Đôi dòng về Thầy Ducasse

ĐÔI DÒNG VỀ THẦY DUCASSE

Nguyễn Hiếu Liêm

            Tôi đến thăm Thầy Ducasse ngày thứ Bảy 08 tháng Chín năm 2012 vừa qua tại Clinique Saint Rémy les Chevreuses, qua ngày thứ Hai 17 lại nhận được email của cô Elisabeth, con gái Thầy báo tin Ông đã qua đời ngày thứ Sáu 14, mới biết lần viếng thăm vừa qua cũng là lần cuối cùng. Trong buổi nói chuyện, tôi có đề cập đến anh Hoàng mộng Giới và anh Bùi Hồng Tiếng đã đến viếng thăm Thầy ngày thứ Tư 05 trước đó và anh Giới đã nói là sẽ trở lại thăm Thầy lần nửa để tạm biệt trước khi trở về Canada, Ông cho biết là còn ở lại bệnh viện khoảng 15 ngày nửa và có thể gặp tại đây hoặc nếu không thì tại nhà. Khi tôi đến bệnh viện thì Ông vẫn còn đang ngũ trưa nên phải ra ngoài phòng khách chờ đợi, Ông và Bà nằm chung bệnh viện và chung một phòng. Gặp tôi bất ngờ Ông mừng lắm vì tôi không có hẹn trước, Ông mời tôi ngồi trên giường với Ông vì Ông không thể đi đứng được nhưng tôi xin được ngồi trên chiếc ghế đối diện. Ông bây giờ yếu nhiều, Bà cũng vậy, Ông nói là Bà lúc nầy yếu lắm và không nói chuyện với ai khác ngoại trừ Ông và Cô con gái. Ông lúc nầy không thể ra ngoài hay đi bộ loanh quanh trong sân cỏ trong bệnh viện vì sợ té không ai hay. Ông nằm trong bệnh viện phục hồi sức khoẻ, hằng ngày tập thể dục, sức khoẻ có khả quan hơn một chút, khi được hỏi Ông cảm thấy trong người thế nào, Ông cho hay sức khỏe cũng có chút khả quan và nói :  » Certes, je ne suis pas jeune, mais il y en a d’autres qui sont encore pire que moi  » . Ông bị bịnh ung thư da và yếu tim, nhìn da trên tay bị nám đen và cơ thể bị băng bó nhiều chổ, tóc mọc còi cọc lưa thưa, cơ thể không còn sinh lực, tôi cảm thấy đau lòng, tự hỏi Ông còn chịu đựng được bao lâu nửa ? Cơ thể con người ai cũng phải qua giai đoạn Sinh Lão Bịnh Tử, tới phiên mình cũng vậy thôi ! Lúc sau nầy Ông nghe khó khăn, có khi tôi xưng tên mình trong điện thoại, phải lập đi lập lại nhiều lần Ông mới nhận ra, đây là lần Ông nằm bệnh viện lâu nhứt kéo dài đến nhiều tháng qua nhiều bệnh viện khác nhau.

