Cuối cùng cho một tình bạn

Cuối Cùng Cho Một Tình Bạn

Cao Đắc Vinh

          Toản là một trong những người bạn thân nhất của tôi thời thơ ấu. Thuở đó, gia đình tôi mới di cư vào Nam, mua được căn nhà nhỏ trong khu Nguyễn Tri Phương, khu đất nghèo trung lưu ở về phía nam thành phố Sài Gòn, nơi có đa số di dân miền Bắc tạm cư. Trước cửa nhà là bùng binh xanh cỏ mà chúng tôi xử dụng như một sân chơi chạy nhẩy hàng ngày. Con đường dẫn ra cửa chợ mỗi buổi sáng ăn quà có tiếng dế kêu và có cả những mối tình thầm lặng.
Thời gian đi không trở lại, mỗi năm mỗi đổi thay, mất tuổi thơ nhưng may mắn hôm nay vẫn còn tất cả bạn bè lối xóm cũ. Quang, Nham, Ninh, Tâm, Vũ, Nghệ, Xương, Thịnh… và những người yêu trong mộng thuở xưa bây giờ đã lên chức nội ngoại Minh Hà, Bích Hợp, Tú Khanh, Đan Hà, Cẩm Chương… Trong số bạn thời nhỏ, Toản là người bạn thân từ thủa còn học lớp nhì trường tiểu học Nguyễn Tri Phương.

Sau hơn nửa thế kỷ xa cách, chỉ vì đọc văn chương nên Toản nhận ra tên tôi sau một bài viết. Tháng Bẩy năm 2009, chúng tôi vui mừng gặp nhau qua điện thoại và hội ngộ lần đầu vào dịp xuân tất niên nam Cali 2010 do hội ái hữu trường trung học Nguyễn Trãi tổ chức. Sau đó, nhân ngày lễ 4th July 2011, Toản đến Irvine thăm vợ chồng tôi cũng vào một ngày thứ Bẩy cuối tuần.

Hôm ấy, trời trong xanh và nắng vàng ấm áp. Bốn tiếng đồng hồ, tôi say sưa ngồi nghe bạn kể chuyện đời. Hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu khắc khoải dồn lại trong chuyện kể nhưng lạ thay dòng đời dù có nhiều trầm luân mà giọng nói của Toản vẫn một điệu hiền hòa không chút than thân trách phận. Toản có thân hình nhỏ bé nhưng đó chỉ là bề ngoài của một tâm hồn quật cường, dám nói, dám làm, dám chịu. Tính tình lại ưa thích châm biếm tinh nghịch đôi khi đi xa giới hạn để biến thành tai ương.

Thời còn độc thân, có lần Toản rủ cô bạn gái đi ăn tối ở một nhà hàng, cô bạn lại rủ theo cô chị và chị cô lại rủ thêm cô bạn của mình… cả hai đều có bề ngoài phốp pháp to lớn. Quả là một hoàn cảnh éo le cho chàng! Khi nhân viên nhà hàng hỏi bao nhiêu người để xếp bàn thì chàng trả lời: “Hai người và hai con voi”.

Một lần khác, đi xa về, muốn lấy điểm với người đẹp vừa quen, Toản mua tặng chai nước hoa xinh xắn làm quà. Cảm động nên bồi hồi nàng thốt một lời hạnh phúc bâng quơ: “Chai nước hoa nhỏ quá anh nhỉ!” Chàng thẳng thừng bông đùa: “To hơn chắc chỉ có chai nước mắm!” Câu trả lời làm chạnh lòng người đẹp. Kết quả là chàng lại cô đơn với cuộc đời đêm dài tỉnh lẻ…

Vốn thông minh, học giỏi, vừa xong trung học là Toản thi đậu ngay vào trường Công Chánh. Với học trò thời ấy, đây là thành tích sáng chói Toản đạt được trên con đường học vấn, hứa hẹn một tương lai rạng rỡ. Nhưng rồi tính bốc đồng nghịch ngợm ở Toản vẫn còn. Một buổi chiều mưa, nhóm sinh viên bạn của Toản đứng trên bao lơn sân thượng làm ướt áo một vị giáo sư phía dưới. Vị giáo sư nổi giận và mình Toản lãnh đủ đòn cay nghiệt, phải rời khỏi trường. Đó chính là cái mốc thời gian làm đời Toản đổi hướng.

