Souvenirs, souvenirs…
Catégorie : Tài liệu
Khóa 21
Khóa 21 và gia đình
Souvenirs, souvenirs…
Khóa 19
Souvenirs, souvenirs…
Khóa 18
|
Khóa 17
|
Souvenirs, souvenirs…
Khóa 16
|
Souvenirs, souvenirs…
Danh sách những khóa Sĩ Quan HHTT
Vụ cướp tàu Sông Bé 12
Vụ cướp tàu Sông Bé 12
Phan Quân T.N
Đặc san HH: Đây là bài báo được xuất bản trên báo Việt Luận số 1910 ra ngày 17 tháng 9 năm 2004 tại Úc và được đăng lại trên Đặc san HH 2015 để tưởng nhớ đến Niên trưởng Trần phước Hậu, Sĩ Quan Hàng Hải ban Thuyền Trưởng khóa 17 đã qua đời năm 2004 tại Úc, đã vượt biển tìm tự do với gần 200 người cùng ra đi với ông trên con tàu Sông Bé 12.
LTS Việt Luận: Tuần vừa qua, bạn đọc Úc Châu đã thấy trên báo Việt Luận cũng như trên hầu hết các cơ quan truyền thông Việt ngữ khác, lời cáo phó cũng như phân ưu về một nhà Hàng Hải Việt Nam qua đời. Đó là ông Trần phước Hậu.
Hơn 20 năm trước, nói đến Trần phước Hậu ở NSW là các đoàn thể chính trị hầu như đều biết và gần gũi ông rất nhiều. Ông là một người có tiếng tăm vang lừng vì là người Thuyền trưởng đã cướp tàu Sông Bé 12, trói gọn 3 tên cộng sản trên tàu, đem gần 200 đồng hương ra đi tìm tự do. Ông cũng lại là một trong những người điều hành tờ Việt Luận trong thời kỳ phôi thai như là một trong các cơ quan ngôn luận đầu tiên của người Việt tại Úc Châu.
Trước sự ra đi của một người tiền nhiệm, ban biên tập Việt Luận cảm thấy nên có đôi lời tường thuật về dĩ vãng oai hùng của người quá cố qua vụ cướp tàu Sông Bé 12 để ra đi từ Sài Gòn và đến thẳng Darwin vào cuối năm 1977.
Bài viết dưới đây là của ký giả kỳ cựu Phan Quân T.N, một người năm nay 90 tuổi và từng cộng tác với Ban Biên Tập của thời anh Trần phước Hậu làm chủ nhiệm. Bài viết nầy ghi lại những tâm tình mà ký giả Phan Quân có dịp trao đổi với Thuyền trưởng Trần phước Hậu lúc còn sinh tiền, cũng như các Thuyền phó Lữ ngọc Sơn và Nguyễn văn Ai.
Sài Gòn 1977: Cột đèn biết đi, nó cũng… ra đi !
Người miền Nam từ xưa vốn chân thật, nghe cộng sản tuyên truyền với thủ đoạn o bế: « Dân miền Nam yêu nước chờ đón ngày thống nhất, nên hững hờ với cuộc di tản của quân dân cán chính của chính phủ VNCH ».
Nhưng khi mà cái chính phủ bù nhìn « Lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN » bị cộng sản miền Bắc âm thầm giải tán, người miền Nam mới rõ bộ mặt thật của « Cáo Hồ », khi sanh tiền y đã xảo trá tạo dựng những cơ sở, đặt người miền Nam điều hành và khi thành công thì cho… rã đám !
Từ năm 1977, mặt nạ cộng sản đã được người dân miền Nam kéo lột xuống. Những tên « nón cối » từ miền Bắc kéo vào đã tàn nhẫn quy chụp « ai ở miền Nam cũng đều là Ngụy quân ». Dân miền Nam phẩn uất, phẩn nộ và một phong trào ra đi, công khai nhộn nhịp từ miền nam Bến Hải xuống đến mũi Cà Mau. Họ ra đi, không phải theo Mỹ hay theo « Ngụy quân, Ngụy quyền » mà họ ra đi tìm tự do cho chính họ. Đã có những người lao động thốt ra: « Cột đèn nếu đi được, nó cũng… ra đi ».
Vốn là một chuyên viên về Hàng Hải thương thuyền, ông Trần phước Hậu, từng là Thuyền trưởng cho nhiều công ty tư nhân trong ngành. Hầu như các hải cảng trong vùng Đông Nam Á và ngược lên miền Bắc đều có những con tàu do ông Hậu điều khiển đã ghé vào. Tuy không nằm trong guồng máy chính quyền miền Nam nhưng ông nhận thấy Cộng sản miền Bắc đối xử với bộ máy lãnh đạo miền Nam quá tàn tệ, vắt chanh bỏ vỏ. Ông cảm thấy một ngày nào đó, trong thân phận bé nhỏ của mình ở công ty quốc doanh, sẽ đến lượt mình chịu chung số phận dưới bàn tay của đảng và nhà nước.
Một đêm tâm tình
Trong một buổi tâm tình, ông Hậu nói:
– Ngày đó, trong đầu tôi có ý nghĩ ra đi, nhưng « một cây làm chẵng nên non », phải có bạn đồng hành ruột thịt. Ai bây giờ ? Người nào có thể tín cẩn được ? Lỡ gặp người sơ hở, đổ bể ra thì tù tội ngay lập tức.
Sau nhiều ngày tháng sau đó, ông Hậu đã thăm dò, thử thách và dĩ nhiên là chỉ tiếp xúc với các đồng nghiệp hải hành, nhất là những chuyên viên nắm các phần vụ quan trọng, từng ra khơi nhiều chuyến… Người gần ông nhất lúc đó là anh Lữ ngọc Sơn, người ra trường sau ông 2 năm và từng nắm chức vụ thuyền phó. Anh Sơn cũng vừa thổ lộ với ông là trong chuyến hải hành đến cảng Hải Phòng, anh đã nhìn thấy bộ mặt thật của xã hội miền Bắc. Anh kể là, khi nhìn thấy thủy thủ đoàn của thương thuyền miền Nam có y trang sang trọng, tàu bè bóng loáng đẹp đẻ, những anh em công nhân bến cảng, nhất là những anh em « cửu vạn » đã thì thầm với anh: « Chúng tôi tưởng các anh ra giải phóng cho chúng tôi mới phải chứ ».
Anh Sơn nhìn lại những người phu khuân vác áo quần tả tơi, rách rưới. Qua hỏi thăm thì anh được biết là họ kiếm đủ cơm ăn cho vợ con là may lắm rồi, nói gì đến áo quần lành lặn ! Hồi già Hồ còn sống, ông ta luôn luôn nhắc nhở dân miền Bắc mau sớm « giải phóng miền Nam », cứu dân Nam qua cảnh đói rách, kiềm kẹp của Mỹ Ngụy !
Sau khi tìm được « Tri kỷ, Tri Bỉ », ông Hậu trao cho anh Sơn kiếm những bạn « đồng thuyền ». Người thứ ba được liên kết cũng là một đồng nghiệp, anh Nguyễn văn Ai, một người nhu mì, kín đáo, hiện đang sống tại Úc. Xưa Lưu-Quan-Trương đào viên kết nghĩa, nay thì Trần-Lữ-Nguyễn « hải hành kết nghĩa », quyết tâm vào một ngày đẹp trời nào đó phải đến được bến bờ Tự Do !
Gần ngày chót, ngày khởi sự ra khơi, cả ba lại có thêm một « đồng chí » ruột thịt là anh Nguyễn phú Thiệu, người đáng lẽ nắm phần vụ cơ khí của tàu Trường Xuân, nhưng tình nguyện tiếp sức trong chuyến đi nầy.
Ngày ra khơi
Dưới đây là lời tường thuật của anh Lữ ngọc Sơn, người có thể nói là tham mưu trưởng, cánh tay mặt của Thuyền trưởng Trần phước Hậu:
– …Tôi chịu trách nhiệm với anh Hậu phần « rỉ tai » những anh em thuyền viên (équipage) gồm trên 20 người. Cái khó và điều lo ngại nhất của tôi cũng như anh Hậu là lỡ trong anh em vì « tình trạng gia đình », cha mẹ già ngại sóng gió hoặc con thơ sợ biển cả hải hùng, hay số đông bạn trẻ chưa lập gia đình, đang có người yêu… Cảnh ngộ mọi người khác nhau, phải thảo luận riêng rẽ. Bên cạnh đó, nếu không kín đáo bảo mật, rất dễ bị lộ. Thời điểm đó, tôi và anh Hậu sút đến 5,7 ký lô vì lo ngại !
Chợt nhớ lại người xưa có câu: « Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên ». Ôi thôi, sao đúng thế ! Chắc có Trời thương nên mọi người đúng ngày, đúng giờ đã đến « điểm hẹn » vào đêm tối trời ngày 7 tháng 11 năm 1977, ngay bải sau Vũng Tàu. Tuy có một số người lỡ hẹn, nhưng rồi tàu cũng ra khơi xuông xẻ. Trừ những anh em thuyền viên trẻ chưa lập gia đình, nói chung các bạn có gia đình đều ra đi khá đầy đủ.