Mr DUCASSE et sa soeur

Là dân Hàng Hải với nhau nên nói chuyện gì cũng quay về đề tài nghề nghiệp củ, tôi nói là trong nghành Hàng Hải, học nghề máy coi bộ lên bờ kiếm ăn dễ dàng hơn bên Pont. Khi nói đến nghề đi biển, hầu hết mọi người đều nghĩ đến hình ãnh của người Sĩ Quan Pont mặc áo trắng, quần short trắng mang lon oai vệ đi lại trên pont tàu khi cặp bến và tương lai được làm Thuyền Trưởng chỉ huy con tàu to lớn, mỗi lần còi tàu vang dội, cả vùng Khánh Hội, Quận Nhứt đều nghe, ngày về bến cầm tay em đi dạo phố ăn kem hay đi xem ciné, tán hưu tán vượn, tha hồ khoác lác, em chỉ há mồm thán phục sát đất và tôn thờ hình ảnh anh chàng SQ Pont chứ chẳng ai muốn nghĩ đến hình ảnh của một anh Mécanicien quần áo dầu mở lấm lem, tay chân đen thui lui thùi lùi coi không ngầu chút nào mà nhiều khi anh cơ khí phải chun trong ballast làm việc, lúc chun ra thì hình ảnh lại giống anh chàng trong quảng cáo của kem đánh răng Hynos ở Sài Gòn năm nào làm mất mặt hình ảnh hào hùng của dân Hàng Hải quá xá. Đó là tâm lý chung của mọi người chớ không phải chỉ riêng tôi, nhưng cái gì cũng có bề trái của nó; mấy anh Pont sau nầy chán nghề biển muốn lên bờ làm việc chỉ có nước làm Thuyền Trưởng lái xe ôm hay mở tiệm bán bia ôm cho dân đi tàu thôi ngoài ra chẳng có nghề nào thích hợp, trên bờ đâu còn huy hoàng như lúc còn trên tàu ! Còn nghề máy coi vậy mà đắc địa, làm gì cũng được, chổ nào lại không có máy xăng, máy dầu, máy điện, hàn dũa, sống khoẻ re. Tôi nói thí dụ nếu được chọn lại ngành học trường Hàng Hải, tôi sẽ chọn nghề máy, Ông Ducasse cũng đồng ý và nói lúc đầu cũng muốn theo nghề máy nhưng trường Hàng Hải ở Pháp đòi phải có kinh nghiệm về cơ khí, phải có certificat d’ajusteur (thợ nguội) mới cho học nên đành dẹp giấc mộng làm Mécanicien và học nghề Pont, ông nói học nghề máy lên bờ sửa xe hơi cũng được, coi bộ ông già cũng khoái kỹ thuật. Tôi có kể trường hợp của những người SQ Cơ Khí thành công như Diệp kim Chi ở Pháp, Đinh văn Thạnh, Đinh tấn Nghi, Đặng kim Long đều có bằng Kỹ Sư cơ khí ở Mỹ, hình như chỉ có khóa 21 là có nhiều SQ Cơ Khí thành công nhứt. Nói qua đến chiếc tàu Cyprea là niềm hãnh diện của nhiều cựu nhân viên, tôi nói chiếc tàu đó bây giờ giống như chiếc xuồng con, Ông Ducasse nói phải, nó lớn chưa bằng chiếc xà lan bây giờ trọng tải có khi đến 3000 tấn. Trên những chiếc porte-conteneur khổng lồ hiện nay, phòng máy của tàu là tổng hợp của gần như tất cả những máy móc trong những cơ xưởng trên bờ … groupe diesel, groupe hydrolique, group électrogène, groupe climatiseur, máy lọc nước, hệ thống vi tính ….. vân vân, cứ tưởng tượng một người làm Chef Mécanicien trên một chiếc porte-conteneur, sau nhiều năm làm bảo trì, khai thác, đọc tất cả những instruction về các loại máy trên tàu thì kinh nghiệm biết là bao nhiêu so với những người làm trên bờ với chức vụ tương đương vì họ chắc không có mấy dịp lăn lộn tháo ráp, sửa chửa như một người SQ Cơ Khí trên tàu cho nên khi lên đến chức Chef Mécanicien thì bắt buộc phải giỏi. Bây giờ bên Pháp không còn hai nghành học Pont và Machine nửa mà là formation polyvalente vừa học Pont vừa học Machine, nhưng phần Machine nặng hơn và bằng cấp được coi như Ingénieur Mécanique. Nhưng người navigant bây giờ chỉ đi hành nghề một thời gian ngắn rồi nhảy lên bờ chứ ít người chịu theo nghề luôn, Ông Ducasse nói grand père của Ông cũng là Capitaine au Long Cours, đi tàu liên tục trong 16 năm rồi lên bờ dẹp nghề đi biển và cũng nhìn nhận là bây giờ ít ai chịu đi tàu, lý do là nghề Hàng Hải bây giờ không kiếm tiền nhiều bằng những nghề trên bờ lại phải xa nhà nên tụi Tây có bằng Cơ khí, làm việc chừng 5 năm là lên bờ kiếm hảng khác.

Ngoài vấn đề nghề nghiệp Hàng Hải, Ông Ducasse hơi lo lắng không biết cái PC của ông có còn hoạt động hay không và nói là chắc có nhiều mail chưa đọc trong khoảng thời gian còn nằm bệnh viện. Tôi có nói là ông không phải lo lắng, tôi sẽ lo cho cái máy của ông khi ông rời bệnh viện về nhà. Cái PC của ông do tôi ráp từ năm 2005 đến năm nay cũng được 7 tuổi rồi, bây giờ cho nó về hưu là vừa, tôi giải thích trên cái carte mère có những condensateur, transistor, những cái composant nầy charger và décharger cũng bị hao mòn và bị già yếu như cơ thể con người vậy; ổng cười và nói :  » comme moi quoi !  » và sau cùng ông chịu mua carte mère mới nhưng muốn giử lại cái thùng của cái PC củ. Ông già có tật xài món đồ nào cho đến khi nó hoàn toàn không thể chạy được nửa mới chịu thay đồ mới; nhưng tôi thì khác, nghĩ rằng con người chết đi thì đâu có đem theo được tiền bạc theo, tội gì không xài đồ mới, tôi muốn ông mua cái PC mới với Windows 7 xài cho sướng, chớ cái Windows XP bây giờ xưa rồi.

