho bà con, thân nhân và lối xóm ngày giờ Trường Xuân rời bến.
Sáng sớm hôm sau, Lũy trở lại tàu. Cả đêm 29 Lũy thức trắng đêm vì lo nghĩ cho chuyến đi, trong lúc Sài Gòn giới nghiêm 24 giờ đồng hồ, và Cộng quân bắt đầu xâm nhập thành phố. Gia đình, thân nhân, hàng xóm, khoảng 200 người, chen chúc nhau lên hai xe vận tải chạy theo sau. Hai xe vận tải bị cảnh sát thương khẩu chặn lại không cho vào. Lũy dơ giấy phép của Bộ Nội Vụ. Cảnh sát từ chối, nói gia đình ông sao đông thế. Một người trên xe liền đưa cảnh sát một phong bì dày cộm. Hàng rào kẽm gai được dẹp sang bên, và cổng được mở cho xe vào.
Nhiều toán người khác cũng hốt hoảng chạy tới, định vượt hàng rào kẽm gai, tràn vào thương cảng. Cảnh sát phải bắn súng thị oai để ngăn chặn. Giữa lúc hỗn độn và sợ sệt đó, sĩ quan vô tuyến điện của tàu Trường Xuân bị lạc vợ con. Không tìm thấy gia đình, anh quyết định ở lại. Mất người hên lạc vô tuyến, Lũy âu lo cho số phận Trường Xuân đi trên biển như người câm điếc. Mấy phút sau Lũy mừng rỡ khi gặp một vô tuyến điện viên của một tàu khác đang tìm đường chạy.
Trường Xuân lúc này đã có mấy trăm người trên tàu. Khi tin Sài Gòn đầu hàng loan đi, dân chúng ùa vào kho 5 Khánh Hội như nước vỡ bờ. Trong chốc lát, Trường Xuân đông nghẹt người.
Những người đến sau còn nói xe tăng cộng quân đã chiếm dinh Độc Lập. Trường Xuân lúc ấy vẫn nằm bất động tại bến.
Mãi đến 12 giờ rưỡi, Lũy mới cho lệnh khởi hành được. Tàu vừa từ từ tách khỏi bến, trục trặc máy móc lộ rõ ngay. Tay lái tàu không ăn theo hướng định lái. Cơ khí trưởng xem xét và khám phá thấy tay lái có nước ở trong, thay vì dầu. Tàu không còn cách nào khác là dùng tay lái phòng hờ để chạy gấp, tuy việc lái tàu phải khó khăn và phiền toái hơn. Một binh sĩ hải quân tình nguyện điều khiển tay lái phòng hờ theo lệnh truyền qua ống loa của thuyền trưởng. Loay hoay mãi đến 1 giờ rưỡi trưa tàu mới rời kho 5. Sau này có tin Trường Xuân vừa chạy qua khỏi kho 18 chừng năm phút, xe tăng cộng quân xông tới ủi xập cổng thương cảng và chiếm đóng toàn khu bến tàu Khánh Hội.
Ra đến Nhà Bè, Trường Xuân bị mấy ghe nhỏ đuổi theo để xin cho người lên tàu. Rồi phòng điện tín được thông báo tàu Việt Nam Thương Tín và tàu Tân Nam Việt bị phục kích ở gần khu Rừng Sát. Tin này làm Trường Xuân phải chuẩn bị để đương đầu.
Thuyền trưởng Lũy ngay sau khi thấy tàu bị đám đông tràn ngập, trong đó có nhiều người võ trang súng ống, đã cho lập ngay ban tham mưu của tàu, trong đó có một số sĩ quan quân đội. Trung Tá Lưu Bính Hảo, có cả một trung đội cảnh sát dã chiến võ trang đầy đủ đi theo, được cử làm trưởng ban an ninh. Những binh sĩ khác trên tàu cũng được điều động tham gia phòng bị. Trường Xuân may thay không bị phục kích.
