Người tìm Mùa Xuân

NGƯỜI TÌM MÙA XUÂN

 

Sơn Vũ

Trích Giai phẩm Xuân Hàng Hải 1971

                Biển tối om. Thật lạnh ! Một vài đóm sao. Yên lặng đến hoang sơ dù trời sắp vào Xuân. Cô Lý dọn dẹp quán từ mấy hôm trước để xông nhà ăn Tết. Sao Hôm vừa lặn, hai người đàn ông đẩy cửa bước vào. Nét mặt rạm nắng, góc cạnh của người già không dấu được đôi mắt đầy sức mạnh và uy quyền. Người trẻ có mái tóc bồng hoe vàng vì nắng. Khách lạ có cái nhìn độc đáo đến nổi cô Lý phải để ý. Họ gọi rượu và uống yên lặng. Bên ngoài trời gió và sóng vổ.

                Người già nhìn nàng chăm chú. Nàng không đẹp lắm, nhưng những đường nét gần gũi, cảm nhận được làm ông xúc động. Thật ra, ông là một thủy thủ già, nhưng ông chưa nhận thấy như thế. Bỏ nhà ra đi từ lúc lên mười. Bốn mươi năm với biển cả, ông chưa có một bến trọ. Nhiều người đàn bà đã đi qua vòng tay ông, nhưng người yêu chưa một lần đến. Với sự quả cảm và tài chỉ huy thần khốc, ông đã làm cho các thuyền buôn lậu khiếp đảm. Sói đen. Một con sói biển lạnh lùng như một pho tượng bằng sành. Ý tưởng ấy làm ông nhếch mép. Những tháng ngày dài sống cô đơn trên biển cả, ông chỉ có mỗi một thằng Bẻo. Nhưng chưa bao giờ thằng Bẻo nghe ông nói với nó một câu âu yếm. Những lúc buồn. Những lúc buồn, nó nghĩ như thế, nó thấy ông yên lặng thở khói nghi ngút từ cái ống vố bằng gỗ Anh Đào.

                Rồi một buổi chiều, khi nhìn cánh én thiên thần mang tin Xuân về cho thủy thủ, người ta thấy ông thoáng buồn. Ông lấy ra một bức hình cũ kỹ và nhìn rất lâu. Ánh sáng vàng khè buổi chiều hằn lên từng vệt sâu trên mặt ông. Thằng Bẻo dụi mắt hỏi :

                – Ông có bịnh không ông ?

                Ông bổng đứng phắt dậy, gương mặt đột ngột trở về nét kiêu dũng muôn đời làm nó khiếp sợ.                

                – Không, ông đáp cụt ngủn, hay xếp đồ đi con.

                Và ông dừng bước giang hồ … vì khao khát một mái nhà mà ông chưa một lần có. Khó mà biết được nhưng một điều chắc chắn là hình ảnh nàng Lý làm ông nao nức. Ông lấy bức ảnh cũ kỹ dạo nào nhìn một lần nữa. Ông nhếch mép :

                – Mùa Xuân đã về !

                Mùa Xuân ấy có hai người thủy thủ lạ, một già, một trẻ dừng bước ở làng chài.

                Ông bước ra ngoài, ông không muốn thấy cảnh « bọn trẻ » âu yếm. Một con hải âu kêu buồn. Biển cả. Con tàu. Tình người. Ông vừa kịp nhận ra là mình đã già. Cô Lý chỉ xem ông như một người cha. Sao đêm vẫn lặng lẽ hành trình. Loài sao biển cũng biết đi tìm người yêu nữa em Lý ạ ! Sao em không có cái nhìn âu yếm thay vì chối từ ? Sao em không vòng tay đón nhận một con sói biển trong ngày về ? Như một mến thương, như một trao đổi giữa người với người ? Người ta có thể san sớt tất cả. Trừ tình yêu. Phải không Bẻo ? Nhìn một con sư tử nằm trong chuồng sắt, ta mới thông cảm cho số kiếp con Sói biển già …

                Khi bọn trẻ thức giấc, chúng không thấy người « cha già » nữa. Ông đã ra đi vĩnh viễn. Bọn trẻ nhớ thương nhưng rồi cũng quên đi. Chỉ riêng ông đi tìm một mùa Xuân không bao giờ đến nữa.

Sớ Táo Quân

Sớ Táo Quân

 

Đào Chủng Đức – K19 Cơ Khí

Trích Giai Phẩm Xuân Hàng Hải 1971

 

Muôn tâu Thánh Hoàng

Thần Táo Hàng Hải

Nay về tâu lại

Chẳng dám nói sai

Bao việc trần ai

Suốt năm Canh Tuất

Trước tiên là việc                 

 Dân tình rên siết

Song hành Nam Việt

Vật giá lên miết

Chính phủ tăng lương

Quân Công có đường

Cuộc sống lên hương

Đở cơn túng hụt

Ai ngờ lương sụt

Đành chạy nước rút

Tham nhũng được lúc

Cùng bọn gian thương

Luật pháp coi thường

Ra tay vơ vét

Tiền bạc mất giá

Dân lại xa hoa

Ăn chơi hết ga

Lã lướt Honda

Trộm cướp nhào ra

Như không cảnh sát

Súng dao kề sát

Khổ chủ đưa ngay.

Trời chẳng thương sao ?

Miền Trung hết gạo

Lại bão ào ào

Nước lụt dâng cao

Dân chúng kêu gào

Tiêu tan sản nghiệp

Cứu trợ cần thiết

Miền Nam phối hiệp

Chẳng ai bỏ qua

Tặng phẩm gởi ra

Xoa dịu xót xa

Những kẻ trôi nhà

Hậu Giang tốt lúa

Nước lủ ùa vào

Ngập hư hết lúa

Thành thử mất mùa

Sinh viên kháng cự

Thụ huấn quân sự

Lực lượng thật cừ

Lập trường khư khư

Nhưng không kết quả

Đành lên quân xa

Để tạm xa nhà

Tập tành bắn phá

Vượt chướng ngại vật

Đội hình chiến thuật

Bò ngữa, bò sấp

Một tháng học tập

Thời gian thật gấp

Mãn khóa bồi hồi

Giả từ cá mối

Bánh tiêu nhân xôi

Nhưng chuyện đã rồi

Về nhà tỉnh khô

« Ta » chuyên đi bộ

Chẳng hề gian khổ

Chỉ có một tội

Hay dựa khi ngồi

Thụ huấn xong rồi

Cũng chưa chịu yên

Tranh đấu liền liền

Chống đối huyên thiên

Thật là lắm chuyện

Về phần Hàng Hải

Sinh viên cố chạy

Cho kịp đủ bài

Bù lại năm ngoái

Bải khóa liên miên

Quang Trung tạm biệt

Bắt đầu học liền

Dù chưa khai giảng

Sinh viên chẳng chán

Mấy thầy cố ráng

Thù lao chẳng màng

Nghĩ tội sinh viên

Lên nha động viên

Ôi thôi là phiền

Xin được gia hạn

Giấy tờ lạng quạng

Phải nộp buổi sáng

Nghe mà phát chán !

Ra trường thấy ham

Là khá mười tám

Thần chẳng nói nhảm

Đỗ hết hai bằng

Chẳng tên nào văng

Rồi lại lăng xăng

Tìm nơi thực tập

Có Ông Giám Đốc

Thuyền trưởng chính gốc

Chẳng ngại khó nhọc

Cải tổ việc học

Giáo sư tăng cường

Kỹ sư, Thuyền trưởng

Giúp đỡ nhà trường

Hướng dẫn sinh viên

Truyền lại kinh nghiệm

« Cử chỉ rất hiếm »

Đất nước đang thiếu

Giám Đốc thấu hiểu

Thi tuyển lấy nhiều

Mỗi ban hăm ba (23)

Còn thêm dự khuyết

Thần đây nói thiệt

Lo sao cho siết

Sinh viên mượn đủ

Sách vở dụng cụ

Kẻo chúng lại vu

Văn phòng số bù (10)

Nói qua sinh hoạt

Hàng Hải có khác

Sinh viên ồ ạt

Hoạt động tưng bừng

Kẻ bande, tiếp chuyện

Mừng Tân sinh viên

Tiệc trà làm liền

Bầu ban đại diện

Lập bàn pingpong

Thao dượt giờ trống

Với bao hi vọng

Đoại giải trung tâm

Sáng sớm Chúa Nhật

Đâu cở một chục

Đào, đáp hùng hục

Phát cỏ vi vút

Suốt cả nửa ngày

Thần hỏi mới hay :

Anh em tiếp tay

Cùng ban đại diện

Lập ban bóng chuyền.