Phải nhìn nhận là anh Giới hửu duyên, đi lon ton từ Canada qua Pháp gặp được Thầy Ducasse lần cuối, qua đúng lúc ông Thầy phải ra đi; và tôi cũng phải cám ơn anh Giới nhiều vì anh nhờ chở đi thăm ông Thầy trước khi về lại Canada nên tôi mới có dịp liên lạc với cô Elisabeth và do đó mới biết ông còn nằm trong bệnh viện. Tôi cũng định nhân dịp nầy làm một cái clip vidéo cho anh để giử làm kỹ niệm nhưng chưa gì thì ông Thầy đi mất nên không còn cơ hội. Tôi cũng ỷ y, hôm ghé thăm ông Thầy, coi bộ ông tuy yếu nhiều nhưng còn khỏe nên nghĩ đợi lúc anh Giới đến thăm khoảng tuần sau chắc ông cũng còn, làm cái clip vidéo luôn thể. Phút cuối cùng, ông cũng còn điện thoại nói chuyện với bà chị, trước khi gác máy, ông nói : « Je t’embrasse ….. c’est la fin » như linh cảm được phút sau cùng của mình và một chút sau đó thì ra đi. Ông mất khoảng 8 giờ tối, cô Elisabeth khi đó làm việc ở Paris được bệnh viện thông báo cha cô mệt nhiều lắm phải đến gặp mặt liền, nhưng khi đến nơi thì ông đã ra đi nên cô cũng buồn không được nói chuyện với ông phút cuối. Tôi giử liên lạc với Ông Ducasse khoảng thời gian Ông còn ở Sài Gòn từ và vẫn giử mối liên lạc thỉnh thoảng trải dài từ Paris, Alger cho đến Casablanca, Abidjan. Lúc còn tị nạn trong ambassade Pháp ở Singapore năm 1975, trong lá đơn xin đi Pháp, tôi có khai tên ông Ducasse như người quen biết ở Pháp, ông kể lại có nhận được công điện của bộ Ngoại Giao Pháp hỏi ông lúc đó đang dạy học ở Alger, ông xác nhận : »c’est mon élève ». Tuy nhiên lúc còn ở Việt Nam, tôi không thể nói chuyện nhiều với ông vì tôi nói tiếng Pháp không rành, tôi học ở trường Việt, nên lúc đối diện với ông tôi cũng run, không biết ổng hỏi mình có trả lời đươc không ? Sau nầy quen rồi và không còn ngăn cách bởi bức tường ngôn ngữ và ông chấp nhận tôi như người nhà thì nói chuyện thoải mái hơn, có lần tôi hỏi thẳng có phải ông hiểu tiếng Việt rành lắm không, ông chối liền : » tiếng Pháp tao còn chưa rành làm sao biết tiếng ngoại quốc được « , nhưng lần sau khi ghé qua ông mới trả lời:  » Thiệt tao hiểu tiếng Việt nhưng có mấy cái accent nên khó nghe ». Có lần ông nói: « Tiếng Việt tụi bây rắc rối, tiếng Tây có chử soeur mà tiếng Việt dịch khi thì chị, khi thì em », tôi suy nghĩ, tiếng Tây mới rắc rối, còn khó hơn tiếng Anh. Một lần tôi định chuyển ngữ từ Việt sang Pháp một bài viết, tôi nhờ ông kiểm soát dùm, ông nói: » Mầy cứ dịch từng chữ một, mot par mot, đừng để ý về grammaire, chuyện đó tao lo », rồi ông nói thêm: » dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp khác nhau nhiều lắm, từ tiếng Anh sang tiếng Pháp thì cũng không khác nhau bao nhiêu « . Tôi nhờ ông vì tôi biết ông đang phiên dịch bộ truyện Đông Châu Liệt Quốc sang Pháp ngữ và ông đã bắt đầu từ lâu lắm, không biết năm nào, ông cho hay lúc ban đầu cũng gặp khó khăn nhưng sau đó thì quen dần dần và ông đưa cho tôi bộ truyện Đông Châu Liệt Quốc và nói: » Mầy đem nhà đọc, tao đọc nguyên bản tiếng Tàu « . Ông có cái CD cuốn encyclopédie Larousse để làm việc, tôi chỉ cho ông cách tìm vô trang web của những mạng encyclopédie en ligne, chỉ cần đánh trên barre de recherche của Google chữ « définition » rồi thêm chữ gì đó thí dụ như « définition savoir » là nó dẫn vô nhiều trang web về kho tàng ngôn ngữ Pháp, tha hồ tham khảo, ông khoái quá, thời đại internet cái gì cũng mau lẹ, chỉ cần vài giây là có kết quả khỏi tìm kiếm lâu lắc. Khi tôi ngõ ý muốn tìm bản dịch Việt Pháp cho một số từ ngữ về tâm linh ông bèn đưa cho tôi cuốn sách Đạo Cao Đài « La voie du salut caodaïque » được xuất bản khi tôi còn chưa chào đời, cuốn sách củ xì, cái bìa gần mục nát, tôi phải bao lại và nhân dịp đó tôi mới thấy kiến thức ông thật rộng rải trên nhiều lãnh vực. Sau nầy ông nói rất ít về việc giảng dạy môn Hàng Hải, một lần ông hỏi tôi có anh em trong gia đình muốn học nghề đi biển không, tôi hỏi tại sao, ông nói là bây giờ mấy chiếc canot cũng có GPS đâu cần học calculs nautiques làm gì, nếu tôi cần ông cho tôi mớ sách vở Hàng Hải củ của ông chớ ông giử cũng vô ích. Trong một lần gặp gở trong bửa ăn với Quan Tàu Tường, ông có kể ông Ducasse ăn cơm với nhiều nước nước mắm và kết luận là : » Tây mà biết ăn nước mắm nhiều như vậy là gần thành người Việt Nam rồi ».