Qua khỏi khu Rừng Sát, khoảng năm giờ chiều máy đèn tàu Trường Xuân ngừng chạy khi hệ thống làm nguội máy bị tê hệt. Điện mất, tay lái phòng hờ không điều khiển được. Đầu Lũy xáo động. Cố trấn tĩnh, Lũy cho tàu chạy chầm chậm để tính kế. Tàu không thể thả neo vì thiếu thủy thủ. Để tàu trôi, tàu có thể bị dạt vào bờ mắc cạn theo chiều dài của tàu thì nguy hiểm. Lũy cho tàu chạy chậm, rồi đâm nhẹ vào bờ. Với kiểu mắc cạn này, hầu hết thân tàu nổi trên sông, tàu sẽ được kéo ra dễ hơn.
Thuyền trưởng Lũy chạy vội xuống phòng máy bảo cơ khí trưởng Phi chuẩn bị hơi ép đầy đủ để cho máy chạy lùi rút ra khỏi bãi cạn. Phi thông báo máy đèn bị hư vì ống van hệ thống nước làm nguội bị khóa lại, một dấu hiệu phá hoại. Phi cũng cho hay không có đủ hơi ép để chạy máy chính.
“Cho chạy máy đèn để “sạc” bình hơi,” Lũy nói.
“Cũng không còn đủ hơi ép để chạy máy đèn,” Phi đáp. “Phải cần tới 16 kí lô áp suất. Đồng hồ chỉ còn ghi 12 kí lô thôi.”
Thanh niên được huy động để bơm hơi ép bằng tay. Họ cố bơm hơn 16 kí để có thể nổ máy được vài lần. Khi bơm tới 18 kí thì đầu van bơm bị gãy. Hơi ép xì mất, xuống còn 11 kí. Mang đầu van gãy đi hàn thì thấy giây hàn bị cắt, một dấu hiệu nữa cho thấy có mưu toan phá hoại. Một thợ máy chạy lục soát các nơi ở phòng máy, tìm thấy một đầu van cũ ở gần máy đèn. Việc bơm tay lại được tiếp tục.
Trong lúc tàu mắc cạn, nhiều người sợ Việt Cộng tới tấn công hoặc bắt giữ. Có người vội thủ tiêu giấy tờ trong ví. Người khác làm dấu đọc kinh, người niệm Phật.
Giữa tình cảnh lo âu, nơm nớp đó, mọi người cầu mong có tàu đi qua để cầu cứu. Niềm mong ước đó không phải đợi lâu. Một tàu nhỏ để kéo xà lan đang từ Vũng Tàu chạy đến. Trước những tiếng kêu cứu, vẫy gọi, tàu kéo vẫn tiếp tục chạy. Mấy loạt súng liên thanh bắn chặn, tàu kéo Song An mới sáp lại. Rồi sau có vài tàu nhỏ của hải quân, trương cờ trắng, cũng ở phía Vũng Tàu chạy về, đã ghé lại phụ giúp Song An kéo Trường Xuân ra khỏi chỗ cạn. Song An sau đấy bắt giây cáp lên mũi Trường Xuân, kéo ra biển. Thuyền trưởng Lũy ví Song An kéo Trường Xuân như “con cóc kéo con bò,” nhưng nhờ có thêm nước triều ròng, tàu được kéo đi dễ dàng.
Kéo đi ngon trớn, Song An không để ý lắm tới mặt nước. Khi nghe thuyền trường Lũy hô lớn “Lái hết sang mặt,” tài công Song An chưa kịp phản ứng thì đã nghe tiếng kêu răng rắc. Song An đã đâm gãy cọc dãy đăng bắt cá mà ngư phủ giăng mờ mờ trên biển gần Vũng Tàu. Lưới cá quấn vào lái và chân vịt, Song An nằm kẹt cứng ở đấy. Lúc đó vào khoảng nửa đêm.