Ra khỏi trường Công Chánh, người bạn bé nhỏ của tôi chật vật kiếm sống nuôi mẹ già. Chàng dậy học ngày hai buổi đến khi bất mãn thì vào ngành Hàng hải qua sự giới thiệu của một người thủy thủ quen biết. Ngày đầu phỏng vấn để nhận chức “gõ rỉ sét” trên tầu Nhật Lệ, ông thuyền trưởng Thì ngắm nghía Toản từ đầu đến chân buông thõng câu kết: “Nhìn anh giống một du đãng trí thức”. Chàng chỉ biết cười và trình bầy sự thật pha chút khôi hài: “Không đủ to lớn để làm du đảng và trí thức nào lại nhận làm nghề gõ sét?”.

Những ngày biển yên gió lặng, con tầu 1200 tấn bình thản rẽ sóng một mình, anh thợ tập sự học nghề “gõ rỉ sét” đã làm kinh ngạc đoàn thủy thủ tầu Nhật Lệ sau những bàn cờ giao hữu liên tục chiếu bí tướng ông thuyền trưởng hảo hớn. Trung tá Thì cựu hạm trưởng 505 bắt đầu để mắt nhìn, nhận thức được trí thông minh và bản lãnh của người thanh niên bé nhỏ ấy. Ông dậy Toản astronomy cách nhìn sao trên trời, chấm point đánh tọa độ trên biển rồi đưa sách cho chàng đọc luật hàng hải và phương pháp hải hành. Nhanh chóng Toản trở thành phụ tá và khi ông Thì nghỉ thì Toản thay thế lái con tầu cồng kềnh giữa đại dương. Trình độ học hỏi hấp thụ cao nên chỉ một thời gian ngắn, chàng chính thức được tuyên dương chức vụ phó thuyền trưởng của con tầu chở hàng nặng ký bao gồm 24 thủy thủ này. Những năm sau đó, Toản đầy đủ kinh nghiệm để bổ nhiệm sang lái 1 trong 6 chiếc tầu chở hàng của bà Ngô Đình Nhu chẳng hạn như tầu Tiền Phong hoặc Thống Nhất…

Khi biến cố Tháng Tư năm 1975, tuy là dân lái tầu thuỷ nhưng Toản lại không có cơ hội ra khơi di tản. Nhờ nghiệp vụ chuyên môn cao, Toản được những người cộng sản lưu dụng, bắt lái tầu chở máy móc và vật dụng ăn cướp từ Nam ra Bắc cho những cán bộ chóp bu.

Những tháng đầu nước mất nhà tan, chàng bỏ mẹ già ở nhà, theo tầu chở hàng đi Bắc về Nam kiếm sống. Tuy đã tự dặn lòng nên giữ thái độ khôn ngoan “mũ ni che tai” giả ngu giả điếc trong mọi hoàn cảnh, nhưng rồi chàng vẫn không chịu nổi khi phải nghe luận điệu ngu si, tuyên truyền ấu trĩ của “cán ngố” cộng sản trên chiếc tầu của thuyền trưởng Trương Văn Xê, chẳng hạn câu chuyện tướng việt cộng Trần Đại Nghĩa điều động phi cơ phản lực tắt máy chờ không quân địch trên các tầng mây để phục kích bắn hạ. Cực chẳng đã, ngứa tai thì phải gãi nên Toản phát biểu ít câu về sự thật hiển nhiên nhưng khó nuốt đối với đám cán ngố. Kết quả là ngay khi tầu đi từ Bắc vừa cặp bến Sài Gòn, công an nghinh đón chàng ngay tại cửa tầu để còng chéo tay bỏ tù vì tội phản động mặc dù lời đối đáp của chàng phản ảnh kiến thức khoa học. Mẹ già ở nhà mỏi mòn ngóng đợi, tưởng thằng Toản con mình đã chết mất xác, không còn tin tức.