Thầy DUCASSE ở vị trí thứ tư từ trái

Chị Elisabeth nói đáng lẽ ông Ducasse phải trải qua một cuộc giải phẩu lớn, nhưng các bác sĩ họp lại bàn nên bỏ qua vì tuổi tác cao, không biết ông có thể hồi sinh sau cuộc giải phẩu hay không, và như vậy thì cuộc đời ông bị « condamné », nằm chờ chết. Sự ra đi của ông làm tôi thật bùi ngùi và thấm thía về tính chất vô thường của thân phận làm người, có đến ắt có đi, có sinh ắt có tử ai cũng phải qua, nhưng nói thật, tôi cũng muốn ông ra đi sớm vì còn sống ngày nào là còn chịu sự đau khổ, vày vò của thể xác. Nhìn ông gải lớp da chết, nám đen vì ung thư của ngón tay, tôi cũng hiểu là y học đã bó tay và chắc ông cũng hiểu như vậy, tôi cảm thấy xót xa và bất lực, không giúp gì cho ông được. Cuộc đời con người thật sự hưởng được gì và đem theo được những gì ? Nghiệp thân của ông có lẽ không nhiều nên không bị hành xác nhiều, sức khỏe ông bắt đầu suy sụp từ tháng Mười năm ngoái (2011) đến tháng Chín năm nay thì ông ra đi tính ra không đầy một năm so với nhiều người mà tôi biết có khi bịnh nằm liệt giường, không còn sức ngồi dậy mà vẫn kéo dài sự sống từ năm nầy sang năm khác, muốn chết mà vẫn không chết được. Ông Ducasse không phải là người thích la cà ăn nhậu hay đấu láo với bạn bè, dường như ông không có nhiều bạn; có lần hội Hàng Hải hoặc anh Nhơn, Kiệt mời ông đi ăn trưa trong lần ghé thăm nhưng ông đều từ chối viện cớ là phải lo cơm cho bà vợ. Ông sống lặng lẽ và khắc khổ như một nhà tu, chỉ đi ra ngoài khi cần thiết như đi chợ hoặc thăm viếng bà chị ở Maison Lafitte lúc ông còn mạnh khỏe, nhưng đó chỉ là bề ngoài, người khác có thể nghĩ rằng đó là một ông già kỳ cục nhưng đối với tôi, tôi hiểu rằng ông sống nhiều về nội tâm và đam mê trong thế giới kiến thức và dịch thuật. Những lần ghé thăm, tôi thấy ông mặc đi, mặc lại mấy bộ đồ cháo lòng củ kỷ nhưng ông không hề bận tâm bề ngoài. 

Ông Ducasse có hỏi tôi một lần bằng email quan niệm về Thượng Đế, nhưng tôi đã không trả lời vì tôi muốn để ông tự tìm hiểu và chính ông tự tìm ra câu trả lời thì hay hơn, bây giờ thì ông đã có câu trả lời rồi và không cần hỏi người khác, ai tìm thì người đó gặp. Có một điều lạ là tôi không cảm thấy ông chết, ông vẫn còn bàng bạc đâu đó, cái chết không phải là sự chấm dứt mà là một sự bắt đầu, linh hồn có chết bao giờ đâu, nó phải học hỏi từ giai đoạn một.

Từ đây, mỗi lần lái xe chạy ngang qua những cánh đồng vùng Gif-sur-Yvette tôi lại nghĩ đến ông khi tôi ghé qua để làm dépannage cái PC. Adieu Monsieur Ducasse.

 

 