Cho mấy chú cộng sản… vô rọ !
Trở lại vụ ra khơi. Khi ấy tàu Sông Bé 12 rời Kho 5 Khánh Hội trực chỉ Vũng Tàu với nhiệm vụ có thể ra Trung đón hàng từ Cao nguyên xuống Nha Trang, Cam Ranh hoặc cửa Phan Rí.
Vừa ra khỏi Nhà Bè, trên dòng sông Lòng Tảo vào khoảng 1 giờ trua, nhà bếp bưng lên một bữa ăn khá linh đình, có các món nhậu và một vò rượu nếp than thịnh soạn. Ông Hậu lên tiếng mời các anh em điều hành, thuyền phó v,v… ngồi vài bàn nhậu. Tổng cộng có khoảng 7,8 người. Sau đó 2,3 người « trong tổ chức » tự cáo biệt ra điều hành tàu, còn lại ông Thuyền trưởng và 3 cán bộ cộng sản, những người sẽ là vật « tế thần » của vụ cướp tàu.
Hai anh Thuyền phó Lữ ngọc Sơn và Nguyễn văn Ai cho biết:
– Chúng tôi không có ý hại họ, trừ trường hợp họ chống cự và nổ súng trước…
Ông Nguyễn văn Ai tiếp:
– Họ đã bị chúng tôi « bỏ thuốc ngủ » vào rượu nếp than, lại được « Đại ca Hậu » cụng ly thân thiết, hết ly nầy đến ly khác nên các chú « bất tỉnh » luôn. Khi các chú nầy về chầu Tuy lý Vương, anh em chúng tôi chẳng còn khó nhọc cho lắm. Thừng và dây kẽm được dùng để trói gô các chú lại. Để cho chắc ăn, chúng tôi lại nhồi vô miệng các chú vải vụn, vòng thêm một đường dây sắt, cột miệng các chú. Nói chung, cả ba chú bị trói cả mồm miệng chân tay, khi tỉnh dậy cũng không cựa quậy gì được. Chúng tôi sau đó còn thay phiên nhau canh gác 24/24 với súng ống sẵn sàng nổ.
Điều mừng là khi họ tỉnh giấc, biết bị « gài bẫy » nhưng vì lo sợ cho tính mạng nên không có ý chống cự. Thuyền trưởng Trần phước Hậu ôn tồn nói cho họ biết rằng, vì họ là người của đảng và nhà nước, nên các anh em buộc phải có hành động này. Ông Hậu còn « tâm lý chiến » khi nói rằng, nếu trong ba người ai thích quay về hàng ngũ với ông và các anh em thì khi đến bến bờ Tự Do, ông sẽ đứng ra bảo đảm cho họ trước nhà chức trách địa phương.
Cần biết trong 3 cán bộ đó, chỉ có một là đảng viên cộng sản, được gửi đến tàu Sông Bé 12 và nắm phần quản trị. Tay nầy không có chuyên môn nào, riêng hai tên kia thì có chuyên môn và lại thuộc diện « con ông cháu cha ». Khi khám phòng của tay chuyên viên radio thì tìm thấy một khẩu K54 và hai cây CKC. Những súng này liền được trao cho các anh em để canh gác tù binh.
Ban điều hành cũng phập phồng lo ngại là khi tàu chưa ra khỏi cửa Cần Giờ, lỡ gặp tàu tuần duyên thì giải quyết sao đây ? Thuyền trưởng Hậu trả lời thật nhanh:
– Nếu họ lên tàu, chia quân « đánh úp » tàu họ rồi bắt tàu họ theo ra hải phận…
Anh Hậu thở dài và chậm rãi nói tiếp:
– Nếu như thế thì chỉ có 20 anh em chúng ta ra đi được, còn những người chậm đến điểm hẹn, số phận đành chịu hẩm hiu…
Nhưng nhờ Trời, không có chuyện đó xảy ra…
Về vấn đề lương thực thì các thuyền viên và những người tháp tùng đều tự lo, tự mang. Một số lương thực thặng dư cho thủy thủ đoàn đã được mang lên mà 3 tay cán bộ không hề hay biết.
Cập bến Pulau Tanga
Lênh đênh trên biển Nam Hải 3 ngày đêm, tàu Sông Bé 12 ghé đảo Pulau Tanga. Do quyết định trước khi ra đi là chỉ chọn xứ Úc Đại Lợi để xin được tị nạn chính trị nên Thuyền trưởng Trần phước Hậu không có ý kéo dài thời gian phiêu lưu. Nhận thấy đảo nầy quá nghèo mà phương tiện tiếp tế dầu mở ít có hy vọng, ông đề nghị với anh em rút ván ra khơi.
Nhưng một số người Việt trên đảo cho biết có một ông Giáo sư từng tham gia trong chính phủ Nguyễn Khánh với chức vụ Thứ trưởng và nay làm chức đại diện cho người tị nạn. Ông Trần phước Hậu liền đến thăm. Giáo sư Nguyễn hoàng Cương khuyên ông Hậu nên tiếp tục cuộc hành trình. Khi nghe tin con tàu sẽ trực chỉ nước Úc, 8 thanh niên xin được tháp tùng.
Giáo sư Cương, sau khi được định cư ở Úc cũng có dịp chung sống với người viết dưới mái nhà Việt Luận. Nhưng tờ báo lúc ấy không còn thuộc sự quản nhiệm của ông Trần phước Hậu mà dã qua tay ông Gia Du.
Bến Tự Do thứ 2
Nhắc lại những ngày ghé hải cảng Surabaya thuộc Nam Dương, ông Hậu đã ca tụng cách đối xử với nhóm tị nạn Sông Bé của nhà đương cuộc địa phương. Ngoài việc tiếp tế lương thực, dầu nhớt, nhà chức trách địa phương có ý đề nghị lên chính phủ Nam Dương tặng thưởng cho ban chỉ huy tàu Sông Bé 12 huy chương cao quý Anh Dũng Bội Tinh.
Sở dĩ có chuyện nầy vì trước đó ít năm, cộng sản Trung Quốc lợi dụng Hoa kiều sinh sống tại Nam Dương làm bàn đạp móc nối với đảng cộng sản Nam Dương trong mưu đồ nhuộm đỏ xứ nầy và sau đó là toàn vùng Đông Nam Á. Chính phủ Nam Dương tận diệt được họa cộng sản nên khi nghe một con tàu chống cộng từ Việt Nam ra đi, chính quyền Nam Dương rất tán đồng và ủng hộ.
Nóng lòng tới bến bờ tự do thứ thiệt là Úc Đại Lợi, ông Trần phước Hậu đã ngỏ lời cám ơn chính phủ cũng như người dân Nam Dương, sao đó nhổ neo trực chỉ xứ Kangaroo. Vì lo ngại là vùng biển từ Nam Dương đến Bắc Úc có nhiều bãi đá ngầm nên chính phủ Nam Dương đã điện báo cho chính phủ Úc biết là có một con tàu tị nạn Việt Nam đang trển đường sang tới.
Ba ngày sau, khi vào hải phận Úc, trên trời máy bay gầm gừ, trực thăng lượn sát, chung quanh thì tuần dương hạm, thủy phi cơ vây quanh chiếc tàu Sông Bé 12. Mọi người nhốn nháo khi được một tuần dương hạm ra lịnh: « Hãy theo tôi để tránh đá ngầm ».
Thì ra hai chính phủ Nam Dương và Úc đã thảo luận để đón chiếc tàu và sẵn sàng mở cửa cho họ tị nạn.
Chiếc tàu Hải Quân đã hướng dẫn cho chiếc tàu Sông Bé vào bến Darwin.
Đến Darwin, suốt nhiều ngày sau đó, ông Trần phước Hậu và ban điều hành đều lo ngại là hành động « cướp tàu » của mình rất có thể bị nhà cầm quyền CSVN đòi hỏi chính phủ Úc phải cho dẫn độ về nước để xét xử. Nhưng tại quốc hội liên bang, cả hai đảng Lao Động và Tự Do đều đồng ý là vì tình nhân đạo, nước Úc tiếp nhận tất cả số thuyền nhân trên tàu Sông Bé 12, gồm 181 người.
Sau đó chính phủ Úc đã trao lại chiếc tàu Sông Bé 12 cho nhà cầm quyền CSVN. Một toán cán bộ hải hành từ Hải Phòng đáp máy bay sang Úc để đưa con tàu về lại Sài Gòn. Vì đã có tì vết nên nhà cầm quyền liền đổi tên chiếc tàu, không còn dùng tên Sông Bé 12 nữa.
Riêng 3 tay cán bộ cộng sản cũng được đưa về nước. Nghe đâu tay đảng viên cốt cán đã bị đi học tập một thời gian khá dài !