Binh sĩ và thanh niên phải sang gỡ lưới và dùng cưa sắt để cưa cọc. Cả tiếng đồng hồ sau, Song An mới được giải thoát và tiếp tục kéo Trường Xuân đi. Khi gặp nước lớn, Song An kéo rất vất vả. Giây cáp bị đứt mấy lần nữa. Có lúc Trường Xuân bị kéo dạt gần sát Vũng Tàu, nhìn thấy rõ Bãi Trước vào lúc sáng sớm. Nhiều người hồi hộp sợ Việt Cộng cho ghe đuổi theo tàu. Ban an ninh trên tàu đã chuẩn bị tác chiến. Một giờ sau Trường Xuân đi xa khỏi Vũng Tàu, để ra biển khơi.
Không gặp Việt Cộng, Trường Xuân lại bị vài thuyền khác chở đầy người đuổi theo để xin lên. Có thuyền còn bắn súng chỉ thiên để áp đảo, không biết Trường Xuân được võ trang hùng hậu hơn nhiều. Thuyền này được lệnh vứt hết súng xuống biển trước khi được cho người lên.
Tới 10 giờ sáng ngày 1 tháng 5, máy chính của Trường Xuân được sửa chửa, nổ ròn rã. Thân tàu rung chuyển. Mọi người vỗ tay vui mừng. Song An chuẩn bị chia tay. Những người đi trên Trường Xuân hô hào nhau thu góp được hơn chín triệu bạc để tưởng thưởng cho Song An. Lúc Song An giã từ, gần chục người cũng bỏ Trường Xuân để trở về với Song An. Thuyền trưởng Lũy sau này được giới hàng hải cho tin tài công tàu Song An đã bị hạ sát trước khi về tới Sài Gòn, có lẽ vì số bạc tường thưởng trên.
Thoát được tới hải phận quốc tế, không còn sợ Việt Cộng đuổi bắt, Trường Xuân còn phải đối phó với nhiều cam go khác, khi gần 4.000 người chen chúc nhau trên tàu. Họ lại thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau và một số có võ khí. Để duy trì trật tự và phòng ngừa bạo động, lệnh tước khí giới được ban hành. Súng ống mang nộp cho ban an ninh được chất đầy phòng hải đồ và khóa lại.
Đói khát chật chội và mệt mỏi thể hiện rõ trên tàu. Trường Xuân, sau khi từ Tân Gia Ba trở về, đã được tiếp tế 180 tấn nước ngọt và 10 tạ gạo để dự trù cho thủy thủ đoàn trong chuyến hải hành ba bốn tháng tới. Thuyền trưởng Lũy nghĩ số gạo, nước đó có thể giúp những người trên tàu tạm cầm hơi trong chuyến đi ngắn ngủi này. Chính Lũy, sau cả ngày đêm lo cho tàu ra khỏi hải phận, cũng không được ăn uống gì. Bếp tàu báo cáo cơm nấu vừa chín, chưa ra khỏi bếp, đã bị nhiều người tới lấy ăn hết. Nước ngọt cũng bị cạn quá mau lẹ. Người già và trẻ em không có cơm ăn, nước uống trong hơn một ngày đã lộ rõ vẻ mệt mỏi. Vài cảnh dành dật nước uống đã xảy ra. Ban an ninh có lúc phải bắn súng thị uy.
Trong tình trạng khổ cực, căng thẳng đó, có người đã tuyệt vọng. Hai vụ tự tử bằng súng đã xảy ra vào chiều ngày 1 tháng 5, cách nhau clủ có 15 phút. Vụ tự tử cho thấy lệnh nạp khí giới đã không được thi hành triệt để. Một giờ sau hai vụ tự tử, có tiếng kêu: “Người rớt xuống biển!”
Lại tự tử, hay vô tình bị rớt?