Qua bến nước xưa

                                       QUA BẾN NƯỚC XƯA
HOÀNG MỘNG GIỚI
              Chuyến bay của Luân từ Canada đáp xuống phi trường Charles De Gaulle khi trời hãy còn quá sớm. Chàng qua Pháp để dự đám cưới con gái của Đạt, bạn chàng, ở Calais, một thị trấn nhỏ ở vùng biển Manche. Luân có một người anh ruột ở ngoại ô Paris mà chàng sẽ gặp hôm nay. Sau thủ tục nhập cảnh, Luân lấy taxi về thẳng Gare du Nord. Chàng vào mua vé và tìm hộc khóa cất hành lý. Chàng sẽ đi Calais vào buổi chiều. Chàng dành buổi sáng đi thăm thành phố. Luân ra khỏi nhà ga, chàng chậm rãi đi bộ. Mùi cà phê đậm đà trong không gian làm Luân thật dễ chịu. Chàng đi lạc vào những con phố vắng và xinh đẹp, thành phố không còn quen thuộc với chàng nữa! “Tôi chỉ là con chim đến từ núi lạ”, chàng chặc lưỡi, nhủ thầm. Ngày cũ, mỗi khi về thành phố để thăm anh Bá, lúc đó là sinh viên y khoa, chàng không ở lâu quá một ngày vì còn về Provence thăm Christiane.
Những háo hức đam mê của tuổi trẻ thật đáng yêu. Luân vừa cất bước vừa suy nghĩ miên man về quãng đời đã qua. Chàng ngắm con sông với bờ quai vắng vẻ. Những cây cầu trên con sông Seine còn quyện trong sương mù buổi sáng. Cảnh trí thật đẹp, thật quyến rũ nhưng không lưu luyến, không vương vấn hồn chàng bằng những bờ xa, những bến vắng mà chàng đã đến, đã đi trong cuộc đời hải nghiệp.
Chàng bước xuống cầu đi qua bờ tả ngạn. Chàng đứng lâu ở công viên nhỏ cạnh nhà thờ Saint Julien, chiêm ngưỡng nét đẹp của ngôi Vương cung Thánh đường trong ánh nắng ban mai. Luân tiếp tục đi về khu Latin, giờ này các tiệm sách trên đường Mich còn đóng cửa. Chàng ghé vào một Bistro, người hầu bàn mang đến cho chàng một tách cà phê. Luân uống ngụm cà phê đầu tiên trong ngày, nhắm mắt, cà phê ngon thật, đen sánh. Bỗng nhiên ký ức mạnh mẽ từ đâu kéo về chàng thấy lại hình ảnh một quán nước tiêu điều và đổ nát ở chân dốc cây cầu nhỏ Đông Ba… Thành phố Huế, cảnh vật Huế cũng tiêu điều và đổ nát trong cái Tết Mậu Thân. Do một tình cờ hãn hữu, duyên đoàn Hải Quân của chàng trong chuyến hải hành từ Đà Nẳng ra Cửa Việt vào cuối tháng 1, 1968 đã vào Cửa Thuận An để tránh biển động. Bất thần cuộc tấn công Mậu Thân xảy ra khiến đơn vị Luân đã tham chiến ở mặt trận Huế ngay từ đầu. Đoàn ghe Duyên đoàn, một hạt cát trong trận chiến Huế, đã chiến đấu ròng rã cùng các đơn vị Bộ Binh để giải tỏa khu vực, từ Bao Vinh lên tới cửa thành Đông Ba, dọc theo con sông Hàng Bè, Duyên đoàn đã giữ được trục liên lạc đường sông giữa Huế và cửa biển Thuận An để nhận lãnh những tiếp liệu hiếm hoi cho những người lính Sư đoàn I đang chiến đấu trong cực kỳ khó khăn. Huế hồi sinh khi lá quốc kỳ thân yêu cờ vàng ba sọc đỏ tung bay phất phới trên kỳ đài Phú Văn Lâu, ngày 24 tháng hai 1968. Tuy nhiên thành phố vẫn chưa gượng dậy được sau cái Tết thảm khốc. Trong điêu tàn và giá buốt của mùa đông Cố Đô, Luân uống ngụm cà phê nóng đầu tiên sau gần sáu tuần lễ chiến đấu liên tục. Duyên đoàn Hải quân vốn là đơn vị nhẹ, không được trang bị vũ khí nặng, nên tổn thất rất lớn. Luân không thể nào tưởng tượng nổi, chỉ ba năm sau khi hồi hương, chàng đã bị ném vào cơn lốc chiến tranh tàn khốc như vậy. Người lính Bộ binh khắc khổ, cùng ngồi trong quán, ngậm ngùi tâm sự “thiếu úy ở Sài Gòn ra chứ tụi tui ở Huế, vợ con ở Huế hết, chừ đứa thì thất lạc, đứa thì chết, đau xót lắm thiếu úy ơi”. Ôi, vị đắng của tách cà phê gạo rang hôm nào hình như ngọt ngào hơn cái cay đắng của quê hương chàng!
Bistro đã bắt đầu đông khách, Luân trả tiền và bước ra khỏi quán. Chàng ngắm phố xá hai bên đường Bonaparte, chàng dừng lại trước nhà thờ Saint-Germain-des-Prés. Chàng bước vào bên trong giáo đường, đến trước tượng Đức Mẹ Notre Dame de Consolation. Những ngọn nến cầu nguyện lung linh, phả một ánh sáng huyền hoặc lên khuôn mặt bức tượng. Chàng đứng yên. Nét mặt thanh tú của người bạn gái năm xưa thấp thoáng trong trí nhớ. Chàng quen với Christiane năm chàng được học bổng về học Droit Maritime ở Bordeaux. Chàng từ giã cuộc sống hải hồ. Bởi vì, đôi khi “gió hỡi gió, phong trần ta đã chán”. Mùa giáng sinh của năm học đầu tiên, chàng theo bạn về ăn Noel tại Digne và chàng được giới thiệu với Christiane. Hai người mến nhau từ dạo ấy. Christiane đang học năm cuối trung học. Cuối năm cử nhân II, sinh viên theo thương thuyền để thực tập về những sinh hoạt liên quan đến luật hàng hải. Mộng hải hồ tưởng chừng như đã lãng quên bổng sống dậy. Tiếng gọi của biển khơi thôi thúc quá, bây giờ thì Luân biết chàng không thể nào xa rời hải nghiệp, mặc dầu ngành Droit Maritime chắc chắn sẽ cho chàng một cuộc sống sung túc, bình dị. Chàng xin nghỉ học, làm sĩ quan đương phiên cho một thương thuyền viễn dương chạy tuyến Bắc Âu-Nam Mỹ. Chàng đã nhiều lần theo Christiane về thăm quê quán nàng, vùng thung lũng nắng ấm Valensole “La Vallée Ensoleillée”. Mùi hương lavande như còn phảng phất. Rồi chàng quyết định hồi hương, lần gặp cuối cùng ở Montpellier-Christiane đang học đại học ở đó, chàng và Christiane chỉ giữ im lặng, hai tâm hồn đã giao cảm… Chàng đã nắm tay Christiane thì thầm “Combien je t’aime, combien je te veux… pure et sainte… “ Tình cảm hai người đẹp như mây trời và lãng mạn như một áng thơ cổ điển, chàng chưa một lần… hôn môi Christiane. Về Việt Nam, chàng còn giữ liên lạc với nàng cho đến ngày nhập ngũ. Ánh nến vẫn lung linh, chàng thầm ước cho nắng vẫn vàng trên thung lũng Valensole.