Trên 20 năm trước, ngày còn chủ trương tờ Việt Luận với các bạn Lê văn Sanh, Trương minh Hoàng, Lê Quang, Gia Du, Lưu Dân, Hoàng Hải Vân… ông Trần phước Hậu luôn luôn hết sức khiêm nhượng mỗi khi có những buổi họp quan trọng. Ông thường nói:
– Nghề làm báo không phải là nghề của tôi. Mỗi đóng góp của quí anh giúp tôi có thêm kinh nghiệm để giữ vững tờ báo…
Mười năm qua ông Hậu đã rời hẳn xã hội doanh thương, ẩn mình tại gia để tu niệm. Ông qua đời trong im lặng nhưng tiếng tăm của Người Hùng Tàu Sông Bé 12 vẫn hiện hữu trong lòng lịch sữ tị nạn Úc Châu, nhất là gần 200 thuyền nhân đã được ông dìu dắt đến bờ tự do Úc Châu. Những người đó chắc không bao giờ quên cái tên Trần Phước Hậu !
Thương thuyền VNTT 1
Thương Thuyền VIỆT NAM THƯƠNG TÍN I: Nhớ Lại 40 Năm trước
Trần-Hậu-Khánh
Cựu Sĩ Quan Cơ Khí – VNTT1
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, thương thuyền Việt Nam Thương Tín 1 đang cập bến Sài Gòn, sau khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương văn Minh, đã gấp rút rời kho 5 Khánh Hội, phải kéo neo và chặt đứt dây cột tàu vào lúc 10:30 sáng, mang theo 750 người tị nạn bất đắc dĩ, dưới sự điều khiển của một thủy thủ đoàn chỉ có 8 người thay vì 45 trong tình trạng tình thường. Lúc đó, tôi là một Sĩ Quan Cơ Khí cùng có nhiệm vụ đưa con tàu ra khỏi sông Sài Gòn và cũng trong cùng số phận với những người tị nạn trên tàu.

Sau gần 40 năm, VNTT1 không còn nữa, những người thủy thủ năm xưa cũng sống phân tán đó đây, người ở hải ngoại, kẻ ở Việt Nam, một số về hưu ở tuổi xế chiều và một số đã qua đời. Số 750 hành khách của ngày 30/4/1975 cũng phân tán khắp nơi trên thế giới mà tôi không có dịp tiếp xúc, một số khác tình nguyện trở về Việt Nam với con tàu từ đảo Guam vào tháng 10 năm 1975 vì hoàn cảnh ly tan của gia đình lúc bấy giờ. Người viết vì mãi lo đời sống trên quê hương thứ hai trong suốt 40 năm qua nên không có dịp tìm kiếm hay ghi lại những tin tức liên quan đến VNTT1 và mãi cho đến hôm nay, gần đến Tết năm 2015, mới có dịp gởi đến quí vị những dữ kiện mà tôi được biết về con tàu nầy 40 năm về trước.
M/S Việt Nam Thương Tín 1
Việt Nam Thương Tín 1, chiếc tàu viển dương đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa được mua lại năm 1968, là sở hửu của Công Ty Quốc Doanh Việt Nam Hàng Hải (Vietnam Marine Lines Co, Inc), chi nhánh của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, khởi hành từ Marseille, chạy ngang qua Tunisia, Marocco, Cap de Bonne Espérence và Malaysia trước khi về đến Sài Gòn. Thủy thủ đoàn lúc đó gồm Thuyền Trưởng Hồ Đắc Tâm (đang là Hoa tiêu sông Sài Gòn), Thuyền Phó Burel (Pháp), Sĩ Quan 1 Võ Kiết Triệu, Sĩ Quan 2 Dương Tấn Kim Sanh, Cơ Khí Trưởng Fabreguettes (Pháp), Cơ Khí Phó Nguyễn Văn Tươi, Cơ Khí 3 Phùng Văn Gạt, Cơ Khí 4 Nguyễn ngọc Chấn.
Công Ty Việt Nam Hàng Hải tọa lạc ở số 16-22 đường Tôn thất Đạm, Sài Gòn, Tổng Giám Đốc là Ông Dương Liên, Giám Đốc Kỷ Thuật là Ông Phùng Lương Ngọc và cũng là Giám Đốc Trường Việt Nam Hàng Hải, Giám Đốc Thương Mại là Ông Lê Minh Đức và cũng là Giáo Sư Trường Việt Nam Hàng Hải.
Tàu VNTT1 được đóng bởi Công Ty Fincantieri vào năm 1956 tại Ý, dài 148m, rộng 19m, vận tốc 14 hải lý, trọng tải 10965 tấn. Tàu được trang bị với 1 chân vịt (hélice), 1 máy chính 2 thì FIAT 757 (moteur principal à 2 temps), 3 máy phát điện (générateurs électriques DC). Máy chính gồm 7 cylindres, đường kính rộng 0.75m, di chuyển (course) của piston 1.3m, có công suất tổng cộng khoảng 5500CV.
Hải trình thường xuyên của VNTT1 khởi hành từ Sài Gòn đến Phi Luật Tân và ghé qua những hải cảng: Manila, Ilo Ilo, Pulau Pandan, Tolong, San Fernando để lấy hàng (charge) đường xuất cảng sang Hoa Kỳ và từ Hoa Kỳ, VNTT1 thường ghé qua những bến như New York, Baltimore, Norfolk, Jacksonville, New Orleans, Galveston, Corpus-Christy… để nhận hàng như gạo, lúa mì, bắp chở về Việt Nam. Những chuyến hải hành như thế có thể kéo dài đến từ 4 đến 4.5 tháng mới trở lại Sài Gòn. Đặc biệt, có một chuyến dài hơn sáu tháng từ 25 Juin 1971 đến Janvier 1972 vì công nhân cảng ở Mỹ đình công, tàu phải neo ở New Orleans trên sông Mississippi 45 ngày. Với một thời gian dài như thế ở New Orleans, không một thủy thủ nào mà không biết đến con đường nổi tiếng về đêm « Bourbon » lúc ấy, con đường tấp nập phố xá « Canal » và cây cầu dài nhất thế giới « Pont Chartrain ».
Ngoài những chuyến tàu đến Phi Luật Tân và Hoa Kỳ, VNTT1 cũng đã có lần ghé những cảng miền Trung như Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng để bốc hàng (decharge) gạo chở từ Sài Gòn (1971). Tháng Hai 1971, sau khi bốc hàng ở Đà Nẵng, tàu rời bến đi Hongkong vào ụ để bảo trì trong thời gian khoảng một tháng.
Chuyến hải hành cuối cùng của VNTT1 khởi hành từ Sài Gòn ngày 22 tháng Hai 1975 đi Phi Luật Tân để chở đường đến Osaka và Hakata (Nhật). Từ Hakata, theo dự định, tàu sẽ chạy xuống Úc để lấy sữa bột và bốc hàng ở Peru. Trên đường xuống Úc, Thuyền Trưởng Vỏ Kiết Triệu xin cho VNTT1 trở về Việt Nam vì tình hình sôi động ở miền Trung và cũng mong thủy thủ đoàn có dịp về đoàn tụ với gia đình trong lúc dao động nầy. Mãi đến 2 ngày sau khi được yêu cầu, vào lúc chuẩn bị đón hoa tiêu để dẫn vào cảng Sydney, VNTT1 nhận được chỉ thị từ công ty phải trở về Sài Gòn gấp, lúc đó là ngày 10 tháng Tư 1975 ! Ngày 17 tháng Tư 1975 VNTT1 về đến Sài Gòn, neo trên sông Sài Gòn và cột vào hai phao nổi bên ngoài kho 5 và cảng Nhà Rồng.
Sinh hoạt trên tàu Việt Nam Thương Tín 1
Tôi được nhận làm Sĩ Quan Học Viên Cơ Khí (Élève Officier Mécanicien) từ ngày 1 tháng Giêng 1971, trước bạn cùng khóa Bùi Hửu Hoàng (Pont 18) vài tháng (Mars 1971). Là những SQ Học Viên (Élève Officier) đầu tiên trên một thương thuyền viển dương, hai chúng tôi chân ướt, chân ráo, bở ngở trong lối làm việc theo « régime français » nên thấy gì cũng mới, cũng lạ !
Thủy thủ đoàn gồm từ 42 đến 45 người, 14 Sĩ quan gồm Thuyền Trưởng, Cơ Khí Trưởng, Sĩ Quan Boong và Máy, SQ Vô Tuyến và 2 SQ Học Viên. Thủy thủ gồm có Cai Pont và Máy 1 và 2, Thợ Điện 1 và 2, Timonier, Matelot, người giữ kho, Thợ Mộc, Chấm dầu, Phụ dịch máy, Đầu bếp 1 và 2, Phụ bếp, người giữ kho thực phẩm, Thư ký và những Bồi bàn (garçons).
Tàu có 4 phòng ăn (carré), phòng ăn Thuyền Trưởng (carré Commandant) dành riêng cho Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và Cơ khí Trưởng, một người bồi bàn đặc trách cho phòng ăn nầy. Phòng ăn của Officiers (carré Officiers) được phục dịch bởi 2 người bồi bàn. Hai phòng ăn ở phòng dưới, một dành cho các Cai (carré Maîtres), Đầu bếp và Maître Electricien và một dành cho các Thủy thủ còn lại (carré Equipage). Mỗi SQ đều có phòng ngủ và lavabo riêng trong khi phần đông thủy thủ thì 2 người ở một phòng.