Còn ban báo chí

Bài vở thiếu gì

Kẹt không có quỹ

Đành lập sổ vàng

Đi quyên đàng anh

Cho kịp hoàn thành

Giai Phẩm Hàng Hải

Trước Xuân Tân Hợi

Nội màn chọn bìa

Sao cho ý nghĩa

« Học tập và Nghề »

Cũng là khó nghĩ

Hết hạn nhận bài

Thạch lo đánh máy

Đứa khác lại chạy

Quảng cáo nhà in

Hôm gần Giáng Sinh

Các bạn nhị niên

Được đi thăm viếng

Tàu Thương Tín Một

Mới thấy (mình) còn dốt

Nhìn chung Hàng Hải

Chơi thì cũng khá

Học lại thật cừ

Bởi thế mới đừ !

Thần xin nói riêng

Về ban Đại Diện

Ôi thôi lắm chuyện !

Chủ Tịch Đại diện

Thái độ bất cần

Nhiều tên nổi giận

Đòi bất hợp tác

Khi mà tự ái

Bị chà đạp mãi

Sỉ vả hàng ngày

Cũng như báo chí

Chủ tịch chờ khi

Bài vở xong thì

Chẳng cần bay nữa !

Làm thần quá mệt

Vẻ bìa sơn phết

Bơ phờ gần chết !

Chủ Tịch khá tức

Khi năm thứ Nhứt

Chẳng thèm hợp tác

Có tên còn ác

Đòi bất tính nhiệm

Chủ Tịch Đại diện

Trở lại chuyện học

Nhiều anh năm chót

Ghi danh đại học

Chẳng phải chăm học

Mà vì « hoãn dịch » !

Bệ Hạ xót thương

Ký gấp cho trường

Được qui chế mới

Sẵn đầu năm Hợi

Thần trộm nghĩ rằng

Đã hai mươi năm

Đều đều hai năm

Học sớm nghỉ trễ

Như chẳng có hè

Còn không muốn kịp

Hết bài cần thiết

Sinh viên hơi nản

Dù có yêu nghề

Nhưng lại tức ghê

Mãn khóa vừa xong

Lính kêu đành dong

Thật chẳng bằng lòng

Vì chưa thực tập

Có qui chế mới

Khỏi phải nhắc mời

Bọn chúng hết chơi

Học hành tấn tới

Báo cáo hơi nhiều

Mà vẫn còn thiếu

Bão, biển nổi sóng

Thần đứng trên Pont

Nên lem mấy dòng

KÍnh xin Bệ Hạ

Bỏ lỗi, thứ tha

Năm sau, Thần lên

Báo cáo đáp đền

Đủ hơn năm nay

Giờ tàu sắp chạy

Thần phải về ngay

Kẻo kẹt trên này

Hết trông ăn Tết

Kính chúc Thánh Hoàng

Thọ tỷ Nam San

Đầy kho bạc vàng

Thần xin tạm biệt

Vì còn một tiệc

Đang dọn tại trường

Tạm biệt Hoàng Thượng

Làm tại Bếp Hàng Hải

Ngày Hăm Ba Tháng Chạp năm Canh Tuất

Táo Hàng Hải ấn ký

Nhật Ký Mùa Xuân

NHẬT KÝ MÙA XUÂN

 

TP

Trích Giai Phẩm Xuân Hàng Hải 1971

                Mấy ngày rồi, trời bổng nhiên trở lạnh, những cơn gió như xoáy tận lòng anh. Anh chợt nhớ bây chừ là mùa Xuân, mùa huy hoàng rực rỡ. Cảnh vật hẳn thay đổi nhiều và mang đến cho con người những giây phút thoải mái sau những ngày lao mình vào cuộc sống, cuộc tranh đấu giửa từng lớp người trong xã hội ; vật lộn với chính mình, với tha nhân để tìm những thỏa mãn cho dù là tương đối thôi.

                Bỏ ngoài tất cả những cảm nghĩ ngoại trạng, anh muốn trở về để được nhìn thấy hình ảnh em trong tâm não. Những kỷ niệm êm đềm của một mùa Xuân năm nào mà em và anh, chúng ta đã dìu nhau tận hưởng những giây phút êm đềm của mối tình đầu của những kẻ vừa biết thế nào là hạnh phúc tình yêu.

                Tối qua, lang thang tìm về kỷ niệm, anh đã mòn gót ở chợ hoa, Những hoa Cúc vàng rực rỡ, những đóa Hướng dương, những cành Mai trơ trụi lá nhưng đầy nụ hoa sắp nở. Vượt lên một đoạn đường, tầm mắt anh bổng gặp những đóa Hồng thắm làm anh chợt nhớ đến em hơn bao giờ hết. Nhìn sắc hồng, anh bổng nghĩ đến những lời em đã thốt : « Hoa Hồng tượng trưng cho tình yêu nồng nàn của những kẻ thương nhau, ửng hồng đôi má », và ngập ngừng, em nói tiếp : « như chúng ta … » Hôm đó, nếu không vì chỗ đông người, anh sẽ không ngần ngại đặt vào đôi môi đó một nụ hôn nồng nàn, dễ thương cho cô bé, đã thốt được một câu đáng yêu.

                Đại lộ vẫn đông người, em nhĩ, nhưng chúng ta dường như có thấy gì đâu, tay trong tay, mặt nhìn mặt, chúng ta như đôi cánh nhạn tung bay giửa trời Xuân.

                Hôm nay cuộc hành trình lại tiếp tục cho những người trót mang nghiệp biển cả. Tàu anh lênh đênh trên biển bao la, trước mắt là bầu trời xanh đen, ánh sáng chiếu rọi xuống mặt sóng như hàng ngàn con rắn lặn hụp. Bốn bề yên lặng, chỉ có tiếng máy và tiếng sóng đập vào thành tàu, anh nhắm mắt để dỗ giấc ngủ, anh sẽ thấy em, khuôn mặt dịu dàng, nụ cười xinh như đóa Hồng và anh ôm lấy đôi bờ vai nhỏ nhắn của em yêu, và để thấy đời không còn sóng gió nữa. Anh cố gắng, anh thao thức, hình ảnh em hiện hữu trong anh hơn bao giờ hết. Giấc mơ không đến với anh trong đêm nay.

                Tiếng gọi của người trực làm anh trở về thực tại. Anh lên đài chỉ huy, sao lấp lánh trong bầu trời tối đen : anh tìm một chòm sao quen thuộc. Đây rồi, chòm sao sáng long lanh như đôi mắt của em, và nó đã mang tên em. Con tàu thẳng hướng tới chòm sao cũng như anh đã lấy hình ảnh em để tiến bước trong cuộc đời.

                Đêm nay, anh cũng như mọi người có mặt trên tàu. Ai cũng tưởng nhớ về một mái nhà êm ấm ; đón chờ tiếng pháo khai niên, quây quần, chúc tụng nhau những lời thân tình. Nhưng không ai có được vì cuộc chiến tranh bẩn thỉu nầy vẫn còn tiếp diễn. Mặc dù ở đây, một điểm nào trong vùng biển, không phương tiện gì  để gởi về cho người thân một món quà dù rằng hai ngày nữa là Tết. Nhưng cũng như ước vọng mà tất cả những con người hiện sống trên trái đất nầy, và nhất là trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta, anh đang muốn gởi về em tất cả những gì anh đang có. Bây chừ anh đã gởi về em, anh sẽ tiếp tục gởi về em mãi mãi.

                Phương Đông đã bắt đầu đỏ ửng và trên trời, những vì sao cũng giả từ dần dần. Anh bổng buồn bã lạ, anh cảm thấy một cái gì vuột khỏi tay anh : Em vĩnh viễn xa rời và trong anh, mùa Xuân không đến nữa.

                                                                                                                   Tạm biệt và hôn em

                                                                                                                        T.P

 

 

                                                                                                                                                                                                   

Vài cảm nghĩ của một sinh viên Hàng Hải

Vài cảm nghĩ của một sinh viên Hàng Hải

 

Cao Minh Duyên – K20 Pont

Trích Giai Phẩm Xuân Hàng Hải 1971

            Trường VIỆT NAM HÀNG HẢI nằm trong Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ, một tòa nhà cũ kỹ, chứng tỏ cái hiện hữu lâu đời của nó, tiếc rằng cái hiện hữu này không tạo cho nó một hình thức trung thực, hòa hợp với bề ngoài đó, lẽ ra cái hình thức này phải già dặn, sâu sắc với niên kỷ của nhà trường.