Tàu tiếp tục chạy, hay quay lại vớt người? Thuyền trưởng lại phân vân, suy nghĩ. Quay lại vớt, nhỡ máy tàu hỏng thì sao? Liệu có tìm được nạn nhân? Gạn hỏi nhân chứng, biết có người rớt thật, Lũy quyết định quay tàu trở lại. Một số người tỏ vẻ bất bình, cho rằng tìm thấy người giữa biển rộng là việc làm tốn công và vô ích.
Mặt biển lúc ấy êm đềm, chỉ có sóng lăn tăn. Trời vào khoảng năm giờ chiều, hãy còn sáng. Tàu quay trở lại đường cũ chừng nửa giờ thì nạn nhân được phát hiện qua ống nhòm, và được vớt lên. Trong thư viết sau này cho thuyền trưởng Lũy, người được vớt là Vũ Văn Thụ cho hay anh đã bị một vài người xô đẩy xuống biển. Anh đã hoảng hốt chạy lên tàu để đi không mang theo vợ con, khi nghe Việt Cộng về. Lúc ra khơi, anh thấy hối tiếc và tỏ ý muốn quay về Việt Nam. Vài người ở gần nghe nói hền xô anh xuống biển.
Lại có tin lầm Việt Cộng trà trộn trên tàu và mưu toan phá hoại tàu, làm ban an ninh phải lục soát những chỗ khả nghi và theo dõi mấy người bị điềm chỉ.
Tối hôm đó tàu tiếp tục cuộc hành trình ì ạch về phía nam biển Nam Hải. Đến khoảng tám giờ tối, xếp máy Phi cho hay: “Nước vào phòng máy rất nhiều. Thuyền trưởng cho đổ bộ nơi nào gần nhất.”
Tin này làm thuyền trưởng giật mình. Nỗi lo tàu chìm làm Lũy biến sắc. Lũy bị mồ hôi vã ra như tắm khi đo hải đồ vị trí từ tàu tới địa điểm dự trù đến. Đoạn đường gần nhất cũng phải mất 30 giờ, vì tàu lúc ấy hãy còn loanh quanh vùng Côn Đảo. Lũy cố che dấu nỗi âu lo đang cấu xé tâm can.
Tàu chạy thêm nửa giờ nữa thì máy im bặt. Đèn phụt tắt. Tàu thả trôi trên mặt biển. Phòng máy làm việc dưới ánh đèn pin. Máy tắt vì bị nghẹt dầu. Thanh niên lại thay nhau xuống phòng máy tát nước. Đài chỉ huy tối om, không đọc được hải đồ để nghiên cứu lộ trình. Không điện, phòng điện tín cũng không hên lạc được với thế giới bên ngoài. Trường Xuân trải qua một đêm hãi hùng lo sợ. Lệnh giới nghiêm cũng được áp dụng trong đêm.
Sáng ra máy tàu được sửa và nổ lại. Máy bơm đù hoạt động hết sức cũng chỉ đủ giữ cho nước không lên cao trong phòng máy mà thôi. Điện tín cấp cứu được đánh đi trên băng tần quốc tế, báo tin Trường Xuân bị “nước tràn vào phòng máy, có cơ nguy bị chìm… Gần 4000 người Việt trốn chạy cộng sản đang bị đói khát. Nhiều con nít bị bệnh. Cần được tiếp cứu thượng khẩn.”
Điện tín đánh đi được 10 phút, Trường Xuân nhận được trả lời của tàu Clara Maersk. Hai tàu tiếp tục liên lạc với nhau. Tàu Đan Mạch cho biết có thể chở đi 1.500 đàn bà và trẻ con.
Tin tàu Đan Mạch sẽ tới nơi vào khoảng trưa làm mọi người trên tàu reo vang. Ai nấy ngong ngóng chờ đợi. Niềm vui đó chưa làm thuyền trường Lũy hết nhức nhối khi nghĩ chỉ có 1500 người được đưa đi. Còn những người khác thì sao?