Trong vấn đề ăn uống, mỗi SQ được 2 chai bia mỗi ngày, thủy thủ được 2 chai nước ngọt. Bửa ăn trưa, SQ được phục vụ món ăn Tây, bửa ăn tối thì dùng món Việt. Hằng tuần, thứ Tư và Chủ Nhật, bửa ăn trưa của SQ có thêm rượu nho (vin) và những món ăn đặc biệt. Người viết vẫn không quên những món ăn Tây trên tàu VNTT1 và hay suy luận rằng : đầu bếp Việt mà nấu món Tây cho người Việt thì ngon hết chổ chê ! Ngon thật, lúc bấy giờ ! Mỗi tháng một lần hay vào ngày lễ lộc, Quan Tàu mời tất cả SQ đến phòng ăn Thuyền Trưởng ăn trưa, những buổi ăn trưa như thế thường kéo dài đến 3 tiếng đồng hồ ! Theo thông lệ, để mừng ngày sinh nhật của một SQ nào đó, khi tàu trên biển, vị SQ đó phải khoản đãi tất cả SQ khác 3 chai champagne. Vì theo truyền thống Hàng Hải Pháp, nên mọi người đều chào nhau bằng bằng tiếng Pháp « Bonjour », trước khi ăn, chúc « Bon appétit » và nếu ăn xong, muốn ra khỏi carré trước thì cáo lỗi « Bonne continuation ».
Về giải trí, tàu VNTT1 có một thư viện nhỏ, bàn ping pong, bàn babyfoot và máy chiếu phim. Film cinéma được thay đổi mỗi lần tàu qua kênh đào Panama vào bến Cristobal. Cristobal, một bến ghé của các tàu biển để lấy thêm dầu, nước uống, thực phẩm cũng như để nhận thư từ. Cristobal cũng là nơi mà hầu hết những thủy thủ khắp nơi trên thế giới gặp gở trong một thời gian ngắn ngủi trong quán rượu hay nơi « giải trí ». Nơi đây, thủy thủ tứ xứ đều có thể trao đổi tin tức hay thông cảm nhau về ưu tư của người đi biển, dù không cùng ngôn ngữ. Chúng tôi hay tuyên bố với nhau là « nếu một người đi biển nào mà đã ghé bến Cristobal và lên bờ một lần, thì người đó đã trở thành một international football player« .
Tàu VNTT1 được đóng ở Ý nên các sách kỷ thuật và tài liệu nguyên thủy đều là tiếng Ý, tuy nhiên theo thời gian, tất cả những tài liệu và sách chỉ dẫn của Pont và Máy được viết lại bằng tiếng Pháp. Sau mỗi lần có lệnh Quan Tàu làm thực tập về khẩn cấp/an toàn (exercice de sécurité), SQ hướng dẫn ngày hôm đó phải đệ trình một báo cáo ghi lại những hành động và nhận xét về cuộc thực tập bằng tiếng Pháp để Quan Tàu lưu trử. Sổ ghi quart hay lệnh trả lời trong lúc làm manœuvre của Pont và Máy cũng được ghi chép bằng tiếng Pháp.
Hai SQ Học Viên chúng tôi vốn liếng tiếng Pháp có giới hạn, không như các đàn anh SQ khác, nhưng đã tiếp tục học hỏi và thực hành những sinh hoạt và điều lệ của tàu nên sau đó cũng đã được trao cho chức vụ Sĩ Quan theo như khả năng và kinh nghiệm đạt được. Từ SQ Học Viên tháng 1 năm 1971, tôi đã lên SQ Cơ Khí 5 rồi SQ Cơ Khí 4 và 3 trong chuyến hải hành cuối cùng trước khi VNCH thất thủ. Ông bạn Hoàng của tôi, cũng từ SQ Học Viên Pont tháng 3 năm 1971 được lên làm SQ Phụ Tá 3 rồi 2 cũng trong thời gian đó. Oái oăm thay ! Hai chúng tôi không mong mà lại được thăng chức Cơ Khí Phó và Thuyền Phó ngay sau khi tàu VNTT1 ra khỏi Vũng Tàu trong chuyến hải hành lịch sử ngày 30/04/1975 vì trên tàu lúc đó, SQ Máy chỉ có Cơ Khí Trưởng Phùng văn Gạt và Trần Hậu Khánh, còn SQ Pont chỉ có Thuyền Trưởng Nguyễn Nhứt Thống và ông bạn Bùi Hửu Hoàng. Dĩ nhiên trong thời điểm đó, không ai màng đến chức vụ hay lương bổng nữa, mà chỉ mong con tàu và hành khách đến một nơi nào đó an toàn, bắt đầu cho những suy tư về một cuộc sống mới ở một chân trời nào đó.
Chuyến Di Tản Lịch Sử 30-04-1975
VNTT1 đậu trên sông Sài Gòn từ ngày 17-04-1975, thủy thủ đoàn vẫn sinh hoạt hàng ngày theo quart bờ. Chúng tôi cứ nghĩ rằng tàu về Việt Nam lần nầy là để ra miền Trung chở người tị nạn vào Nam, nhưng chúng tôi không nghe lệnh đó ban hành và cũng không nghe biết ý định gì của Công Ty về lịch trình sắp tới (Dĩ nhiên Công Ty và Chính Phủ đã có dự định rồi nhưng đó là bí mật. Sau nầy chúng tôi mới được biết mật lệnh đó).
Ngày 29-04 là ngày trực (quart) của tôi. Sài Gòn bị giới nghiêm 24/24 vì tối 28-04 Dinh Độc Lập bị dội bom. Nhờ có một lá thư chứng thực bởi Thuyền Trưởng tôi là SQ CK của tàu VNTT1 cho nên Cảnh Sát cho phép tôi được đến tàu làm việc. Chiều tối 29-04, chúng tôi đã chứng kiến cảnh trực thăng trên bầu trời Sài Gòn bốc người từ Tòa Đại Sứ Mỹ, hàng trăm người đã tụ tập và lao xao ở bờ sông Bạch Đằng, nơi mà các tàu buôn còn đậu ở đó. Đêm 29/30-04, đoàn tàu Hải Quân lù lù di chuyển trên sông Sài Gòn ra Vũng Tàu. Tôi và số người đang trực trên tàu thật hoang mang, không liên lạc được với gia đình và không biết là mình phải tính sao đây ? Ở lại hay ra đi ? 8.00 giờ sáng ngày 30-04, Thuyền Trưởng Vỏ Kiết Triệu, SQ Phụ Tá 2 Bùi Hửu Hoàng, Cơ Khí Trưởng Phùng văn Gạt, Cai Nguyễn văn Sa mướn chiếc canot từ cầu tàu Nguyễn Huệ ra tàu VNTT1. Cùng với nhân viên đang trực, SQ Phụ Tá 3 Phạm Đình Tuân, SQ Cơ Khí 3 Trần Hậu Khánh, SQ Học Viên Lý Thế Đạt, Chấm dầu Lê văn Bầu, Thợ Điện Quách văn Gòn, lập tức điều động tàu từ phao 1 vào cập bến kho 5 Khánh Hội.
Tàu vừa cập vào kho 5 an toàn, đương nhiệm Thuyền Trưởng Vỏ Kiết Triệu, SQ Phụ Tá 3 Phạm Đình Tuân, Cai Nguyễn văn Sa và Chấm Dầu Lê văn Báu lập tức rời khỏi tàu để về nhà rước vợ con. Những gia đình có liên hệ với con tàu VNTT1 đang chờ sẳn ở kho 5 cùng với số người may mắn đã vào được bên trong cổng số 5 hối hả lên tàu.
Trong khi chờ đợi gia đình Thuyền Trưởng Vỏ Kiết Triệu và SQ Phụ Tá 3, một số quân nhân trên tàu hối thúc và áp lực thủy thủ đoàn phải rời bến gấp, sau khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương văn Minh lúc 10.00 giờ. Lúc nầy tình hình đã bắt đầu hổn loạn, người người chen lấn nhau lên tàu. Đành phải ra đi !
Dây thừng mũi đã được tháo ra, mũi tàu bắt đầu tách ra khỏi cầu tàu. Máy chính được phát động: chân vịt quay rất nhanh, sức đẩy rất mạnh. Dây thừng phía sau phải bị chặt đứt bằng rìu chửa lửa trong lúc có 2 người đang lơ lững đu vào dây thừng cố trèo lên tàu. Khi dây bị chặt đứt, 2 người ấy bị rớt gần chân vịt, một người nổi lên còn người kia mất dạng. Tàu bắt đầu tách ra khỏi bến, bấy giờ Thuyền Trưởng Vỏ Kiết Triệu và vợ con mới xuất hiện trên cầu, ông Triệu ẳm một đứa bé, bà Triệu cũng ẳm một bé và có hai bé nữa bên cạnh. Tàu lúc đó chỉ cách cầu khoảng 1-2m, nhưng không thể nào nhảy lên thang tàu được vào thời điểm hổn loạn ấy.