Khi Luân đến quán cà phê quen ở đường Saint Benoit thì đã thấy anh Bá ngồi đợi trong quán. Anh Bá đã nhiều lần sang thăm Luân ở Canada. Anh Bá dặn dò Luân về ở chơi lâu với anh sau vụ đám cưới. Anh đã về hưu năm ngoái nên có rất nhiều thì giờ để đưa Luân đi thăm lại nước Pháp. Sau khi ăn trưa, anh đưa chàng đến nhà ga và hai anh em chia tay.
Xe lửa chuyển bánh, Luân thấm mệt, có lẻ vì sự khác biệt giờ giấc giữa Canada và Pháp. Chàng nghĩ tới Đạt, về cuộc gặp gở lần cuối ở Việt Nam…
Luân và Đạt cùng ở chung một giang đoàn thủy bộ ở Cà Mau năm 1969. Thời điểm này Mỹ đang đẩy mạnh kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh để rút quân đội Mỹ về nước. Đầu năm 1970, Đạt thuyên chuyển về Hạm Đội, phục vụ trên một Dương vận hạm loại LST. Tháng 3, 1970, Mỹ đở đầu cho Lon Nol đảo chánh ông Hoàng Sihanouk. Tình hình Cao Miên càng ngày càng tồi tệ. Người Việt sinh sống an lành với dân Miên từ bao đời ở xứ chùa Tháp bị công khai khủng bố, cáp duồn.
Tháng 5, 1970, quân lực VNCH bắt đầu chiến dịch giải cứu và hồi hương đồng bào. Lực lượng Thủy bộ của Luân đánh thốc qua biên giới, hành quân ngược dòng sông Mékong, lên tận thủ đô Nam Vang, yểm trợ cho công tác hồi hương đồng bào tại hai tụ điểm Nam Vang và Neak Luong trên bờ Mékong.
Trong khi đó, Đạt tham gia chiến dịch tại vùng vịnh Thái Lan. Đồng bào được tập trung về cảng Sihanouk Ville, tạm trú trong các tu viện, trường học để đợi chiến hạm HQVN di tản. Suốt chiến dịch Đạt đã làm công việc với rất nhiều nữ tu để điều hành công tác cứu trợ. Vào khoảng cuối tháng 5, 1970, chiến dịch chấm dứt với gần một trăm ngàn đồng bào được hồi hương và tái định cư.
Năm 1974, chàng và Đạt cùng thụ huấn khóa Tham Mưu trung cấp Hải Quân. Mãn khóa, Đạt được đề cử chức vụ Hạm Phó một hải vận hạm. Luân thuyên chuyển về Tân Châu với chức vụ Chỉ huy phó giang đoàn tuần thám. Giang đoàn trang bị toàn loại giang tốc đỉnh P.B.R với vận tốc cực nhanh trên sông. Thời gian nầy cường độ chiến tranh rất khốc liệt song song với việc rút quân gia tăng của Mỹ. Hải lộ sông Mékong từ biên giới Tân Châu qua Nam Vang bị áp lực nặng của Khmer đỏ, có những tháng không một thương thuyền tiếp tế nào lên tới được cảng Nam Vang. Tháng 3, 1975 khi Luân về căn cứ Hải Quân Bình Thủy ở Cần Thơ để nhận lảnh 2 giang tốc đỉnh bổ sung cho đơn vị, chàng gặp Đạt, chiến hạm của Đạt đang ủi bải tại căn cứ. Chiến hạm vừa từ Sihanouk Ville quay về trong một công tác di tản khẩn cấp các viên chức cao cấp Cao Miên lẫn các nữ tu thuộc tu viện mà Đạt đã công tác năm 1970.
Đạt kể, một vị nữ tu đã kín đáo gặp chàng trên chiến hạm, bà từ tu viện Nam Vang trở về Sihanouk Ville trước khi đường bộ bị cắt đứt. Tu viện Nam Vang còn lại 4 vị nữ tu tình nguyện ở lại để chăm sóc các trẻ tàn tật vô gia đình. Tình hình Nam Vang rất bi đát tại các khu vực Khmer đỏ chiếm đóng, chúng đã bắt đầu hành quyết các tu sĩ, nữ tu, cùng các nhà sư Phật giáo. Bà trao cho Đạt tập nhật ký của vị nữ tu đã tình nguyện ở lại Nam Vang. Đạt vô cùng ngạc nhiên và bàng hoàng. Đạt nhớ rõ vị nữ tu đã cộng tác cùng chàng trong công cuộc cứu trợ của 5 năm trước, nhưng chỉ ngần ấy thôi. Đạt luôn luôn kính trọng và nghiêm túc với các vị.
Nhật ký ghi lại các xáo trộn, đột biến tâm linh kể từ ngày vị nữ tu… gặp Đạt và cảm thấy đã phạm tội vì đã xa rời thánh ý để bị cuốn hút vào những hệ lụy, những vướng mắc trần tục. Sự dằn co giữa tình yêu thánh giá và những tình cảm luyến ái trần thế thật day dứt và gay go, cuối cùng nữ tu phải thú nhận cùng mẹ bề trên để mong được cứu vớt. Bề trên đã gởi nữ tu về tu viện Nam Vang năm 1971, ở đấy có bệnh xá chữa trị cho các trẻ em bị thương tật về chiến tranh. Quả nhiên, Ơn trên đã đáp ứng sự cầu nguyện chân thành của nữ tu. Với khung cảnh mới, với trách vụ mới, Đức Tin Mặc Khải đã trở lại với con tim thánh thiện, sự mầu nhiệm đã xảy ra, vị nữ tu đã khôi phục trên phương diện tâm linh. Trang cuối, bà ghi “nếu số phận khiến cuốn nhật ký này đến được tay ông thì đó là chứng tích của Phép lạ cứu rỗi mà Thiên Chúa đã ân sủng cho tôi. Tôi đã vấp ngã trên con đường đức tin và Thiên Chúa đã thương yêu nâng đỡ tôi dậy khiến tôi vững vàng tiếp tục dấn bước. Xin chào từ biệt ông, con người trung chính mà Thượng Đế đã chọn để cho tôi được thử thách. Tôi hằng cầu nguyện cho ông”.