Sau cả năm trời bị đầy đoạ, khi Toản ra tù, quần áo tả tơi, ngồi ở phiên chợ làng như thằng ăn mày bệnh hoạn. Mấy bà bán hàng nhìn Toản biết ngay tù nhân vừa được thả nên tìm cách giúp đỡ, cho ăn lót dạ và tặng chàng lộ phí để tìm đường về nhà. Khi gõ cửa, mẹ ôm chàng, nước mắt chan hòa mới rõ đứa con mình còn sống !

Hiểu là không thể còn chỗ dung thân tại quê hương, Toản quyết định vượt biên. Thời điểm 1978-1979 cũng là lúc phong trào vượt biển lên cao, với thành tích lái tầu thuỷ nổi tiếng, Toản được giới chủ tầu săn đón, cầu cạnh. Có người bạn cùng xóm cũ Nguyễn Tri Phương tên là Quyền học chung trường Nguyễn Trãi nhưng sau Toản 2 lớp. Ai đã gặp Quyền thì khó quên vì anh có tật ở chân do căn bệnh polio lúc còn bé. Quyền có ông chú tên là Tú, chủ tầu nên đề nghị Toản cùng vượt biển. Tầu được đóng bè ở Lam Sơn, một bến nước sâu gần thị xã Long Thành. Chuyến vượt biển đầu tiên dự trù dấu 45 người ở đất Lam Sơn quê nhà ông Tú trước ngày khởi hành.

Tháng 6 năm 1979, ông Tú và Quyền quyết định ra khơi mặc dù Toản chưa kiếm ra thợ máy tháp tùng. Ra khỏi hải phận 2 ngày 2 đêm thì sự thiếu sót ấy trở thành oan nghiệt khi… tầu chết máy!
Tháng 6 là mùa bão trên biển Đông, con tầu chật chội người nhấp nhô theo chiều sóng vỗ, Toản đành phải lấy vải dù căng thành cánh buồm để điều khiển hướng đi nhưng gió thổi mạnh làm gẫy cột buồm chỉ sau một buổi chiều căng gió. Tầu không động cơ trôi lênh đênh vô định 13 ngày giữa sóng nước Thái Bình. Mọi người hầu như hết hy vọng, ngồi chờ thần chết đến gần…

Suốt hai tuần, tầu mắc nạn trên đại dương, mấy chục lần giáp cận với những thương thuyền quốc tế nhưng tất cả đều lạnh lùng lánh xa để khỏi phải cứu vớt. Tiếng khóc của thuyền nhân như đau thương vang vọng từ địa ngục nổi lên mặt biển át đi tiếng sóng gầm mỗi lúc mỗi tăng cường độ. Hai người bạn vượt biển đã chết và được thủy táng! Nhìn chung quanh, mắt ai cũng đỏ hoe nhưng tay chân vẫn cố ôm chặt túi lương khô không rời thân thể bầm dập. Giữa ranh giới tuyệt vọng của sự sống và chết, tâm địa con người thường lộ trần, hiện nguyên hình bản chất ích kỷ nhỏ nhen từng miếng ăn ngụm nước. Trên con tầu bất hạnh này, chỉ còn Toản và bác sĩ Châu là còn sức tự chủ, nỗ lực tìm cách giúp đỡ những kẻ yếu sức và chế ngự con tầu ví như chiếc lá an phận nổi trôi trên đầu ngọn sóng.