            Cái hình thức hoàn mỹ thật ra phải có từ trước đây, nhưng những bậc đàn anh đã ra đi không lưu lại một dấu nào khả dĩ tạo được một niềm tin cho sinh viên Hàng Hải.

            Đặt bước chân đầu tiên vào trường HÀNG HẢI, người sinh viên nào cũng cảm thấy mình lạc lõng và hành động đầu tiên là bất mãn với chính mình cũng như với những người chung quanh.

            Nói lên không để đã phá cá nhân hay lớp người nào, nhưng phải nói để xây dựng cho tương lai HÀNG HẢI, để tạo ra một truyền thống mới cho các anh em sinh viên HÀNG HẢI mai sau, một truyền thống khả dĩ kiến trúc được các sinh viên HÀNG HẢI thiết thực, đầy đủ những yếu tố chuyên nghiệp và được hoàn thành ước vọng một cách thực tiển làm nổi bật trường VIỆT NAM HÀNG HẢI mai hậu.

            Muốn vậy, sinh viên HÀNG HẢI hiện nay phải tranh đấu, cần những người đại diện phấn chí, dám nói lên những nguyện vọng thích hợp với điều kiện tốt nghiệp và chuyên môn. Tương lai phải đúng với nguyện vọng, phải được thiết tha, dĩ nhiên cái không khí học hỏi và xây dựng sẽ tràn ngập ngưỡng cửa HÀNG HẢI, trên khuôn mặt sinh viên chúng ta.

            Sự thiết tha với kỹ thuật chuyên môn, lòng ngưỡng mộ nghiệp HÀNG HẢI phải được thỏa mãn và giúp đỡ một cách thiết thực chứ không thể bị bóp chết ở những bước đầu tiên này.

            Khát vọng phải được thỏa mãn, cầu xin những ai có trách nhiệm với ngành HÀNG HẢI quay lưng lại nhìn chúng tôi với cặp mắt lo lắng, với tấm lòng cởi mở để xây dựng cho những mầm non nền móng của nền kinh tế mai hậu.

            Điều cần thiết phải có ngay bây giờ là anh em HÀNG HẢI phải tạo được niềm tin, cố gắng vươn lên, đòi quyền học hỏi và hành nghề theo đúng quy tắc chuyên nghiệp ở hiện tại cũng như tương lai.

            Giá trị của kỹ thuật HÀNG HẢI phải được nâng cao, chú trọng. Như vậy sinh viên HÀNG HẢI mới có thể phát triển trí thức, tạo được nhu cầu hành nghiệp trong việc hấp thụ lý thuyết của nhà trường.

            Cái đòi hỏi hợp lý phải được những người có lương tâm chấp nhận, phải hiểu thực trạng sinh viên HÀNG HẢI và phải biết sau lưng họ còn có chúng ta, những người sẽ vùng lên để xây dựng cho tương lai HÀNG HẢI hầu phục vụ cho nền kinh tế nước nhà.

            Giá trị HÀNG HẢI phải được tường tận và sinh viên HÀNG HẢI phải được thỏa mãn, ngày cuối cùng của sự tranh đấu sẽ để lại cái vinh quang cho ngành HÀNG HẢI và cái giáo huấn thực tiển của Trường VIỆT NAM HÀNG HẢI trong việc xây dựng những bước tiến dài cho sinh viên HÀNG HẢI mai sau.

LỜI CHO MỘT MÙA XUÂN

LỜI CHO MỘT MÙA XUÂN

 

Trần quang Sang – K19 Pont

Trích Giai Phẩm Xuân Hàng Hải 1971

            Trở về đây để hòa nhịp cùng nhân thế, để xua đuổi những ngày tháng u buồn, những tâm hồn trầm lặng, những nổi sầu vu vơ. Hởi Mùa Xuân của tuổi trẻ, hãy trở về đây để cùng ca lên nhạc khúc yêu đời, bao tâm hồn đang khắc khoải chờ Xuân như miên man trong giấc mộng trường.

            Xuân về, ánh Xuân chan hòa khắp ngàn cây nội cỏ, hoa Xuân muôn màu khoe sắc thắm, mĩm cười thách đố với những nàng con gái diễm kiều đang tuổi mộng tròn. Gió Xuân bàng bạc ru hồn người người lữ thứ. Tiếng Xuân như kêu gọi lãng quên những ưu phiền, để trọn vẹn sống lại những giờ phút huy hoàng.

            Mùa Xuân đến, lan trãi, chơi vơi, hòa cùng nhân thế, len lỏi khắp nẽo đường đất nước, từ những cánh đồng bát ngát, mênh mông cho đến chốn phồn hoa đô hội.

            Tuổi trẻ của chúng ta bây giờ không còn chờ đón mùa Xuân trong rộn rã hoan ca như những tâm hồn thơ ngây, hồn nhiên của thời trẻ thơ ; cũng không trầm tư, tưởng vọng như tâm hồn các bậc lão thành. Mà tuổi trẻ chúng ta ngày nay, mỗi một mùa Xuân đi qua là mỗi lần đếm lại bước thời giạn để hướng vọng, suy tư cho chuộc sống khắc khoải miên trường.

            Những hoài vọng, những niềm tin, xây dựng kiến tạo, những tiếng nói tầm thường của chúng ta vang lên, kêu lên, hối thúc nhưng chúng ta vẫn mòn mõi đợi chờ. Không một lời đáp lại, không một niềm tin, tất cả như hư vô, như tiếng kêu từ sa mạc hoang vu, như tiếng sóng ba đào ngoài biển cả trùng khơi như tiếng la trong cái giá buốt của đêm trường.

            Xin Mùa Xuân hãy trở về đây xây dựng lại mãnh hình hài đổ vở, kết chặc lại những tâm hồn quả cảm, hướng thượng và xin lòng Xuân hãy ru ấm lại bao cõi lòng tan nát, những thất bại triền miên để cho bao mái đầu quên đi tất cả, mà hòa mình vào cung đàn chín mộng của mùa Xuân.

 

Một thủy thủ Ba Lan được cứu sống sau bảy tháng trôi dạt

Đảo  Réunion : Một thủy thủ Ba Lan được cứu sống sau bảy tháng trôi dạt trên Ấn Độ Dương

 Albatros

Zbigniew Reket, 54 tuổi thuật lại chuyến tàu trôi dạt 7 tháng trên biển

Sau cuộc hành trình kéo dài ba năm xuyên qua Mỹ, Ấn Độ, Nam Dương và bảy tháng trôi dạt trên Ấn Độ Dương, người thủy thủ người Ba Lan đã được cứu sống, bị đói khát nhưng sức khỏe không bị biến chứng đặc biệt.

Nhiều người vẫn không tin lời nói của người thủy thủ nầy nhưng những kiểm chứng của chánh quyền đảo Réunion đã xác nhận những lời khai của anh. Anh đã bị trôi dạt bảy tháng trên Ấn Độ Dương với một câu chuyện hoang đường và một cuộc cứu nạn huyền diệu ngay trong buổi chiều ngày Lễ Giáng Sinh.

Zbigniew Reket, 54 tuổi cho thấy thân thể thật gầy và chiếc tàu của anh trong tình trạng tồi tàn. Theo lời của anh, thức ăn chỉ còn đủ cho một tháng và anh đã ăn dè sẻn tối đa, chỉ ăn những phần ăn thật nhỏ. Anh cho biết được sống sót được là nhờ câu cá và phơi khô những con cá trong chiếc tàu nhỏ bé của mình. Những nhân chứng đến thăm con tàu của anh đã xác nhận điều nầy.

Trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình với anh, anh cho biết đã sống ở Mỹ năm 2014 và anh đã đến Ấn Độ để chỉ mua một chiếc tàu. Sau đó anh không thể trở về vì thẻ cư trú đã hết hạn và từ đó bắt đầu chuyến trôi nổi trên Ấn Độ Dương.

Thật ra, chiếc tàu anh đã mua chỉ là một chiếc ca nô cấp cứu cũng như những chiếc ca nô khác mà người ta thấy trên những chiếc tàu chở hành khách. Zbigniew Reket là người thích mài mò sửa chữa và dự định biến chiếc tàu của mình trở thành du thuyền trước khi đem nó trở về Los Angeles. Dự tính thật tham vọng nhưng anh không thể trở về Mỹ một cách chính thức, người đi biển Ba Lan đành xuống tàu phiêu lưu và anh đã may mắn được trở về.