Chờ tàu đến, mọi người dương mắt ngóng nhìn mặt biển. Một chấm đen xuất hiện, sau biến thành con tàu khổng lồ, gấp bảy tám lần tàu Trường Xuân. Khi tàu Clara Maersk đến gần, tiếng vỗ tay hoan hô vang dậy cả vùng biển. Thuyền trưởng Lũy sang gặp thuyền trường Anton Olsen của tàu Đan Mạch. Hai người nói chuyện, rồi Olsen đồng ý tiếp nhận tất cả 3628 người trên tàu Trường Xuân. Chuyến tàu chót của Trường Xuân kết thúc sau hơn 50 giờ hành trình.
Lên tàu Đan Mạch rồi, ban tham mưu Trường Xuân liền gửi điện tín kêu gọi thế giới tự do cứu giúp đoàn người vượt biển. Mấy giờ sau, lời cầu cứu được nữ hoàng Anh quốc đáp ứng và chính quyền Hương Cảng chấp thuận tiếp nhận đoàn người tỵ nạn.
Hồi tưởng lại 40 năm trước về chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân (1975 – 2015)
Phạm ngọc Lũy
Thuyền Trưởng Phạm Ngọc Lũy và phu nhân
Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần 3. Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân có cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô. Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân… Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo. Trong khi đó coi trên TV thấy tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống. Trường Xuân ghé bến San Fernando – Philippines khoảng năm 1973
Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng và xúc động mãnh liêt.
Tôi không phải là một sĩ quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng hải, có thể giúp được gì cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này ? Tôi rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn như lửa đốt…
Kho 5 Thương Cảng Sài Gòn ngày 30 tháng 4 – 1975
Tôi cố hồi tưởng và viết lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây là diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân. Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.
Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ sáng…Diễn tiến lịch trình của Trường Xuân như sau :
(1)Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số và đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.
(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thương ở đầu bất tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, Cơ khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị Cơ khí trưởng này thường phát biểu ý tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để di tản và đến giờ phút cuối cùng thì không dễ gì tìm được một người Cơ khí trưởng.
(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay vì nằm ụ cả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt và 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng…
(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng Cơ khí trưởng Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng Phi nhận việc.
(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu không gặp Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”
(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân và bà con lối xóm, ra thương cảng…
(7) Bình thường trước khi tàu khởi hành, sĩ quan phụ tá phải cho thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại tay lái xem có gì trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái vì bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những việc nhỏ… Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi… Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo…” Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính sĩ quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, vì nếu được biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.
(8) 9 giờ sáng 30/4/75, Sĩ quan Vô tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình… Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được… (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định cư ở vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.) Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc. Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.)
(9) Khoảng 12 giờ trưa 30/4/75 , dân cũng như quân ào ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin tàu có thể khởi hành và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng. Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi… Cơ khí trưởng sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được. Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái phòng hờ, mà bây giờ lại không có lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều khiển tay lái phụ…
(10) Khoảng 13 giờ, (1 giờ chiều 30 tháng tư-75) nước bắt đầu lớn – thủy triều lên. Tôi cho mở giây ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông, hướng mũi ra khơi… Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ thế mà đi trên sông.
(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét lên qua ống loa: « Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn! » Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn. Đầu óc rối như tơ vò! Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và sẽ không dùng máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông vì khi nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được. Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất là không còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn chạy mới có thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn… Đây có thể là một hành động vô ý thức hay là phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét xử và điều tra mà phải làm sao cứu vãn được con tàu.
M/S Trường Xuân
Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình là cùng…” Tự nhủ như thế để tâm trí không bị rối loạn vì nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này là mất hết. Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An phải quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.
(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông.
(13) Vừa tới hải phận quốc tế, (ngày 1 tháng 5-75) lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng. Tàu khởi hành ra khơi mà tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và nhiều người có thể bị thương hay bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.