Sáng ngày thứ 16, thuyền nhân nằm ngả nghiêng chờ chết vì say sóng và đuối sức bỗng giật mình vì tiếng nổ lớn, đáy thuyền bị vỡ tung khi đụng phải san hô nằm dưới lòng biển. Bất ngờ, xuất hiện trên đảo vắng một nhóm người đen đủi ở trần, mặt mũi dữ tợn tay vung mã tấu rồi hét từ bờ bên kia: “Đ.m. Chúng mày chưa thoát khỏi Việt Nam đâu!” Tất cả đinh ninh là họ đã sa vào tay hải tặc. Khi đám thuyền nhân được lệnh lội trên san hô bước lên đảo. Lúc đó, Toản mới biết con tầu đã trôi vào quần đảo Trường Sa mà không ai hay! Hòn đảo này đang có 70 cán bộ cộng sản trú đóng thường trực. Ông thượng úy quản đảo chạc 40 tuổi, 13 năm như Robinson âm thầm canh giữ nơi đây chưa một dịp được gặp lại gia đình và cô con gái duy nhất của ông đang sống trên giải đất hình chữ S.
Chiều hôm ấy, quản đảo Tiến thu hết thuyền nhân vào miếng đất phẳng bên cạnh bờ biển, đối diện với khu vực đóng quân nơi ông cư ngụ. Trời về đêm, gió thổi từ ngoài khơi buốt lạnh. Ông ra lệnh nấu cháo cho 43 người sống sót rồi căng lều cho họ ngủ. Từ lúc lên đảo, ông ôm mãi con bé Su 3 tuổi kiệt sức vì mẹ nó đã mệt lả không còn lực để ẵm bồng bé. Toản ngạc nhiên thấy ông Tiến có những hành vi vị tha lạ kỳ mà không bao giờ chàng gặp ở người cộng sản trong quá khứ. Ông ta ôm bé Su xuốt đêm như tình cha đối với đứa con gái nhỏ của mình và ra lệnh cho bác sĩ Châu cứu con bé với bất cứ gía nào kể cả dùng trụ sinh trong phòng thuốc của ông nếu cần.

Quản đảo Tiến đưa Toản hai cây đèn bão cẩn thận dặn dò chỉ dùng để báo hiệu khẩn cấp. Ông cũng không quên chỉ thị luật lệ mới đối với cán bộ dưới quyền: “Nếu hai cây đèn bão không dơ lên dơ xuống ra hiệu tình trạng khẩn cấp của họ thì cấm không ai được lai vãng sang bên phía thuyền nhân…” và lấy mốc hàng rào cây ở giữa hai khu vực làm ranh giới. Ai coi thường luật này, vô cớ tự ý bén mảng sang phía “giới nghiêm” sẽ bị xử bắn!

Đêm đầu tiên nằm trên đảo, Toản không sao ngủ được mặc dù thân thể èo uột đã thấm mệt vì hơn nửa tháng nay chàng phải đối phó với những bất trắc liên tục. Thâu đêm, ôm đầu nghĩ mãi về lòng trắc ẩn hy hữu của ông Tiến rồi chàng suy luận tự hiểu hoàn cảnh nơi đây đặc biệt không có bóng đàn bà suốt thời gian dài,  cán bộ bị dồn ép tình dục dưới ánh nắng như thiêu đốt của Trường Sa, có thể trở thành điên loạn mà hãm hiếp những cô gái vừa lội lên đảo như cử chỉ hung bạo bắt gặp lúc sáng nay. Cũng may, quản đảo có quyền lực gần như tuyệt đối trên mảnh đất cách ly này và chỉ thị của ông đủ để bảo đảm an ninh cho những người vừa đến mặc dù bây giờ dưới mắt ông, họ là những tù nhân vượt biên sẽ phải trao trả cho cơ quan nội vụ những ngày sắp tới.
Trên thực tế, chuyến đi của thuyền trưởng Toản đã hoàn toàn thất bại, con tầu gỗ đã bể nát chìm dưới lòng biển, tất cả thuyền nhân đã trở thành tù nhân. Ngay sáng hôm sau, quản đảo Tiến ban hành lệnh thu tóm tất cả vàng bạc đô la để cất giữ, nói mục đích là để bảo toàn an ninh. Tất cả đều nghi ngại, không biết số phận ra sao, nhưng quản đảo Tiến vẫn tiếp tục cư xử tử tế, cung cấp lương thực, chia xẻ từng điếu thuốc với đám thuyền nhân.