Zbigniew Reket trước tiên nhắm đến thành phố Jakarta của Indonésie nhưng không đến được. Cột buồm bị gãy và những cơn gió đã đẩy con tàu trôi xa hơn về phía Tây nhưng sau cùng con tàu  cũng đến được đảo Comores trong những điều kiện hết sức khó khăn. Zbigniew cho biết đã ở lại đó trong 2 năm trời và dự định sửa chữa chiếc tàu của mình. Anh đã xin Tòa Đại Sứ Ba Lan ở Kenya giúp đở nhưng họ từ chối hồi hương anh về sứ sở, anh cho biết thêm với tờ báo địa phương Journal de la Réunion.

Sau đó, anh lại ra khơi ngày 20 tháng Năm với hi vọng đến được Nam Phi. Lần nầy, lại không có động cơ khiến con tàu trôi dạt khủng khiếp. Anh cho biết : « Nhiều lần tôi trông thấy đất liền mà không thể đến gần. Tôi cũng gặp những chiếc tàu đi ngược chiều nhưng máy vô tuyến không còn điện ». Cho đến khi trôi dạt ngoài khơi ngang đảo Réunion ngày Thứ Hai (25/12/2017) lối 7 giờ sáng, một chiếc tàu buồm đã để ý đến nó. Sau đó, một chiếc tàu cấp cứu được gởi đến và kéo nó về bến.

Khi về đến bến, người đi biển Ba Lan được giúp đở bởi Hội của những thân hữu của Thủy Thủ vùng Cảng Réunion, những người nầy đã giúp đở thực phẩm, quần áo và chăm sóc. Theo kết quả kiểm nghiệm y tế, Zbigniew bị hậu quả do thiếu ăn nhưng không bị bệnh gì đặc biệt. Người dân địa phương cho đó là một phép lạ của ngày Lễ Giáng Sinh năm 2017.

Phạm Tấn Quốc : Cuộc đời và sự nghiệp

Phạm Tấn Quốc : Cuộc đời và sự nghiệp

 

Phạm Tấn Quốc
K 17 Pont

Phạm Tấn Quốc và Thùy Dương

Sau hai năm lang thang từ Đại Học Khoa Học cho đến sở Mỹ cuối cùng rồi tôi cũng nghe lời Mẹ thi vào Trường Hàng Hải Phú Thọ. Tôi rất rét môn Pháp Văn nên chỉ chọn làm môn sinh ngữ hai, do đó khi biết trường Hàng Hải chỉ dạy toàn tiếng Tây tôi rất lo lắng khi đã được nhận vô học. Thú thật trong những tháng đầu tiên vừa được Bố dạy kèm theo mà còn phải chống chọi với căn bệnh Tê Liệt Có Định Kỳ nên cứ nghĩ rằng mình sẽ phải bỏ cuộc nửa chừng. Có lúc tôi nằm bệnh viện Chợ Rẫy để trị bệnh với Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh phải bỏ học khoảng hơn một tháng. Thầy Ducasse do có quen với Bố nên ghé qua hỏi thăm tôi. Thầy hứa hẹn với Bố sẽ đưa những bài còn thiếu và sẽ nhận tôi đi học lại khi hết bệnh. Trở lại trường được vài tháng thì Việt Cộng tấn công Mậu Thân, trường đóng cửa và toàn bộ sinh viên phải gia nhập Sinh Viên Học Đường. Vậy mà không biết thế nào tôi qua được giai đoạn huấn luyện cơ bản, được bắn bia bằng súng trường Garant lần đầu tiên và sau đó đi gác tuyến bờ sông Hàm Tử.
Đi học lại vài tháng thì đã đến mùa Hè, tôi được ông Thuyền trưởng Trương Văn Tây nhận làm thực tập dưới chiếc Trường Kỳ. Trong khoảng thời gian nầy ông đang nộp đơn xin đi tàu viễn duyên Việt Nam Thương Tín nên ông khuyến khích tôi cùng học môn Navigation và làm point bằng cách xử dụng sextant và toán hàng hải. Đến khi trở lại trường thì môn Navigation, Sextant, điều chỉnh la bàn, starfinder đều đã rất vững vì thực tập nhiều lần. Ngoài ra môn đánh đèn hoặc hải hành đường sông Saigon, ra vô các hải cảng miền Trung tôi đều rành rẻ. Tôi ra trường năm 1969 với điểm khá cao, Á khoa bằng Viễn Duyên và thủ khoa bằng Cận Duyên. Được nhận trở lại Trường Kỳ với tính cách sinh viên thực tập chính thức. Tháng 7 năm 1969 tôi làm Sĩ Quan Phụ Tá trên chiếc Sao Mai, rồi trở lại tàu Trường Kỳ làm Sĩ Quan Phụ Tá và sau đó lên làm Thuyền phó trong tháng sau đó. Đầu năm 1970 bị động viên vào khóa 1/70 Thủ Đức về phục vụ Hạm Đội Hải Quân từ năm 1970 cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
Việt Nam Cộng Hòa tan rã, đi tù cho đến tháng 6 năm 1978 bị đưa về giam lỏng kinh tế mới Lai Khê. Tháng 11 năm 1978 bị đưa qua Kratie làm dân công hỏa tuyến đi xâm mìn. Tháng 1 năm 1979 trốn về Saigon, sau đó được mướn làm thuyền trưởng ghe đăng ký ở Long An. Tháng 9 năm 1979 các ghe đăng ký bị hủy bỏ trốn về Saigon đến tháng 11 thì phụ người bạn đóng ghe chui ở Cầu Chữ Y. Tháng 1 năm 1980 vượt biên thành công được tàu quân sự Mỹ vớt, sang Mỹ tháng 3 năm 1980, sáu tuần lễ sau khi rời Saigon. Tháng 3 năm 1989 đoàn tụ lại với vợ và ba con. Không may vợ bị bệnh nan y và qua đời năm 2009.
Về hưu từ năm 2009, hiện sống tại Nam California với người vợ thứ hai, Thùy Dương.

Những con tàu có thể làm thay đổi biển cả mãi mãi

Những con tàu có thể làm thay đổi biển cả mãi mãi

Bài tiếng Anh trên BBC Future

Tàu thông minh hơn trong tương lai sẽ cho phép các chủ tàu kiểm soát hiệu quả hơn sự di chuyển ?

Việc vận chuyển hàng hoá qua các đại dương là rất quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, nhưng tàu biển làm bẩn hành tinh đã sẵn bị ô nhiễm. Một số giải pháp thiết kế để sửa chữa có vẻ như được lấy trực tiếp từ khoa học viễn tưởng.

Tháng trước tại San Diego, California, một kỹ sư ngồi trước máy tính và cầm một cần điều khiển ở trên bàn phía trước. Ông không chơi video game, ông đang lái một tàu hàng đồ sộ cách bờ biển Scotland hàng ngàn Km.

Cần điều khiển này được kết nối trực tiếp với chiếc tàu đó, thông qua vệ tinh, cho phép ông kiểm soát động tác của nó một cách chính xác, hoàn toàn điều khiển từ xa bằng tay. Ông quan sát cẩn thận vị trí đang thay đổi của con tàu ảo được đánh dấu trên màn hình. Trong khi đó, trên boong của chính tàu này, những công nhân khác giám sát việc thử nghiệm này quan sát các thiết bị và cảm thấy con tàu bập bềnh dưới chân mình. Trong 4 giờ thử nghiệm (do hãng năng lượng và công nghệ Wärtsilä của Phần Lan tiến hành) con tàu được người đồng nghiệp của họ điều khiển cách đó nửa vòng trái đất.

Hãng Wärtsilä tin rằng các tàu thông minh hơn trong tương lai sẽ cho phép các chủ tàu kiểm soát hiệu quả hơn sự di chuyển của tàu, giảm được tiêu thụ nhiên liệu và chất thải. Đó là một ý tưởng đầy tham vọng để giải quyết một thách thức lớn của thế kỷ 21, trong đó chúng ta cùng nhau liên kết chặt chẽ hơn trong thương mại toàn cầu, nhưng cũng phải đối mặt với biến đổi khí hậu mà nó có thể làm thay đổi mô hình thời tiết, mực nước biển và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hành trình của hàng hóa di chuyển từ A tới B.

Các tàu chở hàng của tương lai có thể đi khắp các đại dương mà không có người, và thay vào đó chúng được điều khiển từ xa, cách 5.000 dặm, giống như một trò chơi video.