Nghe Đạt kể tới đây, Luân biết định mệnh đã gọi đích danh chàng… ôi! thiện tai. Tận đáy cùng của ký ức, hình ảnh của một tu viện cũ kỷ, nằm im bóng ở một bến bờ hoang liêu, Port Moresby, Nouvelle Guinée, lại hiển hiện với bóng dáng của những vị nữ tu áo dòng trắng người Pháp cô đơn, yên lặng nhìn theo con tàu viễn du mang quốc kỳ Pháp của chàng ra khơi. Hình ảnh ấy đã ghi sâu vào cõi vô thức của tâm hồn chàng khiến chàng luôn bị ám ảnh và mơ hồ chờ đợi một điều gì sẽ xảy ra. Bây giờ thì đã rõ rệt, định mệnh đã dùng sự an nguy của vị nữ tu xa lạ để thách đố chàng. Chàng quyết định dấn thân… “Tau biết rõ địa điểm của tu viện, còn giang hành trên sông Mékong tau nắm rất vững, mình đi!”
Đạt theo Luân lái giang đỉnh về Tân Châu, Luân tính toán nhanh trong đầu về giờ các con nước thủy triều, giờ trăng mọc và lặn trong đêm, vị trí của Khmer đỏ dọc theo sông Mékong… Về căn cứ Luân trình bày với viên sĩ quan chỉ huy về ý định giải cứu các vị nữ tu ở tu viện Nam Vang đúng như chàng dự đoán, người sĩ quan hào hiệp này đã không ngăn cản.
Luân thảo luận qua chi tiết hành quân với ông trên tấm bản đồ quân sự U.T.M, cũng may vào lúc này cứ điểm Neak Lương nằm trên sông Mékong vẫn còn nằm trong tay quân chính phủ, giang đoàn Luân vẫn bí mật vượt biên để yểm trợ cho quân bạn đồng thời để phục kích tấn công các đường dây kinh tài của địch.
Luân giang hành qua khỏi Neak Lương vào hai giờ khuya, ba giang tốc đỉnh tiếp tục di chuyển cho đến 5 giờ sáng thì Luân hướng dẫn các PBR vào ẩn núp trong các con rạch rậm rạp ven sông Mékong. Thời gian chậm chạp trôi qua, đến 7 giờ đêm giang đỉnh bắt đầu di chuyển đến mục tiêu.
Hợp đoàn đến tọa độ đổ quân khoảng một giờ khuya, địa điểm này cách tu viện khoảng 300 thước, về hướng hạ dòng. Từ đây về Nam Vang chỉ còn 10 cây số đường sông. Thành phố Nam Vang đang bị pháo kích dữ dội, hàng loạt hỏa tiển 122 ly đổ xuống thành phố, nhiều khu vực bị thui rụi, lửa cháy rực trời… Khmer đỏ đang nổ lực tấn công thủ đô để dứt điểm.
Toán đột kích gồm 5 người kể cả Luân, Luân thận trọng mở đường, chàng tiến thẳng góc với bờ sông, sâu vào đất liền khoảng 100 thước mới đổi hướng tiến về tu viện.
Một toán Khmer đỏ đang dừng hút thuốc, tán gẩu trước cửa tu viện, chúng hò reo thích thú nhìn thành phố Nam Vang đang bốc cháy. Luân ra hiệu cho viên thượng sĩ phụ tá, cả đám im lặng quan sát vòng đai tu viện. Kinh nghiệm trận mạc đã dạy, khinh địch và khinh suất là chết. Viên thượng sĩ phát hiện-với ống nhòm hồng ngoại tuyến-hai tên Khmer đang đứng gác khuất trong bóng đêm dày đặc.
Luân và viên thượng sĩ bò rất chậm về phía địch từ hai hướng khác nhau. Những tiếng nổ của hỏa tiển pháo kích đã át hẳn tiếng nổ của hai khẩu súng hảm thanh. Những tên còn lại được thanh toán gọn nhờ yếu tố bất ngờ.
Viên thượng sĩ và 2 đoàn viên ở lại bên ngoài, Luân và Đạt đột nhập vào tu viện, bóng tối mênh mông và im lặng. Luân thận trọng quan sát, chàng phát hiện hai bẩy lựu đạn.
Tu viện bị đập phá, hư hại rất nhiều. Luân đi vào cánh trái của tu viện, chàng nghe tiếng người rì rầm trong căn phòng leo lét ánh nến, Luân tông cửa, sẳn sàng tác xạ, ồ bốn vị nữ tu đang thì thầm cầu nguyện. Luân ra dấu cho Đạt vào phòng, một vị nữ tu đăm đăm nhìn Đạt rồi ngất xỉu. Luân vắn tắt báo cho một vị mà chàng đoán là bề trên vì dáng dấp uy nghi của bà về công tác của chàng… vị bề trên cho chàng biết Khmer đỏ đã đuổi hết các trẻ ra khỏi tu viện cả tuần, còn các bà thì bị chúng giam giữ.
Luân lấy nước lạnh cứu tỉnh vị nữ tu. Một đôi mắt mở ra nhìn chàng, ánh mắt như xác tín cùng Luân, con người đôi khi vẫn vượt thắng được số mệnh.
Luân cùng viên thượng sĩ hướng dẩn mọi người di chuyển đến điểm hẹn với các giang tốc đỉnh. Từ đó về đến Neak Lương bề ngang sông Mékong rất rộng, qua khỏi Neak Lương, hướng về biên giới Việt Nam, có đoạn bề ngang rất hẹp. Mặt trời đã lên cao, toán giang đỉnh bị phục kích khi vừa qua khỏi Neak Lương, lưới đạn dày đặc. Nhờ vào vận tốc cực nhanh và khả năng vận chuyển dể dàng 2 PBR đi đầu chỉ bị thiệt hại nhẹ, giang đỉnh Luân đi cuối bị trúng đạn B40, một xạ thủ đại liên bị tử thương. Luân bị trúng mảnh đạn vào mặt, gần đến biên giới, áp lực phục kích giảm dần.
Về đến căn cứ Luân bảo Đạt đưa ngay các vị nữ tu về Cần Thơ bằng xe đò cùng với Đạt, vì chiến hạm của Đạt còn ở đó. Luân lo tải thương, bổ sung thêm đạn dược, nhiên liệu cho giang đỉnh rồi đi nhận công tác ở địa phận tỉnh Hồng Ngự.
Chàng và Đạt không gặp nhau cho tới hôm nay.
Vợ chồng Đạt đón Luân tại nhà ga Calais. Vợ Đạt bảo ngày mai đám cưới của cháu gái sẽ dành cho Luân một ngạc nhiên. Đạt chỉ mĩm cười kín đáo. Sau buổi cơm tối rất vui, Luân đi nằm. Chàng mơ thấy vợ chàng dẫn con nhỏ đi thăm chàng ở trại tù cải tạo. Tỉnh dậy, chàng giật mình toát mồ hôi, không phải vì ký ức tù đày, mà vì chàng đã quên gởi postcard về cho vợ con như đã hứa..
Hôn lễ cử hành tại một ngôi nhà thờ nhỏ ở làng Saint Omer, cách thị trấn Calais một giờ xe hơi. Sau thánh lễ, hai họ qua tòa thị chính nhỏ xíu bên cạnh làm lễ ký hôn thú, rồi uống rượu mừng.