Hòn đảo san hô biệt lập xa đất liền nên chỉ được tiếp tế thức ăn và nước uống trung bình 3 hay 4 tháng một lần. Ngày chiếc tầu V684 từ Cam Ranh đến phân phối lương thực cũng là ngày quản đảo giao tù nhân cho công an nội vụ. Thời gian thuyền nhân ở đảo san hô là 39 ngày nhưng điều sửng sốt làm mọi người không tin vào mắt mình là lúc ông Tiến mang trả từng người số vàng lẫn tiền bạc đã ghi sổ cất giữ khi xưa trước giờ họ lên tầu đi tù ở đất liền. Ông ta chỉ trừ đi chi phí lương thực cho một đầu người mỗi ngày. Toản là người cuối cùng lên chiếc tầu V684, chàng bắt tay ông Tiến và nói lời cảm ơn thật lòng. Ông Tiến ân cần nắm tay Toản và đặt câu hỏi ẩn nhiều thắc mắc lúc chia tay: “Tại sao đất nước thanh bình mà các anh còn ra đi?” Chàng chỉ biết yên lặng vì làm sao cắt nghĩa nổi ý nghĩa hai chữ tự do của chàng cho một người suốt đời sống “tự do” trên đảo với chim trời ?

Nghe Toản kể đến đây, tôi sực nhớ câu chuyện “Ở cuối hai con đường” của Phạm Tín An Ninh có kể về quản giáo Thà một thời đã là đề tài bàn cãi sôi nổi trong sinh hoạt của những người Việt tỵ nạn cộng sản… Phải chăng quản giáo Thà và quản đảo Tiến chỉ là hai đảng viên cộng sản hy hữu còn chút lương tri? Câu chuyện ngẫu nhiên của hai cá nhân lẻ loi này, không thể suy ra đất nước ngày mai sẽ khá hơn với xã hội độc đảng.

Sau khi mãn tù lần thứ hai, Toản lại tìm đường vượt biên và đã đưa 65 thuyền nhân cùng chuyến tầu của mình đến đảo Indonesia. Đó là điều đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Toản. Cuối cùng thì chàng tỵ nạn ở Mỹ vào một ngày đầu xuân, lập gia đình và có cô con gái 16 tuổi rất xinh xắn, thông minh, nhanh nhẹn, chơi vĩ cầm professional. Cô bé đã đờn một bản nhạc bên cạnh giường bệnh của bố như để ghi lại kỷ niệm lần chót trước khi vĩnh viễn xa nhau.

Trước giờ chia tay, Toản vẫn còn sáng suốt nắm chặt tay một người bạn thân đứng sát chàng và thổ lộ lời cuối cùng: “Chắc tao không qua khỏi lần này, xin vĩnh biệt chúng mày…”.
Sau cùng, Toản ra đi thanh thản trong vòng tay của những người thân yêu, mang theo tiếng đàn của cô con nghệ sĩ và niềm tiếc thương của bạn hữu.

Tôi ghi lại sơ lược câu chuyện về Toản như chút kỷ niệm cuối cùng cho một tình bạn. Vĩnh biệt bạn hiền, người bạn một đời gian truân như chiếc lá lìa cành nổi trôi trong cơn bão lịch sử.

Thầy cũ Trường xưa

Thy cũ Trường xưa

Nguyễn Ngọc Nhơn
Pont 13

«Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẩn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học… (THANH TỊNH).