Hơn thế nữa những tàu này có thể không có trưởng tàu, và đến một ngày nào đó có thể được điều khiển từ xa nhiều dặm không phải bởi con người, mà bởi máy tính.

Vận chuyển là một ngành công nghiệp khổng lồ, nhưng nó không được coi là có công nghệ cao nhất. Nhiều tàu chạy như mắc cửi trên các đại dương ngày nay là kềnh càng, là các gã khổng lồ ngốn săng dầu mạnh và đã không có thay đổi gì về cơ bản trong nhiều năm.

Liệu thiết kế tàu sẽ thay đổi nhiều trong tương lai sắp tới không? Và tự động hóa, mà chúng ta đã thấy nhiều trong các phương tiện giao thông đường bộ, cũng sẽ tới ngành đường thủy hay không?

Một động lực lớn để cải tiến các tàu trên thế giới là cuộc chiến chống ô nhiễm. Trên thực tế, chỉ 16 trong số các tàu lớn nhất là đủ sản sinh ra lượng khí thải bằng với của tất cả các ô tô trên hành tinh cộng lại. Nhưng tất nhiên các công ty lớn cũng đang tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của họ.

Đây là những gì giống như một con tàu chở hàng được điều khiển từ xa bởi con người cách nửa vòng trái đất. Một mức độ nhất định về tự động hóa có thể cắt giảm chi phí đội ngũ thủy thủ.

Thử nghiệm của hãng Wärtsilä còn cần phải một thời gian nữa để trở thành một thực tế hàng ngày trong vận tải biển, người đứng đầu kỹ thuật số Andrea Morgante thừa nhận. Nhưng bởi vì các chủ tàu có thể cắt giảm chi phí một cách đáng kể bằng cách loại bỏ đội ngũ thuyền nhân trên tàu nên ông tin rằng điều nói trên là có tiềm năng.

« Bạn có thể tưởng tượng những hình thức mới của tàu kéo được điều khiển từ xa, để hỗ trợ các tàu thuyền trong bến cảng, » ông nói. Một lựa chọn khác sẽ là các tàu vận chuyển hàng hoá quanh các cảng hoặc dọc theo bờ biển.

Trên thực tế, một hãng đã kết hợp với những hãng khác để thử nghiệm và triển khai các tàu hoàn toàn tự hành mà không cần người hoa tiêu là hãng Kongsberg của Na Uy.

Tàu Yara Birkeland, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm tới, được tuyên bố là tàu vận tải tự hành đầu tiên trên thế giới.

Hãng đang chế tạo hai tàu, Hrönn và YARA Birkeland. Birkeland, một tàu container dài 80 mét cũng sẽ chạy hoàn toàn bằng điện và dự kiến sẽ hoạt động vào nửa cuối của năm 2018.

Peter Due, giám đốc về tự hành của hãng Kongsberg, ca ngợi sự chính xác của các cảm biến trên con tàu thử nghiệm của hãng.

« Một hệ thống có thể nhìn thấy một lon bia, bạn có thể không biết đó là bia Heineken hay Carlsberg nhưng bạn có thể thấy một lon đang trôi tới, ông giải thích. Việc học của máy tập luyện cho hệ thống biết loại vật thể nào là quan trọng để tránh, ông nói thêm.

« Một con hải âu thì không đáng phải lo nhưng nếu là một người đang bơi thì nó sẽ nhận ra và sẽ có hành động thích ứng. »

Một báo cáo gần đây của đại học Southampton cho thấy tàu tự hành sẽ ra đời nhanh hơn dự kiến, vì chi phí kỹ thuật bị giảm và phải giải quyết vấn đề thiếu lao động trong một số khu vực của vận tải biển.

Tuy nhiên, như Due đã nói, các cơ quan như Tổ Chức Hàng Hải Quốc Tế (IMO) có lẽ sẽ phải mất vài năm để lập ra các quy định cho phép các tàu tự hành hoạt động trên vùng biển quốc tế. Tuy nhiên, trong vùng biển quốc gia, luật địa phương có thể cho phép áp dụng nhanh hơn các hệ thống này, ông nói thêm.

Bất kể ai hoặc cái gì đang lái những con tàu tương lai (có thể là con người hoặc robot?) thì việc thiết kế các con tàu thương mại lớn và phát ra khí thải đã sẵn sàng thay đổi. Và đó là một cách khác mà các phương tiện giao thông quan trọng này có thể làm giảm tác động của chúng lên hành tinh.

Thí dụ có thể làm các tàu bằng vật liệu composite như sợi thủy tinh và nhựa, mà chúng có thể làm giảm đáng kể trọng lượng của một số tàu và do đó cải thiện việc tiêu hao nhiên liệu và tăng khả năng chở hàng.

Liên Minh Châu Âu gần đây đã đưa ra một dự án, Fibreship, để phát triển vỏ tàu bằng vật liệu composite cho tàu chở hàng dài hơn 50 mét.

Đối với một số tàu, kể cả tàu chở khách, điều này có thể sẽ có lợi, Volker Bertram, giáo sư thiết kế tàu và giám đốc dự án của công ty DNV GL, nói.

Nhưng ông nói thêm rằng đối với những tàu lớn hơn, đặc biệt là để chở hàng nặng, thì thép sẽ vẫn là vật liệu được lựa chọn.

« Nếu bạn có một chiếc tàu chở dầu mà 90% trọng lượng tàu là dành cho hàng hóa, thì không cần phải chế tạo nó theo kiểu nhẹ. » ông giải thích.

Hãng Eco Marine Power, có trụ sở ở Nhật, đang thiết kế cánh buồm cứng gắn các tấm pin mặt trời có thể lắp đặt cho tàu chở hàng.

« Khi chúng tôi bắt đầu, thì việc lắp tấm pin mặt trời lên thành buồm cứng là không khả thi, nhưng công nghệ luôn được cải tiến và chi phí sẽ giảm, » Greg Atkinson, giám đốc và trưởng ban công nghệ, giải thích.

Ông nói bất kỳ tàu nào sử dụng Aquarius vẫn sẽ cần một động cơ và nguồn nhiên liệu truyền thống, nhưng gió và năng lượng mặt trời có thể được sử dụng thêm vào để giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch.

Về phần năng lượng tái tạo, ông tin rằng khoảng 80% sẽ đến từ sức gió lên cánh buồm và thêm 20% từ các tấm pin mặt trời.

Hãng Eco Marine hy vọng sẽ thử nghiệm hệ thống này trên biển với một tàu chở hàng rời, một loại tàu thương mại lớn chở loại hàng như quặng sắt, than đá hay ngũ cốc.

Vào thế kỷ 21, đại dương đang bị tràn ngập bởi các tàu chở hàng bằng nhiên liệu hóa thạch, làm trầm trọng thêm sự thay đổi khí hậu. Nhưng các tàu tương lai có thể chạy bằng năng lượng mặt trời.

« Đây là các tàu nhắm đúng mục tiêu cho công nghệ này, » Atkinson giải thích. « Các tàu này sẽ đi khá chậm và đi ở một số vùng thuận lợi hơn về gió. »

Cũng có những hệ thống khác ở những nơi khác trên thế giới, mà kế hoạch là phát triển một con tàu chở hàng có những cánh buồm cứng, lần này là một tàu chở xe ô tô có thể chở tới 2.000 xe.

Nhưng có thêm các chi phí liên quan đến thiết kế kiểu này, và cả sự rủi ro. Những chiếc buồm cứng, dĩ nhiên, có thể là nguy hiểm khi có gió lớn, đặc biệt nếu chúng không thể gập lại hoặc gập xuống dưới sàn tàu.

« Cũng có chút lo ngại là rất nhiều ý tưởng được đưa ra, và thông qua rất nhiều ấn phẩm, nhưng chúng ta thấy tương đối ít việc lắp đặt, » Bertram nhận xét. Ông chỉ ra rằng công nghệ kỹ thuật số đang trợ giúp các nhà thiết kế tàu và giúp họ mô phỏng chính xác hơn cách mà các con tàu sẽ phản ứng trong các điều kiện khác nhau trên biển. Ông tin rằng kết quả của công việc này có thể là tiết kiệm hiệu xuất năng lượng được một vài phần trăm.

Và các kỹ thuật như in 3D có lẽ sẽ thay đổi cách sản xuất một số thành phần của tàu. Một chân vịt in 3D nguyên mẫu đã được sản xuất gần đây bởi một tập đoàn các công ty vận tải ở Rotterdam, Hà Lan.