(14) Một người rớt xuống biển. Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mà mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ và nghĩ đến những người đồng cảnh ngộ với mình.
Tàu Clara Maersk và Trường Xuân
M/S Clara Maersk đến gần M/S Trường Xuân
(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara Maersk (Đan Mạch) đã đến cứu và đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.
(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ huy. Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk. Tôi đã đi nhiều nơi và gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.
(17) Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy Cơ khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.
(18)Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự và một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn. (19) 40 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn tiến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu và cùng đến được bến Tự Do.
vnhanghaiphap :Sau đây là một vidéo về tàu Clara Maersk ghé bến Hongkong ngày 4 tháng Năm 1975 với những người di tản và cuộc phỏng vấn với Thuyền trưởng Anton M.Olsen https://vimeo.com/48687397
Giao Chỉ – San Jose (VietTribune)Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng : Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light) * * * Có con tầu nằm trên bến đỗ… Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước. Thuyền Trưởng Phạm Ngọc Lũy
Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải. Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75. Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào. Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.
Saigon hấp hối: Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự. Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi. Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng. Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ: Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân. Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975. Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010. Trở lại với Trường Xuân: Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề. Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân. Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó. Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào. Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly. Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong. Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia. Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu: “Có người rớt xuống biển.” Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi. Tại sao? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người. Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu. Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.” Ra đời giữa trời biển mênh mông: Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi. Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân! Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám ngưới đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp. Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam. Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas. Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu. Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó. Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do. Một thế hệ tương lai: Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó. Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống xót, một Trường Xuân Baby.”
35 năm nhìn lại: Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu. Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light. Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Chuyến đi của Trường Xuân.
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh.Trên con tàu vô định
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống. Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua… Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại…
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi…
VINH DANH SĨ QUAN HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN PHỤC VỤ HẠM ĐỘI HẢI QUÂN VIỆT NAM
Lê Châu An Thuận
Mỗi năm gần Tết, Quân Chủng Hải Quân của chúng ta ở trong nước, trước năm 1975, và sau này ở hải ngoại đều có buổi lễ vinh danh các chiến hữu Hải Quân đã hy sinh ở trận hải chiến Hoàng Sa. Các chiến hữu nầy xứng đáng được gọi là Anh hùng Hải Quân vì các chiến hữu đã xả thân để bảo vệ phần lãnh hải của Tổ Quốc mà tiền nhân đã dày công xây dựng và bảo tồn từ bao thế kỷ. Trên danh sách các Anh Hùng Hải Quân tham dự trận Hoàng Sa mà chúng ta hãnh diện vinh danh hàng năm, tôi nhận thấy có tên anh HUỲNH DUY THẠCH, một cựu sinh viên Trường Việt Nam Hàng Hải, một cựu sĩ quan Hàng hải Thương thuyền Việt Nam.
ANH HUỲNH DUY THẠCH
HQ Trung Úy CK/HHTT
Cơ Khí Trưởng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo, HQ. 10
Anh Huỳnh Duy Thạch, sinh năm 1943, quê quán Ðà Lạt, nhà gần khu vực Domaine De Marie, cựu học sinh trường “École D’ Adran” Ðà Lạt. Rời Ðà Lạt để về Saigon, vì trúng tuyển vào trường Việt Nam Hàng Hải thuộc Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ. Anh ở nhà người chị ruột sinh sống ở Thủ Thiêm, Saigon. Tốt nghiệp khóa 13 Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền, ngành Cơ Khí, niên khóa 1963-1965. Ra trường anh làm việc trên các thương thuyền Việt Nam trong một thời gian, sau đó động viên vào Trường Võ Bị Thủ Ðức, khóa 25, sau khi học xong giai đoạn I ở Quân Trường Thủ Ðức, anh được chuyển sang Quân Chủng Hải Quân để học nốt giai đoạn II. Tốt nghiệp Thủ Ðức, anh được chuyển hẳn sang Hải Quân với cấp bực HQ Chuẩn Úy CK/HHTTvà lần lượt phục vụ trên các chiến hạm của Hạm Ðội VNCH, anh cũng có thời gian làm việc tại đơn vị bờ với chức vụ Sĩ Quan Công tác tại Hải Quân Công Xưởng.