Thuyền Trưởng Nguyễn Nhứt Thống cố điều khiển (manœuvre) tàu vào cầu hai lần nhưng không thể nào cặp sát vào được, một phần vì dây thừng không cột được, phần vì lúc thủy triều đang xuống. Trong lúc đó, SQ Phụ Tá 2 Bùi Hửu Hoàng có cầu cứu một chiếc giang đỉnh của Hải Quân đang đậu gần VNTT1 cặp vào giửa VNTT1 và cầu tàu để cho ông Triệu và gia đình bước xuống rồi leo lên cầu thang của tàu VNTT1, nhưng cả hai tay bồng bế em bé như thế thì không thể nào nhảy qua chiếc giang đỉnh được. Đành chịu thua ! VNTT1 phải ngậm ngùi rời bến kho 5 dưới áp lực của những người lính đang cầm súng và lựu đạn. Lúc ấy là 10.30 sáng.
Cũng trong hoàn cảnh nầy, Thuyền Phó Dương Tấn Kim Sanh xuất hiện trên bến. Có người nào đó quăng cái dây thang pilote xuống cầu, đầu dây dưới cột vào cái cột nào đó để cho ông có thể leo lên, nhưng vì VNTT1 lao chao, cái thang dây bị đứt và Dương Tấn Kim Sanh cũng bị bỏ lại ! Tàu chạy hết tốc lực, vừa qua khỏi cầu Tân Thuận thì bị B40 (hay mìn ?) và súng cối nổ tứ tung từ bến Thủ Thiêm. Trái B40 hay mìn đó đã làm lủng vỏ tàu một lổ khoảng 1m x 0.8m ở bên hông cale số 4 bên trái (babord), dưới mặt nước. Miểng đạn (hay mìn) đã xuyên qua một réservoir dầu máy, vào phòng máy, cắt đứt ống dẫn dầu (circuit hydrolique) của tay lái. Tàu nghiêng qua một bên vì nước tràn vào cale 4 và bắt đầu lủi vào bờ vì tay lái bị tê liệt ! SQ Phụ Tá 2 Bùi Hửu Hoàng nghĩ ngay đến Gyro Pilot, nhưng phòng nầy bị khóa, đến phòng của SQ Radio (SQ Vô Tuyến) để lấy chìa khóa nhưng không ai mở cửa. Mãi đến khoảng vài phút sau, ông SQ Radio mới xuất hiện trên phòng chỉ huy (Passerelle) và được yêu cầu mở phòng Gyro Pilot để mở máy Gyro. Sau khi Gyro hoạt động, Dịch 2 trở lại phòng chỉ huy cho Thuyền Trưởng biết là Auto Pilote đã hoạt động. Lập tức tàu được đánh trở lui ở mức tối đa (En Arrière Toute) rồi hối hả tiến tới trước.
Trước khi đến Nhà Bè, VNTT1 bị pháo kích lần thứ 2 cũng từ phía bên trái, có quả nổ trên boong tàu cắt đứt dây cáp của cần trục (mât de charge), có quả rớt xuống nước, nhưng không có tổn thương nhân mạng.
Mới vừa qua khỏi Nhà Bè, gần Cát Lái (?), VNTT1 lại bị tấn công lần thứ 3 bằng súng cối hay đại liên bắn thẳng vào château tàu, ở hành lang bên trái phía trước của boong chính, nơi mà một số hành khách đang ngồi núp. Lần tấn công nầy đã làm cho nhà văn Chu Tử và một em bé tử thương và 20 người khác bị thương.
Với công xuất máy được xử dụng tối đa và với một vận tốc kỷ lục, VNTT1 đã ra được sông Sài Gòn, vượt qua khỏi Vũng Tàu. Ôi ! VNTT1 và hành khách đã thoát được hiểm nguy !
Trên đường tiến về Hạm Đội 7 ngoài hải phận quốc tế, một buổi lể thủy táng đơn sơ cho hai nạn nhân tử thương đã diễn ra với sự hiện diện của đại diện Thủy Thủ đoàn và hành khách trên tàu. Goodby forever nhà văn Chu Tử ! Dựa vào báo cáo của Thuyền Trưởng về tình trạng của VNTT1, điều kiện an toàn của tàu và hành khách, số người bị thương, số lượng hành khách… Hạm Đội 7 chỉ thị VNTT1 trực chỉ Subic Bay.
Sáng 03-05-1975, 10.00 giờ, VNTT1 đến Subic Bay, Phi Luật Tân. Số người bị thương được đưa lên trại Subic Bay điều trị. Nhân viên của cơ quan Hải Quân Mỹ lên tàu tiếp xúc Thủy Thủ đoàn, quan sát thực trạng trên tàu, giám định điều kiện an toàn (seaworthiness), tạm thời sửa chửa lổ hổng của vỏ tàu, tiếp tế thực phẩm cần thiết và chỉ thị VNTT1 tiếp tục hành trình đến đảo Guam.
VNTT1 đến Guam ngày 09-05-1975, cập bến lúc 16.00 giờ để chuyển số hành khách lên trại tị nạn ASAN, rồi trở ra neo trong vịnh. Gia đình của Thủy Thủ đoàn và các nhân vật quản trị của VNHH được phép ở lại trên tàu cho đến khi có chỉ thị mới của nhà chức trách trại ASAN. Tuy nhiên, SQ Radio Dương khắc Hổ và gia đình tự nguyện rời khỏi tàu cùng lúc với hành khách. Thợ điện 2 (Gòn) cũng rời khỏi tàu, muốn trở về Việt Nam vì không mang gia đình theo.
Tàu VNTT1 là chiếc tàu đầu tiên đến Guam. Những ngày sau đó, có tàu Tân Nam Việt đến ngày 15-05-1975, tàu Trường Hải và HQ 500 22-05-1975, tàu Đồng Nai và Đại Dương 23-05-1975.

Suốt hai tháng trên tàu VNTT1, mọi người đều có một cuộc sống thật thoải mái về vật chất vì số lượng thực phẩm và rượu, bia trử trên tàu được dự định cho một hành trình 3-4 tháng. Các phu nhân trên tàu là những đầu bếp đặc biệt của những món ăn ngon hằng ngày. Thỉnh thoảng chúng tôi đi picnic, tắm biển, lên bờ, sinh hoạt như đang đi nghỉ hè ở một phong cảnh hửu tình ! Nhưng trên thực tế, mỗi chúng tôi đều có một ưu tư riêng trong cùng một trạng huống: mất quê hương, xa gia đình, vắng người thân yêu, một tương lai vô định ! Giờ đây hồi tưởng lại, mắt tôi rưng rưng lệ, nhớ lại những giòng nước mắt của những ngày cô đơn, buồn tủi lúc bấy giờ. Cả nhóm chúng tôi chọn Canada làm « đất hứa », nơi mà chúng tôi chưa một lần đặt chân đến, chỉ biết đó là một quốc gia có một thể chế trung lập, diện tích bao la và ngập đầy tuyết trắng !
Ngày 12-07-1975, tất cả chúng tôi được lệnh rời khỏi VNTT1, nhập trại ASAN để làm thủ tục di cư đến Canada. Hai SQ trẻ chúng tôi, Trần Hậu Khánh và Bùi Hửu Hoàng coi như vỉnh viển xa lìa VNTT1 từ ngày ấy, sau 4.5 năm gắn bó với con tàu và chức vụ. Qua sự sắp đặt của văn phòng Luật Sư ARRIOLA & CUSHNIE ở Guam, đại diện cho Công Ty VNHH và Thủy Thủ đoàn, VNTT1 được chuyển giao quyền sở hửu cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ. « Vậy, trong trường hợp sau nầy, Chánh phủ Liên Bang Hoa Kỳ, vì một lý do nào, quyết định bán chiếc tàu, quyền lợi của anh em cần được chứng minh và thông báo đầy đủ cho văn phòng Luật Sư đại diện » (trích từ « Thông tư Nội bộ của ông TGĐ Dương Liên).
Ngày 21-07-1975, nhóm chúng tôi rời trại ASAN Guam, lên máy bay qua trại Bình-Đăng-Sơn (Pendleton) ở California để làm thủ tục khám sức khỏe và visa vào Canada. Gia đình ông Lê Minh Đức, ông Nguyễn văn Sang và Elève Lý thế Đạt xin định cư ở California, Hoa Kỳ.
Ngày 25-07-1975, chúng tôi gồm gia đình các ông Dương Liên, Nguyễn Nhứt Thống, Phùng văn Gạt, Bùi Hửu Hoàng và Trần Hậu Khánh nhập cảnh Canada. Một cuộc sống mới nơi đất hứa bắt đầu từ đây !
Cuối tháng 10, 1975 chúng tôi nhận được thư thông báo từ văn phòng Luật Sư đại diện ở Guam cho hay là chính phủ Hoa Kỳ đã dùng VNTT1 để đưa 1600 người đòi trở về Việt Nam. Thế là chúng tôi mãi mãi không còn gặp lại VNTT1 nữa.