Tất nhiên, nếu một bộ phận bị hỏng khi đang đi trên biển và cần phải thay thế thì in 3D ngay trên tàu có thể là một triển vọng hấp dẫn đối với các người chủ của một số tàu lớn nhất thế giới.

Những con tàu tương lai này, những tàu khổng lồ được điều khiển từ cách nửa vòng trái đất giống như một đồ chơi, được chế tạo từ các vật liệu của tương lai làm giảm lượng khí thải và có khả năng dùng năng lượng mặt trời, là những con quái vật to lớn của biển mà chúng có thể làm thay đổi mãi mãi bộ mặt của đại dương.

Source : http://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-41435554

Những tài liệu liên quan đến tàu tự động :

World’s First Electric, Self-Driving Ship to Launch Next Year

Youtube
https://www.youtube.com/watch?v=5VBD7hVRhx0
https://youtu.be/vg0A9Ve7SxE

Một bác sĩ cho mười bảy ngàn người

Một bác sĩ cho mười bảy ngàn người

Phan Ba

Chiếc tàu bệnh viện phải đương đầu hiện tượng, là cái đáng giá để giật tít cả một thời gian dài đối với giới báo chí. Một chiếc tàu màu trắng tất nhiên là mang nhiều biểu tượng, và cuộc chiến ở Việt Nam đang là thời sự cho tới mức một hành động nổi bật cho các nạn nhân của cuộc chiến này rất được quan tâm tới. Chiếc tàu bệnh viện đã có được một sự quan tâm và một không gian trong giới báo chí Đức và quốc tế nhiều hơn bất cứ một dự án trợ giúp về mặt y tế nào ở nước ngoài trước đây. Điều đó đối với tôi thật là bất ngờ. Khi báo chí in trước hết là những gì được người đọc của họ quan tâm tới, thì sự quan tâm của người dân trong nước [Đức], trong một quy mô nhỏ cả độc giả ở Mỹ, Úc, Pháp, Philippines, Canada và nhiều nước khác, thật đáng để chú ý đến. Đối với chúng tôi, những người chúng tôi làm việc trên tàu, thì việc đó dường như là hơi được thổi phồng lên một chút, và chúng tôi cảm thấy không thoải mái. Thật ra thì chúng tôi thích làm việc trong sự yên lặng hơn. Chúng tôi đã cải tạo một chiếc tàu du lịch trước đây với 3000 tấn tải trọng tổng thể đã đăng ký thành một bệnh viện nổi có thể hoạt động được và bây giờ muốn làm việc với con tàu đó trong một đất nước cũng rất đang cần đến công việc của chúng tôi. Việc cải tạo con tàu tương đối nhỏ này thành một bệnh viện cỡ trung là khó khăn, nhưng nhờ vào tài năng của các kỹ sư đóng tàu mà đã thành công. Cả hai điều đó, khó khăn và thành công, đều không thể nhìn thấy trước được, nếu như người ta muốn tin vào những dòng tít.

Tàu bệnh viện “Helgoland” ở Sài Gòn

Vào ngày 10 tháng 1 năm 1966, tờ ‘Abendecho’ ở Hamburg cho rằng có một bệnh viện quân đội nổi được chính phủ Mỹ thuê, và trong cùng ngày đó, tờ ‘Hamburger Abendblatt’ có thông tin tốt hơn, rằng chính phủ liên bang [Đức] sẽ thuê một ‘tàu bệnh viện quân đội’ cho Hồng Thập Tự. Trong cùng ngày đó, theo tờ ‘Bild’, chiếc tàu du lịch đã sẵn sàng hoạt động và mười tám ngày nữa dự định sẽ đến đích. Thật sự thì vào ngày 12 tháng 1, theo tờ ‘Frankfurter Rundschau’, chính phủ liên bang đã quyết định gửi một con tàu bệnh viện đến Nam Việt Nam, và đây cũng là lần đầu tiên mà người ta viết về một con tàu bệnh viện, không phải một con tàu bệnh viện quân đội. Từ Lazarett [bệnh viện quân đội] trong tiếng Đức chỉ được dùng để nói đến bệnh viện quân đội. Nhưng đó hoàn toàn không phải là một hoạt động quân sự, ngay cả khi báo chí Đông Đức tuyên bố chúng tôi là tàu chở quân và sau này còn phân cho chúng tôi cả một nhà virus học chuyên làm việc trong lĩnh vực tiến hành chiến tranh virus nữa. Thật ra thì chúng tôi rất cần một nhà virus học, nhưng có muốn cho tới đâu đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không thể tạo được chỗ làm việc cho ông.

‘Chuẩn bị ra khơi!’, tờ ‘Abendzeitung’ viết ngày 13 tháng 1. Nhưng vẫn còn cần một khoảng thời gian cho việc đó. Vì công việt tái thiết bị không kéo dài bốn mươi tám tiếng đồng hồ (‘Bild’ ngày 10 tháng 1) và cũng không phải ba tuần (‘Hamburger Abendblatt, 14 tháng 1). Nó kéo dài ba tháng. Và việc cải tạo cũng chỉ có thể được bắt đầu mãi năm tháng sau đó, vì còn phải tham khảo ý kiến nhiều giám định viên.

‘Vẫn còn chưa ra khơi’, tờ ‘Frankfurter Allgemeine Zeitung’ thất vọng in vào ngày 15 tháng 1. Bởi vì, như có thể đọc trên tờ ‘Spiegel’ vào ngày 17 tháng 1, tuy chiếc tàu được thiết kế. ‘để cũng có thể chuyên chở thương binh trong trường hợp khẩn cấp’, nhưng người ta không cần đến một chiếc tàu chở thương binh ở Việt Nam. Một chiếc tàu cần phải chở thương binh đi đâu chứ? Cần nhiều thơn là một bệnh viện nổi, nói chung là một bệnh viện. Nhưng xây dựng một bệnh viện ở nông thôn thỉ phải càn ít nhất là hai năm. Kiến lập những trung tâm băng bó hay gởi xe buýt khám bệnh di động vào làng mạc, như nghị sĩ đảng SPD Eppler được cho là đã đề nghị sau một chuyến đi thăm Việt Nam kéo dài bảy ngày, theo ‘Nhật báo Nam Đức’ vào ngày 17 tháng 3, thì chắc chắn là ít có tác dụng hơn. Ưu điểm lớn của một con tàu bệnh viện là tính sẵn sàng hoạt động tương đối nhanh mặc cho tất cả mọi sự trì hoãn.

Thời đó, nhiều người đã nghĩ đến tính thiết thực của chiếc tàu bệnh viện. Ở Việt Nam, người ta hoàn toàn không quan tâm đến một chiếc tàu bệnh viện, Volkmar Hoffmann báo cáo vào ngày 7 tháng 2 năm 1966 trên tờ ‘Frankfurter Rundschau’. Ông cũng viết ai không quan tâm đến điều đó: Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nhưng cả trong chuyến đi đầu tiên đến Việt Nam của tôi, lẫn một tháng sau đó, lẫn sau này tôi không nhận thấy điều gì khác ngoài sự quan tâm to lớn khác thường của người Việt, người Mỹ và tất cả những người khác. Trong cùng tờ báo đó, tổng biên tập của ‘Telegraf’, Arno Scholz, được trích dẫn, người ủng hộ cho ‘những trạm y tế lưu động có thể đi từ làng này sang làng khác’ và ‘trại đông người’.

Ngay từ này 13 tháng 2, tờ ‘Welt’ đã biết tường thuật về hàng ngàn tình nguyện viên sang Việt Nam, các báo khác (‘Hannoversche Rundschau’ ngày 14 tháng 5) nói về một ngàn bốn trăm người xin việc. Nhưng đó hầu như không phải là những người xin việc thật sự; ví dụ như một người chơi đàn ống rất muốn được tham gia thì có thể làm được điều gì cho có nghĩa lý? Thật sự thì cho tới giữa tháng 5 tôi có được tám đơn xin việc của các bác sĩ và trong số đó đã khuyên nên nhận sáu người. Tức là trong số hơn một trăm ngàn bác sĩ được phép hành nghề trong nước Đức có tám người thật sự sẵn sàng để làm việc ở Việt Nam.