Luân ra vườn, ngồi dưới một tàng cây lớn, chàng nhắm mắt dưỡng thần. Bỗng một giọng nói nhẹ nhàng như sương khói: “Chào ông, ông Luân, cảm tạ thượng đế đã cho tôi được gặp ông”. Luân ngạc nhiên nhìn lên, một vị nữ tu dáng dấp thật thanh thoát đang chắp tay mĩm cười nhu mì nhìn chàng. Luân đứng bật dậy, chàng nhìn ánh mắt vị nữ tu. Đôi mắt trong sáng quá, thanh cao quá, thánh thiện quá. Chàng cảm thấy một niềm vui khôn tả tràn ngập lấy tâm hồn chàng!
Chàng cùng vị nữ tu đi dạo trên con đường làng tĩnh mịch. Chàng nói về những bờ xa, biển vắng mà chàng đã đi qua. Chàng kể chuyện về một tu viện ở một chốn thật xa xăm. Chàng kể về những cánh đồng Lavande ở chân dãy núi Alpes, về xứ sở thân yêu và đau thương của chàng… vị nữ tu yên lặng nghe, chàng biết bà lấy lại sự bình an cho tâm hồn đã từ lâu. Chàng biết bà đã được ân sủng cứu rỗi qua cơn thử thách, chàng cảm nhận những điều đó trong nỗi im lặng thanh khiết của bà. Qua ngôn ngữ của im lặng, chàng biết giữa tâm hồn thánh thiện xuất thế và những con người chính trực đã có một nối kết tâm linh thuần khiết và nhiệm mầu.
Trên chuyến xe lửa trở lại Paris, Luân biết Luân sẽ rủ anh Bá đi Provence với chàng. Luân sẽ ghé Digne thăm ngôi trường cũ của Christiane để hỏi thăm tin tức nàng. Luân sẽ trở về Valensole để thăm lại mái nhà xưa với những cánh đồng lavande. Chắc chắn Luân sẽ gặp lại Christiane, chàng sẽ khoe với bạn hình ảnh vợ con chàng và sẽ hỏi thăm thật nhiều, thật lâu về bạn, về chồng, về con của bạn. Chàng nghĩ đến người vợ thân yêu của chàng và nhất là đứa con gái chàng, nó sẽ kêu lên, với giọng Việt Nam ngọng nghịu, dễ thương của người Mỹ.
« Trời đất ơi! Ông già xấu xí và tội nghiệp của con cũng có romantic nữa à ? Không tin được, không tin được. »
Hoàng Mộng Giới

Trường Xuân – Trường Xuân

            TRƯỜNG XUÂN – TRƯỜNG XUÂN
vnhanghaiphap : Sau đây là một vidéo về tàu Clara Maersk ghé bến Hongkong ngày 4 tháng Năm 1975 với những người di tản và cuộc phỏng vấn với Thuyền trưởng Anton M.Olsen   https://vimeo.com/48687397
Giao Chỉ – San Jose (VietTribune)Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng : Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light)
* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ…
            Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.

Thuyền Trưởng Phạm Ngọc Lũy

Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75. Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào. Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.

Saigon hấp hối:
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng.
Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi. Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.
Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ:
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân. Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975. Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.
Trở lại với Trường Xuân:
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế !
Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.
Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó. Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào. Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.
Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong. Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia. Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu: “Có người rớt xuống biển.” Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.
Tại sao? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.
Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.
Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”
Ra đời giữa trời biển mênh mông:
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.
Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.
Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân!
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám ngưới đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.
Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.
Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.
Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.
Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.
Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.
Một thế hệ tương lai:
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.
Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống xót, một Trường Xuân Baby.”
35 năm nhìn lại:
Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.
Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.
Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Chuyến đi của Trường Xuân.
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh.Trên con tàu vô định
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua…
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại…
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi…
Giao Chỉ, San Jose