Những ghi nhận liên quan đến chuyến đi lịch sử của VNTT1
Những gia đình có liên hệ với VNTT1 đã chờ sẳn ở kho 5 để theo VNTT1 sáng ngày 30-07-1975 gồm gia đình Thuyền Trưởng Nguyễn Nhứt Thống, gia đình Cơ Khí Trưởng Phùng văn Gạt, gia đình SQ Radio Dương Khắc Hổ, gia đình cựu SQ CK Huỳnh văn Lắm, gia đình ông Dương Liên, TGĐ Công Ty VNHH, gia đình ông Lê Minh Đức, GĐ Thương Mại VNHH, ông Lê Tấn Lộc, TGĐ Ngân Hàng VNTT, ông …Cơ, GĐ.. Ngân Hàng VNTT. Gia đình ông Dương Liên và gia đình ông Lê minh Đức ở lại trên tàu với Thủy Thủ đoàn trong thời gian VNTT1 neo ở Guam. Trong số 750 hành khách có ông cựu Bộ Trưởng Kinh Tế Châu Kim Nhân, 1 Thẩm Phán, 1 Dân Biểu, 2 Hoa Tiêu tàu biển, 2 Bác Sĩ, nữ Ca sĩ Phương Hoài Tâm, tất cả còn lại là Quân, Nhân, Công, Cán các cấp của VNCH trong số có 5 Đại Tá.

VNTT1 không có dự định di tản hay ít ra là Thủy Thủ đoàn không nghe hay nhận được chỉ thị nào từ ban giám đốc. Nhưng vì phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích và hổn loạn vào ngày chót, máy bay không cất cánh được, quí vị của VNTT và của VNHH đã không được không vận, nên con tàu VNTT1 là phương tiện cứu cánh cuối cùng của quí vị đó và cũng là cái may mắn cho số hành khách tức thời của sáng ngày 30-04. Trong khi đó, phần đông Thủy Thủ đoàn và gia đình của họ không có cơ hội để cùng di tản với VNTT1.
Sau khi cập bến kho 5 sáng ngày 30-04, Dịch 3 (SQ Phụ Tá 3) Phạm đình Tuân về nhà để đem gia đình xuống tàu, nhưng khi vào được kho 5 thì VNTT1 đã ra đi rồi. Bằng cách nào đó, nhóm của Tuân đã leo lên được một chiếc tàu đánh cá theo sau VNTT1 trên sông Sài Gòn, nhưng không bắt kịp. Mặc dầu bị tấn công trên sông, nhưng nhóm của Tuân cũng thoát được ra biển. Có lần Tuân đã tâm sự là trên tàu không có dụng cụ hải hành, chỉ có một bản đồ, nên phải đoán hướng và tọa độ bằng 1 que tăm xỉa răng ! Nhóm của Tuân cuối cùng đến được Singapore và được chuyển qua trại tị nạn ASAN sau đó.
Ông Dương Tấn Kim Sanh, ngày 30-04 là đương nhiệm Phó Thuyền Trưởng của VNTT1. Ông vào kho 5 trể, cố tìm cách lên tàu, nhưng lúc đó VNTT1 đã tách ra khỏi kho 5 và tình thế rất hổn loạn, nên đành ở lại. Được biết, sau 30-04-1975, ông Sanh là một trong những người đã dẫn VNTT1 từ Nha Trang về Sài Gòn theo lời yêu cầu của chính quyền mới. Nghe nói ông định cư ở Pháp.
Ông Võ Kiết Triệu trong ngày 30-04 là đường nhiệm Thuyền Trưởng VNTT1, sáng ngày 30-04, sau khi đưa tàu từ phao vào cập kho 5, lập tức trở về nhà để rước gia đình. Khi trở lại và vào được bên trong kho 5 thì tình thế hổn loạn nên không lên tàu được nên đành ở lại. Sau ngày 30-04, chính quyền mới yêu cầu ông và Chef Máy Trần văn Đúng ra Nha Trang dẫn tàu VNTT1 (sau nầy đổi tên thành Vũng Tàu) về Sài Gòn. Cho đến tháng Tám 1978 ông Triệu và gia đình tổ chức vượt biên cùng với 346 người khác, được tàu Anh Quốc vớt, đưa về Đài Loan làm thủ tục nhập cảnh Anh Quốc. Đến tháng Mười Một 1989, ông và gia đình đến định cư ở Montréal, Canada.
Tết 1975 – Tết 2015
VNTT1 về Sài Gòn nhân dịp Tết Ất Mão 1975. Mặc dù chiến tranh có ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của toàn dân miền Nam nhưng người Sài Gòn vẫn tưng bùng đón Tết. Cái rộn rịp của đường hoa Nguyễn Huệ, cái truyền cảm khi sánh vai bên người bạn gái trên đường phố, cái ray rức vì những mối tình, những mẫu chuyện về hải hành và đại dương, những ước mơ định hướng cho tương lai, tôi vẫn nhớ ! Lúc đó, tôi là một Sĩ Quan trẻ trên tàu VNTT1:
Ngày xưa, tôi như con chim biển,
Thích đi hoài, xa mãi chuyện nhân gian,
Nhiều nàng đến, lắm người yêu và hờn giận,
Tôi vẫn đi, đi mãi, xá chi tình… (THK)
Những năm sau 04-1975 là thời gian buồn thảm nhứt của người tha phương như chúng tôi, cô đơn trên đất mới, buồn nhớ về người thân và quê hương bên kia Thái Bình Dương. Huyền Sang, tức ông Nguyễn văn Sang, Chấm Dầu của VNTT1, cùng ra đi với tôi, nhưng định cư ở Cali, đã viết tặng tôi những vần thơ nói lên tâm tư của chúng tôi lúc bấy giờ:
Ngọt bùi mua lấy héo hon,
Bán trăm thương nhớ mà còn xót xa,
Nhắn về nguyên quán dùm ta,
Từ nay phải gọi quê là cố hương !
…
Đất mới dù hoa xinh, trái ngọt,
Hoài hương mộng bén suốt canh trường.
(HS, Jan 1976)
Trong suốt thời gian sinh sống ở quê hương thứ hai, cứ mỗi lần Tết đến, lòng tôi vẫn còn thấy xót xa, nhớ về Tết của một thời trai trẻ ở quê nhà, nhớ đến những lần đón Tết trên VNTT1 lênh đênh trên sóng nước đại dương. Tết Ất Mùi năm nay, 2015, vừa đúng 40 năm, tôi vẫn không quên cái không khí và sự thiêng liêng của Tết cổ truyền ở Việt Nam.
Ở cái tuổi « xế chiều » nầy, con người hay nhớ về quá khứ, cho nên cũng là lúc tôi muốn ghi lại nỗi niềm và kỷ niệm đáng nhớ liên quan đến thương thuyền « Việt Nam Thương Tín 1 » của Việt Nam Cộng Hòa trước 04-1975. Xin gởi đến quí vị và các bạn những dữ kiện đã nêu để biết thêm về con tàu VNTT1 và chuyến đi lịch sữ 30-04-1975. Đặc biệt tôi cám ơn Thuyền Trưởng Võ Kiết Triệu và ông bạn Dịch 2 (Phó Thuyền Trưởng 04-1975) Bùi Hửu Hoàng của tôi đã kiểm chứng và xác nhận những dữ kiện mà tôi đã nêu ra trong « hồi ký » nầy.
Kính chúc quí vị, các bạn cựu Hàng Hải Thương Thuyền Việt Nam và tất cả những hành khách đã di tản trên tàu VNTT1 ngày 30-04-1975 đang sinh sống khắp nơi thế giới một năm Ất Mùi Vạn Sự Như Ý.




Một chuyến đi
MỘT CHUYẾN ĐI
Hồi ký của một Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền sống dưới hai chế độ trước và sau 1975.
Nguyễn phú Thiệu (Cơ khí 19)

Trong những năm chiến tranh, tôi được may mắn đi trên những chiếc tàu viễn dương thuộc hãng VishipCo Line của ông Trần đình Trường, chở hàng hóa từ cảng Singapore đến những quốc gia khác như Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Nam Dương, Philippines, Thái Lan và Kampuchia. Mỗi năm tôi chỉ về Sài Gòn vào khoảng 5 lần và thời gian còn lại, phần lớn ở tại Singapore.
Vào thời điểm chiến tranh khốc liệt, tôi chỉ biết tin tức và thời sự VN qua đài BBC. Mãi cho đến 20-4-1975, ông Trần đình Trường điện thoại qua Singapore chỉ thị cho tàu ở lại và sẽ đi Hawai. Tất cả thủy thủ đoàn họp lại và quyết định về lại Sài Gòn. Sau 5 tháng xa Việt Nam, không biết thân nhân và gia đình sẽ ra sao ? Cuối cùng chúng tôi cập bến Sài Gòn vào chiều ngày 28-4-1975. Trên đường về chúng tôi thấy có hàng trăm chiếc tàu lớn nhỏ đang trực chỉ hạm đội 7 của Mỹ đang neo ngoài khơi để chở quân dân cán chính và gia đình di tản.