Người ta thảo luận sôi nổi cho tới khi con tàu khởi hành. Một nhóm nhỏ các bác sĩ Hamburg còn viết một lá thư phản đối vào buổi sáng của ngày khởi hành, được hỗ trợ to tiếng bởi tờ ‘Blinkfüer’, và có những người gọi điện nặc danh muốn ‘cho nổ tung’ chiếc tàu (báo ‘Bild’ ngày 10 tháng 8). Thật sự thì chúng tôi, vào buổi tối ngày 9 tháng 8, đã đứng co ro vì lạnh quanh chiếc tàu, do cảnh sát đã coi trọng lần gọi điện nặc danh đó và đã di tản chúng tôi. Mười ngày sau đó, một người đồng hương nặc danh đe dọa thêm một lần nữa từ Hamburg, rằng chiếc tàu sẽ bị nổ tung với một quả bom hẹn giờ ở Kênh đào Suez. Nhưng vì chúng tôi vào Port Said muộn hơn một ngày, việc không ai ở Đức biết, nên lẽ ra là chúng tôi đã nổ tung lên rồi khi tin đó đến được với chúng tôi.

Hai ngày sau khi rời bến, một nhân viên của Bộ Nội vụ cố đánh gục tinh thần của chúng tôi. ‘Phí bạc triệu vô ích’, ‘Tranh cãi lớn vì chiếc tàu bệnh viện Hamburg’, tờ ‘Abendecho’ ở Hamburg nhấn mạnh vào ngày 12 tháng 8 năm 1966. Ông trưởng phòng Heinz Kirchner đã được ‘các cơ quan Việt Nam thông báo không úp mở’, rằng ‘chiếc tàu bệnh viện là quá đắt tiền. Một bệnh viện cố định thật ra rẻ tiền hơn rất nhiều’.

Để trang bị cho một giường của chiếc tàu bệnh viện, người ta đã tốn kém chính xác 22.000 Mark. Nhưng hầu như không thể trang bị cho một giường bệnh trong một bệnh viện ở nông thôn, đó là sự lựa chọn khác, với ít hơn là 45.000 Mark, nếu như bệnh viện đó cần phải có chất lượng giống như là của chiếc tàu bệnh viện.

Tàu Helgoland ở Đà Nẵng

Một tháng sau đó, giới báo chí lá cải đã có xì xăng đan đầu tiên của chiếc tàu bệnh viện. Ngược lại với ý muốn và sự phản đối của tôi, một cộng tác viên tự do của Đài Truyền thanh miền Tây nước Đức đã lên tàu ở Colombo. Chủ tịch Hội Hồng Thập Tự Đức đã đồng ý. Nhà báo này, người mà sau này tôi hay phải làm việc với ông ta và là người siêng năng điều tra tới mức tôi chỉ còn có thể thán phục ông, phải tự kiếm tiền vì là cộng tác viên tự do. Thế là lần hỏng máy điều hòa nhiệt độ, một sự cố kỹ thuật mà chẳng có chiếc tàu thủy nào có thể hoàn toàn tránh khỏi được, đã trở thành một sự kiện dữ dội trên con tàu bệnh viện.

Nhưng vào ngày 14 tháng 9 thì mọi việc cũng đã vượt qua được, cả ‘những loạt đạn súng máy’ mà tờ ‘Bild’ của ngày 15 tháng 9 đã để cho Việt Cộng đón chào chúng tôi – nhưng chúng tôi thì không nhận thấy họ ở đâu cả.

Và vào ngày 3 tháng 10, Uwe Siemon-Netto của Dịch vụ Nước ngoài thuộc Springer đánh điện về Đức: ‘… Rồi tất cả mọi sự phê phán sẽ trở nên vô nghĩa, nếu như con tàu làm
tròn mục đích của nó’, và : ‘Sự cảm kích tột độ của từng người một trong số 85 bệnh nhân đầu tiên được điều trị hay chẩn bệnh hẳn là minh chứng tốt nhất cho việc đó’.

Vào ngày 24 tháng 10, tờ ‘Spiegel’ khẳng định có chuột trên chiếc tàu bệnh viện và như thế ‘gần như là bệnh dịch hạch rồi’. Thật sự thì không có chiếc tàu thủy nào trên thế giới, tôi đã được thủy thủ của nhiều quốc gia bảo đảm, mà không có chuột trên tàu. Và khi chuột rời tàu thì đó thật sự mới là một điềm xấu như thành ngữ. Chúng tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy một ‘ca dịch hạch’ như tờ ‘Spiegel’ đó nói. Mãi sau này, trong mùa Xuân năm 1967, mới có hai đợt dịch hạch nhỏ ở Việt Nam, ở Vũng Tàu và Vịnh Cam Ranh nhưng đã được các cơ quan y tế khống chế được mà không có khó khăn gì. Trong vòng mười tháng đầu tiên của năm 1966, trong toàn Nam Việt Nam có ba trăm hai mươi lăm bệnh nhân mắc bệnh dịch hạch được ghi nhận, những người được cô lập ngay lập tức.

Chúng tôi đã thành công bảy tuần sau đó. Vào ngày 10 tháng 12, tờ Deutsches Ärzteblatt [Báo Bác sĩ Đức] gọi chúng tôi là ‘bệnh viện tốt nhất ở Việt Nam’, và tờ ‘stern’ khen ngợi chúng tôi trong cùng khoảng thời gian đó như là ‘con tàu của niềm hy vọng cuối cùng’. ‘Hãy gửi cho chúng tôi một chục chiếc tàu bệnh viện’, tờ stern viết rằng người Việt đã nói như thế. Tuy vậy, tám tháng sau đó, tờ ‘stern’ cũng đã không ngại ngùng bẻ cong thông tin của một cựu bác sĩ trên chiếc tàu bệnh viện để chúng phù hợp với dòng tít giật gân ‘Chiếc tàu bất lực’.

Trong những lần lập kế hoạch cho chiếc tàu bệnh viện, tất cả những người tham gia đều biết rằng sự kết hợp giữa hai nhóm rất khác nhau của thủy thủ đoàn và đội ngũ bệnh viện sẽ mang lại nhiều khó khăn. Bất cứ người thủy thủ nào cũng đều quen thuộc với cuộc sống tự do, giờ làm việc cố định và được trả tiền cao khi làm thêm ngoài giờ. Thỉnh thoảng vui chơi trong một bữa tiệc và biểu lộ to tiếng niềm yêu đời của mình là những việc mà anh cho là một sự hiển nhiên. Nhưng đối với nhân sự trong một bệnh viện thì việc luôn luôn quan tâm đến bệnh nhân, ý thức trách nhiệm và sẵn sàng làm việc, ngay cả trong thời gian nghỉ, đã trở thành bản tính thứ nhì.

Vì chiếc tàu bệnh viện ở Sài Gòn đã trở thành bệnh viện nhiều hơn là tàu nên đã hình thành một hoàn cảnh mà đối với một vài người trong thủy thủ đoàn thì không phải là một điều hiển nhiên, và cũng đã xảy ra những vụ việc nhỏ nhưng trong đó không có một vụ việc duy nhất nào to hơn là một việc gây bực mình cả. Còn ngược lại nữa, các sự kiện ít ỏi gây bực mình nhưng ngoài ra thì không quan trọng đó ở dưới xa mức độ mà người ta đã dự đoán trước. Công ty hàng hải bắt buộc phải thay thế một vài người thủy thủ, và tất cả mọi việc lẽ ra thì đã xong, nếu như không có giới báo chí Đức.

Nhân viên vô tuyến Otto Behrens, người mà theo lời của chính ông nổi tiếng dưới cái tên ‘Beck’s Otto’ trên những con tàu của tuyến Đông Á vì ‘không bao giờ nhìn thấy mà không có bia Beck’, không chỉ có một hợp đồng thông tin với tờ ‘Quick’: ngay khi con tàu đến Sài Gòn thì người ta đã biết điều đó rồi. Tôi đã xin công ty hàng hải vận động ông từ bỏ hợp đồng đó hay thay thế ông, nhưng không thành công. Vì thế mà ông có thời gian cho tới đầu tháng 2 để nghĩ ra thêm nhiều câu chuyện. Thêm vào đó, ông là người thông tin thường trực của một tờ báo lá cải ở Hamburg và đã điện về quê hương những tường thuật giật gân nào đó. Cuối cùng, ông cũng được thay thế vào đầu tháng 2 năm 1967. Vừa mới về đến Đức, ông đã sản xuất ra một loạt những câu chuyện buồn cười dưới tên ‘Nhân viên vô tuyến Behrens tiết lộ’ trong tờ ‘Das neue Wochenend’ mà trong đó ông không những nói dối mà còn lôi cả những người đứng ngoài cuộc vào: những tấm ảnh chụp người vợ của một nhân viên sứ quán, một người phụ nữ Hàn Quốc, được đăng lên như là bằng chứng cho ‘những buổi tiệc tùng hoang dại’ với phụ nữ Việt Nam.