Chức vụ sau cùng của anh ở Hải Quân là HQ Trung Úy CK/HHTT, Cơ Khí Trưởng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10.
Trước chuyến công tác định mệnh của HQ. 10, chiến hạm bị hư bơm cao áp của máy chính tả, chiến hữu Huỳnh Duy Thạch và ban cơ khí của chiến hạm cùng lo sửa chữa với các bác công nhân của Xưởng Ðộng Cơ của Hải Quân Công Xưởng do Bác Bửu, Trưởng toán Ðại Ðộng Cơ của HQCX trực tiếp phụ trách sửa chữa.
Chiến hữu Huỳnh Duy Thạch ít nói, giọng trầm, người ngâm ngâm đen, ăn mặc quân phục lúc nào cũng tươm tất, đối xử tốt với bạn bè, kính trên nhường dưới, chiến hữu ưa thích hút thuốc Bastos, và hút quá nhiều, và còn thích uống café đen đậm, anh em khuyên bớt thuốc lá thì lúc nào cũng hứa nhưng chỉ hứa để làm vui lòng anh em mà thôi chớ không bớt chút nào.
Trước chuyến công tác cuối cùng, chiến hữu Huỳnh Duy Thạch đã nhận được lịnh thuyên chuyển để về phục vụ cho Hàng Hải Thương Thuyền. HQ. Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, Hạm Trưởng HQ.10 muốn cho anh được thuyên chuyển trước khi tàu rời Đà Nẳng đi Hoàng Sa, và bàn giao lại cho HQ. Trung Úy CK Phạm Văn Thi, anh có thể chọn trở lại cuộc sống dân sự thoải mái và sung túc, nếu rời chiến hạm HQ.10 ngay lúc đó, nhưng anh đã chọn “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm” và ở lại với đồng đội trong lúc dầu sôi lửa bỏng.
Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10 đã cùng với các chiến hạm Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ. 5, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ. 16, Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ 4 tham dự trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974 để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên quần đảo Hoàng Sa đang bị quân Trung Cộng lấn chiếm. Như chúng ta đã biết Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10 đã chẳng may bị trúng đạn của chiếc Kronstad 271 của Hải Quân Trung Cộng và bị chìm. Chiến hữu Huỳnh Duy Thạch là một trong những chiến sĩ hy sinh vì đạn thù, máu của anh cùng máu của đồng đội đã đổ để cố bảo vệ từng tấc giang sơn của Tổ Quốc Việt Nam.
Sau 30 năm được coi như một chiến sĩ vô danh, nay anh đã được phục hồi và tôn vinh là Anh Hùng, Liệt Sĩ Hoàng Sa.
Sau đây là cái nhìn của một trí thức trong nước về trận hải chiến Hoàng Sa, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, đã viết:”Năm 1973 [đúng ra là năm 1974] thình lình Trung Quốc đem quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chống trả quyết liệt, gây cho địch quân những tổn thất về người cũng như chiến hạm nặng nề gấp mấy lần mình. Nhưng, vì lực luợng Hải quân quá mỏng so với Trung Quốc, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đành rút bỏ!”.
Dẫu thế nào đi nữa, tôi đề nghị phải xây một đài kỷ niệm để vinh danh những chiến sỹ đã hy sinh trong trận chiến đó.”
Chính Phủ, Quân Đội và Hải Quân VNCH thì xả thân để bảo vệ tổ quốc, trong khi tập đoàn lãnh đạo CSVN, bất chấp sự phản đối của đồng bào trong và ngoài nước, đã nhục nhã ký Hiệp định Biên Giới và Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ dâng đất đai và lãnh hải cho Trung Cộng.