Nỗi buồn đến với tôi, cùng với sự lo lắng trong tương lai, không biết mình quyết định đúng hay sai, trong khi tôi trở về thì mọi người lại ra đi. Nỗi vui buồn cứ lảng vảng bên tôi và chỉ hai ngày sau thì cộng sản đã chiếm trọn miền Nam. Thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ thật hỗn độn, mọi người hoang mang, tôi lang thang giữa thành phố Sài Gòn mà lòng ngổn ngang trăm mối. Cho đến sáng ngày 1-5-1975, tôi đến lại văn phòng của hãng VishipCo Line ở đường Hồng thập Tự, thì thấy Ủy ban tiếp quản của cộng sản ra thông cáo : « Tất cả thủy thủ đoàn của chế độ cũ trở lại tàu để nhận chỉ thị » và tôi trở về vị trí cũ trong chế độ mới, có nghĩa là tôi bắt đầu làm việc dưới chế độ cộng sản kể từ ngày 1-5-1975. Lý do rất dễ hiểu mà tôi được ưu tiên là vì cộng sản rất cần những tàu chở hàng cấp tốc ra miền Bắc, và đến ngày 19-5-1975, chuyến tàu chở gạo, sữa đầu tiên ra tiếp tế miền Bắc. Tàu tôi đến Hải Phòng vào ngày 24-5-1975. Là người miền Nam đến những thành phố Hải Phòng và Hà Nội đầu tiên. Thật là xúc động và nỗi buồn lại đến với tôi lần nữa khi chứng kiến những cảnh nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, một thành phố toàn là xe đạp Trung quốc, áo quần toàn là vải kaki màu xanh đậm và màu xanh giống lính bộ đội. Tất cả đàn ông chân đi dép, đầu đội nón cối, đàn bà cũng vậy. Họ nói với nhau khi thấy chúng tôi: « Ối ! Dân Hồng Kông sao sang thế ! ». Họ đâu ngờ rằng, tất cả anh em chúng tôi là dân miền Nam mà cộng sản lúc nào cũng tuyên truyền dân miền Nam nghèo đói, bị Mỹ kèm kẹp. Cả hai thành phố không có nhà cao tầng, chỉ thấy những căn nhà xiêu vẹo, thật là nghèo không tưởng tượng nổi ! Tôi bị công an nổi và chìm theo dõi thường xuyên. Họ không cho chúng tôi nói chuyện nhiều với dân, nhất là không được tiếp xúc với thủy thủ Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc… Và cũng từ đó, tàu tôi tiếp tế gạo, đường, sữa, bột mì thường xuyên ra miền Bắc. Sài Gòn, Hải Phòng mỗi tháng 1 hay 2 chuyến. Đến tháng 7 năm 1976, tàu tôi chở trấu đi Hồng Kông. Bây giờ trên tàu tăng cường rất nhiều cán bộ cộng sản, ngoài khoảng 6 người chuyên viên chính, còn lại phần đông là CS hay con ông cháu cha. Họ mang súng ống đầy đủ, có luôn chính ủy kiểm soát chính trị. Lúc nầy, không khí trên tàu thật là ngột ngạt, không ai dám nói chuyện với ai, chỉ có tôi và anh Trương văn Tài (người vừa qua đời ở Sydney cách đây 6 tháng) là hiểu nhau và có chung chí hướng. Khi tàu đến Hồng Kông, chúng tôi không được quyền bước lên thành phố và tàu neo cách hải cảng khá xa, chung quanh có rất nhiều tàu của những quốc gia khác và đặc biệt phía trước tôi có tàu Hải quân Mỹ rất lớn, cách tàu tôi khoảng 100 mét. Ý nghĩ tị nạn bắt đầu hiện hữu trong tâm trí tôi. Vào khoãng 2 giờ khuya, tất cả mọi người đang say giấc ngủ, tôi vào phòng anh Trương văn Tài, hai người bàn tính sẽ nhảy xuống biển và lội qua tàu Hải quân Mỹ xin tị nạn. Đây là một hành động rất táo bạo và đầy nguy hiểm. Hai chúng tôi ngồi bàn rất kỹ những bất trắc có thể xảy ra:
– Thứ nhất là nước chảy xuôi về hướng tàu tôi, vì thế dù chỉ cách nhau có 100m, nhưng rất khó lội ngược dòng.
– Thứ hai là nếu lội đến được thì Hải quân Mỹ sẽ bắn chết tức khắc, vì họ nghĩ là đặc công phá hoại.
Trong hai ý nghĩ đó đã làm chúng tôi chùn bước, không dám liều lĩnh, nên những ý định đó không thực hiện được. Nhớ lại trước năm 1975, khi tàu cập bến Hồng Kông, tôi và Tài hiên ngang bước lên thành phố, tha hồ ăn chơi thoải mái và bây giờ cũng hải cảng Hồng Kông ngày nào, chúng tôi chỉ đứng nhìn vào. Chúng tôi như chim ở trong lồng, thèm khát tự do và mới thấy cái giá trị đích thực của sự tự do. Ngày nào tôi cũng đứng trên boong tàu nhìn tàu Hải quân Mỹ, cứ mãi ước ao được vào tòa Đại sứ Mỹ. Nhưng tất cả chỉ là ảo tưởng và cuối cùng tôi trở lại Sài Gòn sau một tuần sống trong tưởng tượng đầy ước mơ. Hiện thực lại trở về và tiếp tục cuộc sống đầy dẫy những bất trắc và không có tương lai.
Như đã nói ở trên, tôi là người rất may mắn được chế độ cộng sản ưu đãi, tôi được lên chức, được cấp nhà, nhất là tiền lương mỗi tháng rất cao, nhưng chẳng thấm vào đâu nếu so với những số tiền tôi thu vào do sự buôn bán những thứ cần thiết giữa hai miền Nam Bắc, và cũng vì lý do nầy, sau gần hai năm, tôi bị thuyên chuyển từ tàu lớn Vàm Cỏ 23 sang tàu nhỏ Sông Bé 12, trong đó có người bạn của tôi là anh Lữ ngọc Sơn, cùng chung số phận, còn anh Trương văn Tài chuyển qua tàu Vàm Cỏ 24.
Tôi bắt đầu nhận nhiệm sở mới trong khi tàu Sông Bé 12 đang sửa chữa và Thuyền trưởng là người Nam tập kết. Vào trung tuần tháng 2 năm 1977, tôi rất vui mừng khi hay tin anh Trần phước Hậu xuống nhận nhiệm sở mới thay thế Thuyền trưởng người cộng sản. Thế là giữa 3 chúng tôi đã biết nhau, đã hiểu nhau nhưng vẫn chưa hiểu lòng. Chúng tôi thường đi nhậu với nhau cùng với một người bạn nữa là anh Nguyễn văn Ai. Rồi những buổi gặp gỡ sau đó, anh Hậu, tôi, anh Sơn và anh Ai đồng lòng quyết định sẽ cướp tàu Sông Bé 12 và « Một chuyến đi tức hành trình tìm tự do bắt đầu« .

Tất cả mọi người trong chúng ta, ai ai cũng biết sau hơn hai năm dưới sự thống trị của cộng sản, thành phố Sài Gòn sống trong vội vã, lo âu. Mọi người đều xôn xao, bàn tán, tìm đường vượt biên, dù rằng mọi tư tưởng, mọi hành động, đều bị sự kiểm soát vô hình, có nghĩa là không ai tin ai, lúc nào cũng lo lắng có người đang theo dõi rình mò mình, và dĩ nhiên trong hai năm rưởi đó, mỗi người đều có ý định thoát ly, hoặc lên rừng hay xuống biển. Tôi rất may mắn được làm trong ngành Hàng hải, đường biển đối với tôi rất quen thuộc, kể cả vùng biển của những quốc gia mà tôi có dịp ghé qua. Thủy thủ trên tàu tôi, ai cũng mơ ước một ngày nào đó tìm được lối thoát, nhưng không ai dám ngỏ tâm tư thầm kín ấy cho người khác dù là rất thân thiện. Chính cộng sản đã làm cho chúng tôi nghi ngờ lẫn nhau. Điều nầy khiến việc kết tụ một đám đông người để vượt biên thật là khó khăn. Cho nên, 4 người họp lại tuyên thệ, thề không phản bội nhau vào tháng 7 năm 1977. May mắn hơn nửa là trên tàu Sông Bé chỉ có 3 tên cán bộ cộng sản. Những người nầy, ngoài chức vụ về kỹ thuật, còn có bổn phận theo dõi và kiểm soát tư tưởng của thủy thủ đoàn và dĩ nhiên chúng tôi hết sức dè dặt với bề ngoài ra sức làm việc « học tập tốt, lao động tốt », đồng thời « hòa hợp hòa giải », tỏ ra rất thân thiện với họ, cố tạo một bộ mặt hết sức trung thành. Ba người nầy đều là người miền Nam tập kết ra Bắc, nên khi trở về, họ chẳng có gì dù rằng đã bao nhiêu năm chiến đấu chống « đế quốc ». Cũng chính vì thế, khi vào Sài Gòn, họ khá bất mãn khi thấy chúng tôi là người sống dưới chế độ tự do mà có đầy đủ, sung túc về mọi mặt kể cả số lương lớn hơn họ. Họ rất ước ao có đời sống sung sướng hơn, lúc nào cũng có tiền để ăn nhậu. Vì thế, chúng tôi thường mời họ đi uống rượu ngoài giờ làm việc. Dần dần chuyện ăn nhậu nầy trở thành thói quen, họ thấy rằng thiếu ăn nhậu là thiếu một cái gì cần thiết, là thiếu một lãng quên.