Nhưng vẫn còn chưa đủ: với tờ ‘Spiegel’, ông còn sống sượng quả quyết rằng ‘… các thủy thủ còn ở lại’ đã ‘làm tình trong phòng của họ dữ dội tới mức ảnh treo trên tường của phòng bên cạnh đã lung lay rơi xuống’; tờ ‘Spiegel’ cũng không xấu hổ mà đăng điều đó vào ngày 13 tháng 2 năm 1967.

Những gì ở trên tờ ‘Spiegel’ lúc nào cũng là sự thật, người ta cho là thế, và giới báo chí lá cải nhìn thấy một cơ hội để tăng số lượng phát hành. ‘Sex-party’ trong các phòng của tàu bệnh viện, tờ ‘Bild’ nhấn mạnh vào ngày 16 tháng 2 năm 1967 với những dòng thật to, những tờ lá cải khác theo sau. Bà Strobel, Bộ trưởng Bộ Y tế, theo tờ “Westfälische Zeitung’ và ‘Bild’ vào ngày 17 tháng 2 năm 1967, đã để cho người ta xúi giục mà nói rằng: ‘… có phải là không đúng, khi triệu hồi con tàu về’. Vì một thủy thủ nghiện rượu và vì vậy mà bị cho thôi việc đã tung ra những câu chuyện không có thật và những tờ báo lá cải với từ ngữ ‘cuộc truy hoan’ đã đề cập đến những ước mơ và ao ước thầm kín nhất của một dân tộc đang buồn chán? Agence France Press đánh điện ngày 18/02/67 từ Bonn đến các báo tiếng Pháp trên thế giới ‘Biên niên sử xì căng đan’ của chiếc tàu bệnh viện mà ‘viên sĩ quan thứ hai đã tổ chức những cuộc truy hoan với nữ y tá và sĩ quan vô tuyến’ và ‘chuột sống tự do’ ở trên đó … ‘những người mắc bệnh giới tính sống hoàn toàn lộn xộn với nhân viên trên tàu và những người này về mặt họ đã dành hết mình cho những tình bạn đặc biệt’. Trong số các bệnh nhân người Việt của chúng tôi không có đến một người duy nhất mắc bệnh giới tính.

Thật sự đã xảy ra những gì? Gần tám mươi người Đức, những người sống và làm việc trên chiếc tàu bệnh viện ở Việt Nam, đã không làm gì khác hơn là hàng triệu người Đức khác ở quê hương: họ đã có một cuộc sống hàng ngày bình thường, nhưng dưới một khí hậu chết người và dưới những điều kiện sống mà chỉ có một số ít của 58 triệu người Đức ở nhà kia sẽ cho là có thể chấp nhận được. Trong số gần 80 người đó có 43 người phải hoàn thành một khối lượng công việc nhiều cho tới mức ở Đức thì đó ít nhất cũng phải là không bình thường. Chúng tôi có một lương tâm trong sạch.

Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn không hoàn toàn thành công trong việc chấp nhận điều phi lý đó một cách ‘mềm mỏng và điềm tỉnh’, như thông tín viên dpa Ulrich Grudinski đánh điện về Đức, và chúng tôi hầu như cũng không được an ủi, khi Winfried Scharlau vào ngày 21 tháng 2 đã nói về một đội ngũ đã ‘làm việc tốt và ứng xử cá nhân một cách đúng đắn và trong danh dự dưới những hoàn cảnh khó khăn’. Chúng tôi rất buồn và thất vọng, không chỉ về một phần của giới báo chí Đức đã vấy bẩn lên công việc cực nhọc kéo dài hàng ngày mười bốn tiếng của chúng tôi, mà cả về việc Bộ trưởng Bộ Y tế, bà Käthe Strobel, đã đề cập đến lần trở về sớm của chiếc tàu trong mối liên quan này.

‘Đó là một con tàu bị hiểu lầm rất nhiều’, Curt Werner viết ngày 15/04/1967 trên tờ ‘Ruhr Wacht’.

Source : https://phanba.wordpress.com/2017/11/05/mot-bac-si-cho-muoi-bay-ngan-nguoi-2/

Chiếc tàu màu trắng của hy vọng

Chiếc tàu màu trắng của hy vọng

Phan Ba (lược dịch theo Der Spiegel)

      Thủ tướng Đức Ludwig Erhard đã “kinh hoàng” trước lời yêu cầu của người đối thoại. Hort Osterheld, cố vấn cho Ludwig Erhard, đã nhớ lại cái đêm 20 tháng 12 năm 1965 đó trong Tòa Nhà Trắng ở Washington, D. C.: Lính Đức, theo ý muốn của Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, cần phải giúp đỡ người Mỹ trên chiến trường Việt Nam.

Chiếc tàu bệnh viện Helgoland đã hoạt động dưới lá cờ của hội Hồng thập Tự Đức ở Việt Nam từ 1966 cho tới 1972. Hình của hội Hồng thập Tự Đức

      Johnson biết ông đã đưa người khách của ông vào trong tình trạng nào: Một sự tham chiến của quân đội Đức ở Đông Dương không chỉ hết sức đáng ngờ do những quy định của Hiến pháp Đức và Hiệp định NATO – mới hai mươi năm sau Đệ nhị Thế chiến và một thập niên sau lần tái vũ trang, người thủ tướng hầu như không thể nào mà đưa ra được một lệnh hành quân cho quân đội Đức.

      Việc Johnson yêu cầu thủ tướng Đức tham gia gánh vác với các tiểu đoàn quân y và công binh có lý do riêng của tổng thống: nghị sĩ Hoa Kỳ đồng ý chỉ tăng ngân sách quốc phòng khi các đồng minh tích cực giúp đỡ lính Mỹ ở Việt Nam. Để “thuyết phục” người Đức đồng ý với lời yêu cầu của mình, viên tổng thống đe dọa sẽ rút một phần lớn quân đội Hoa Kỳ đang đóng ở Tây Đức về nước nếu như Erhard từ chối.

Tàu Helgoland đến Việt Nam: thuyền của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang hộ tống chiếc tàu bệnh viện trên sông Sài Gòn trong tháng 9 năm 1966. Hình của hội Hồng Thập tự Đức

      Các nhà chiến lược của Erhard gấp rút tìm kiếm một lựa chọn khác: cần phải làm cho người Mỹ hài lòng và đồng thời tránh được một cuộc khủng hoảng chính trị ở trong nước. Ý tưởng cứu thoát đến từ Bộ Ngoại giao: cần phải gửi đi một con tàu bệnh viện, để tham gia chăm sóc y tế cho người dân thường ở Nam Việt Nam. Chính phủ Đức có thể biểu lộ lòng tốt và đồng thời không bị nghi ngờ là muốn tham chiến bằng quân đội trong chiến tranh Việt Nam.

      Chỉ trong vòng sáu tháng, chiếc “Helgoland” từ một con tàu du ngoạn được cải tạo thành một bệnh viện nổi với 150 giường bệnh, ba phòng mổ và bốn khu chuyên khoa (phẫu thuật, nội khoa, phụ khoa và khoa chiếu tia X). Tổng cộng có 54 bác sĩ và 160 y tá đã chăm sóc cho trên 11.000 ca bệnh nằm lại và thêm vào đó là đã chữa trị không nằm lại cho 200.000 bệnh nhân trong phòng khám.

Tàu bệnh viện Helgoland ở Sài Gòn. Hình của Siegfried Kogelfranz

      Chiếc tàu bệnh viện “Helgoland” từ 1966 cho tới 1972 đã trở thành biểu tượng cho niềm hy vọng và tình nhân đạo trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Được sự đồng ý của người bác sĩ trưởng đầu tiên trên con tàu bệnh viện viện Helgoland, Giáo sư Tiến sĩ Y khoa Heimfried-Christoph Nonnemann, Phan Ba đã dịch quyển hồi ký của ông về thời gian hoạt động nhân đạo ở miền Nam Việt Nam (1966/1967) với rất nhiều chi tiết thú vị cũng như đau lòng về con người và đất nước Việt Nam trong khoảng thời gian đó.

Source : https://phanba.wordpress.com/2013/09/18/chiec-tau-mau-trang-cua-hy-vong/