Suốt trong 2 tháng, tôi hết sức khéo léo đóng kịch thật tài tình để những cán bộ cộng sản không nghi kỵ và thủy thủ đoàn không chú ý. Chúng tôi không bao giờ đi chung với nhau, ít khi nói chuyện riêng tư trong giờ làm việc, đôi khi giả vờ gây lộn với nhau. Nhưng trong những buổi chiều cuối tuần, bốn anh em hẹn gặp nhau ở những quán ăn xa Sài Gòn để họp và bàn « chuyến đi lịch sử ».
Ai cũng lo âu, dòm chừng những người đi phía sau trên đường đến điểm hẹn. Bí mật và kín đáo lúc nào cũng vây bủa chúng tôi trong mọi lúc. Từ cách ăn mặc, đi đứng nói chuyện hết sức dè dặt, bắt chước y như mọi cán bộ cộng sản. Từ những tư cách nầy, chúng tôi càng ngày, càng tỏ ra gần gủi họ nhiều hơn.
Trong thời gian ấy, chúng tôi móc nối được một thương gia lo di chuyển thân nhân đến Vũng Tàu, với điều kiện ông ta đưa đi được 38 người và bù lại, ông sẽ đưa được 100 người của ông ấy đi.
Chúng tôi rất lo lắng, bây giờ không còn là 4 người nữa, mà có đến 140 người biết chuyện cướp tàu. Nếu chỉ một người nói ra thì sự tù tội và sinh mạng như chỉ mành treo chuông.
Một tuần lễ trước ngày đi, chúng tôi mất ăn, mất ngủ, lo lắng đủ điều, dù rằng mọi thứ cần thiết đã chuẩn bị sẳn sàng. Bao nhiêu buổi họp cũng chỉ nhằm đúc kết lại một vấn đề là « bảo mật » và rút kinh nghiệm của chiếc Vàm Cỏ 16 đã đi trước. Sau đó, có tin là công an thành đang theo dõi những Sĩ quan Hàng Hải trong công ty. Điều nầy là một trở ngại lớn lao, nhưng vì nhân quyền và niềm khao khát tự do, nên chúng tôi không nản chí.
Mọi dự tính đã tạm xong, đúng 8 giờ sáng ngày 7-11-1977, tàu Sông Bé 12 bắt đầu khởi hành từ Sài Gòn đi Phú Quốc. Suốt hai ngày đêm 5 và 6 tháng 11, tôi không ngủ được, sự lo âu luôn luôn đè nặng. Con tàu mở dây bắt đầu départ, lòng tôi chùng xuống, nặng trĩu, suy nghĩ thật nhiều, phó mặc cho số phận.
Đến 10 giờ, anh Hậu và anh Ai mời 3 tên cán bộ cộng sản vào phòng ăn để uống rượu, nhưng chỉ có hai người ưng chịu, còn người thứ ba không muốn uống. Điều nầy là trở ngại mà chúng tôi không dự trù trước. Nhanh trí, anh Hậu dụ anh ta bằng cách bàn chuyện làm ăn ra tiền mà không cần vốn. Anh Hậu sẽ cho mượn tiền mua, một lời thành hai. Cuối cùng, cả ba người cùng uống. Họ uống những ly rượu mà anh Ai đã bỏ sẵn thuốc ngủ. Uống được vài ba ly là thuốc bắt đầu thấm, họ không thể tự kiểm soát được nữa. Bấy giờ thủy thủ đoàn bắt đầu ăn trưa, trong khi con tàu đang lướt sóng trực chỉ Vũng Tàu. Đến 12 giờ, chúng tôi bắt đầu hành động và một số đông anh em thủy thủ hợp tác. Ba người cán bộ bị trói lại, đồng thời chúng tôi tước được 2 khẩu súng trường CKC và một khẩu K54. Tất cả đạn đều đã lên nòng, sẵn sàng phản ứng khi gặp bất trắc. Ba cán bộ cộng sản bị nhốt trong một phòng ở phía ngoài có thủy thủ canh gác. Đến 3 giờ chiều, tàu neo tại Vũng Tàu, khi đó ba cán bộ đã tỉnh rượu nhưng chẳng còn làm gì được. Suốt đêm đó, tàu neo tại Cấp, chờ đêm khuya, những ghe nhỏ chở người lên tàu. Bốn giờ sáng ngày 8-11-1977, tàu bắt đầu nhổ neo khởi hành, bắt đầu chuyến đi định mệnh.
Con tàu trực chỉ hướng Nam. Trong khi đó, hơn 140 người tị nạn được đưa vào bên trong boong tàu để tránh sự phát giác của những tàu tuần cộng sản. Mọi chuyện đều thuận lợi, đến 8 giờ tối, tàu sắp ra đến hải phận quốc tế, thì có một chiếc máy bay, bay ngang thật thấp và có hai chiếc tàu khác trực chỉ về phía tàu Sông Bé 12. Bấy giờ sự lo âu đến với chúng tôi gấp bội phần cho số phận. Không còn cách nào hơn là cho tàu tiến full, xả máy chạy tối đa. May mắn thay, nhìn qua ống dòm, hai tàu kia xa dần và chiếc máy bay cũng biến mất. Đến 11 giờ đêm, Sông Bé 12 đã thực sự ra đến hải phận quốc tế và không còn nhìn thấy hai con tàu kia nữa. Mọi người trên tàu ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhõm, hít được không khí tự do trong lành sau hơn hai năm sống với cộng sản và sau hơn 30 tiếng đồng hồ căng thẳng tinh thần một mất, một còn, bấy giờ mới thấy lòng mình phơi phới, không còn sợ hãi và lo lắng điều gì nữa. Sau đó chúng tôi mở trói cho các cán bộ cộng sản và cho ở phòng tương đối thoải mái hơn. Trông họ bây giờ thật tội nghiệp và chúng tôi không bao giờ có ý định hại họ cả và họ được đối xử rất tử tế, cho ăn uống những khẩu phần ăn dành cho Sĩ quan, kể cả nước uống và thuốc lá. Ngoài ra, họ được rất nhiều an ủi, nhất là tinh thần. Chúng tôi không coi họ như kẻ thù mà là những người bạn không cùng chí hướng. Bấy giờ họ mới tâm sự: « chúng tôi không chống cự, các anh muốn đi đâu cũng được, miễn là sau khi đến nơi đó, chúng tôi được an toàn trở về với gia đình ».
Theo dự tính, tàu sẽ ghé Singapore để xin dầu và lương thực, đồng thời gởi 3 cán bộ cộng sản trở về và sau đó sẽ đi Úc. Nhưng vài ngày sau, tàu đến đảo Pulau Tengah, nơi đây, đang có hơn 2000 người vượt biên chờ đi định cư. Tàu neo phía ngoài từ chiều cho đến 7 giờ tối, anh Nguyễn Đức, phóng viên báo Người Việt Tự Do Nhật Bản lên gặp ban chỉ huy tàu. Anh Đức khuyên đi gấp kẻo gặp trở ngại từ chính quyền Mã Lai và nên ghé Nam Dương chứ không nên ghé Singapore.
Thế là 9 giờ tối, tàu lại khởi hành mang theo thêm 8 anh em độc thân ở đảo cùng đi Úc Châu. Sông Bé lại xuôi dòng hướng Nam trên đại dương bao la và cuối cùng được cập vào bến Surabaya (Nam Dương) để xin lương thực và dầu.
Tại đây, chính quyền Nam Dương đối xử với thủy thủ đoàn Sông Bé rất tử tế, họ giúp chúng tôi theo lời yêu cầu. Ở lại Surabaya khoảng một tuần, trong thời gian nầy, họ khoản đãi 4 anh em chúng tôi 2 lần với một tinh thần thán phục, đầy thân thiện. Ngày Sông Bé 12 rời bến Surabaya, có hàng trăm đồng bào và chính quyền sở tại ra bến cảng tiễn đưa, thật là xúc động ! Thế là Sông Bé 12 lại trực chỉ Darwin. Gần đến hải phận Úc, máy bay Hải quân Úc bay lượn sát tàu, cho đến chiều tối, một tàu chiến của Hải quân Hoàng Gia Úc ra hướng dẫn và sang hôm sau, Sông Bé 12 cập bến tại cảng Darwin. Thủ tục giấy tờ được lập ngay tại đó, chúng tôi giao nạp vũ khí cho chính quyền và xin cho tất cả mọi người trên tàu được tị nạn trên đất Úc dù tòa Đại Sứ cộng sản Việt Nam yêu cầu dẫn độ chúng tôi về nước. Thủ tướng Fraiser đã bác lời yêu cầu của cộng sản Việt Nam và cho phép chúng tôi được hưởng qui chế tị nạn, đồng thời gửi 3 cán bộ cộng sản về nước.
Tất cả hơn 140 người rời tàu để đến trạm quarantine ở Darwin. Thú thực, tôi rất xúc động khi nhìn lại con tàu, giờ đây phải vĩnh biệt nó, tự nhiên tôi thấy buồn và xót xa làm sao ! Trên mảnh đất tự do nầy, tôi thực sự thấy thoải mái và sung sướng, trong khi ấy, những người thân và đồng bào tôi còn ở Việt Nam phải chịu bao khổ sở và đau buồn vô tận !