           Đã trên 54 năm mà bài chánh tả đầu tiên học với thầy Lương văn Minh ở lớp Đệ Thất trường Nguyễn Trãi còn in sâu trong trí nhớ. Bao nhiêu bạn bè cùng trang lứa thuở đó chắc cũng như vậy. Làm sao mà quên được! Qua biết bao nhiêu thăng trầm, anh em gặp lại nhau trên xứ Pháp khi nhắc lại bài này, vẫn còn thuộc lòng. Giống như câu chuyện Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư của ông Sơn Nam, kể lại cuộc gặp gở giửa thầy phóng viên trên Sè gòn xuống tận Chắc Cà Đao kiếm anh chàng đặt mua báo năm. Báo gởi đều đặn hàng tuần mà không biết làm sao ban biên tập vẫn chưa nhận được tiển. Đêm về, muổi kêu như sáo thổi, cả hai phải buông mùng chun vô ngồi bên trong. Dần dà chuyện nọ dẩn chuyện kia qua tới chuyện hồi xưa, thuở cả hai còn đi học. Họ nhắc lại mấy bài trong quyển Quốc văn giáo khoa thư… Người này đọc một câu, người kia tiếp câu kế, đúng chử, đúng nhịp. Rồi cả hai mơ màng thã hồn tìm về những kỷ niệm thời thơ ấu. Thiệt đã hết sức!
Tui viết chánh tã, ba cái vụ dấu hỏi ngã, tui chịu thua. Nhờ bài chánh tã này, tui học được hai chử chắc chắn bỏ dấu ngã là Những và Cũng. Tới bây giờ tui vẫn còn dở ẹt mặc dù cũng có ráng học thêm mấy bài của Sư phụ Cao chính Cương. Tui dặn thằng tui: nhớ nghe! Bộ ba đi chung với nhau, Không, Sắc, Hỏi; Huyền, Ngã Nặng. Họ tên thì họ phải viết dấu ngã, Nguyễn Đỗ, Vũ, Võ chẳng hạn. Còn chử gốc Hán Việt khởi đầu bằng M, L, N, D, V ( Mình Là Người Dân Việt) thì nhắm mắt cứ bỏ dấu ngã. Vậy mà Tui vẫn còn chưa quen bỏ dấu tự động… trúng liền! Khổ hết sức, mong bạn bè thông cảm. Giống như trong chuyện vui Don Camillo của Giovanni Guareshi vậy mà:

           Xã trường Peppone là đãng viên Cộng Sản Ý với Cha sở Don Camillo vốn là bạn học cùng lớp với nhau thời Tiểu học. Peppone lên tới lớp nhứt rồi bỏ học đi theo làm cách mạng. Một hôm, Peppone viết thông cáo đem dán ngoài nhà làng. Có ba câu mà tới bốn lỗi chánh tã. Cha sở Don Camillo lén lén lấy viết mực đỏ khoanh mấy lỗi đó rồi lại còn thêm vô hai chử « Con Lừa » làm dân chúng chế nhạo Peppone quá trời. Sau đó, Cha sở bị Chúa Jesus quở một trận « Bộ nghĩ rằng ngươi may mắn được học lên cao, biết thêm năm ba chử la tinh rồi có quyền chê khen người ta vậy à ? Quan trọng là ở Nội dung, Ngươi đừng có thấy mấy chi tiết vụn vặt đó rồi quên cái Ý chánh, cái Tâm của người ta » Ôi chao, nghe đã hết sức, lời Chúa phán dạy sao hợp ý con quá đi, Lạy Chúa tôi, con xin tạ ơn Chúa Amen!

          Nói sao thì nói, nếu quí vị có dịp đọc 6 cuốn Don Camillo, tui chắc quí vị cũng sẽ như tui, thương anh chàng Peppone này lắm. Dù ít học tánh tình cục mịch nhưng chất phác thiêt thà, không điếm đàng, mánh mung, trước sau như một chỉ biết có đãng CS là trên hết và yêu đãng hơn . . . mạng sống của mình. Một chuyện khác xãy ra vào trưa hè khoản đầu thập niên 50, chưa có Computer. Peppone đang ngồi đánh máy lọc cọc kiểu gà mổ, mồ hôi ướt hết áo thì thư ký trên chi bộ Tỉnh đạp xe xuống kiếm : « Ông Chủ tịch Tỉnh hỏi Xếp viết bản báo cáo thành tích của Xã xong chưa, kêu tui xuống lấy mang về gắp. Trể cả tuần nay rồi » Đang cực khổ, đấu tranh giai cấp với cái máy đánh chử Olivetti, Peppone đổ cọc cự lại : « Ê, bộ mầy tưởng chắc đánh máy dể lắm à ? Nói cho mầy biết nha, đánh máy còn khó hơn . . . làm cách mạng nửa đó! Tao khẩn trương suốt cả tuần nay, tranh thủ, khắc phục từng chử một, bây giờ mới xong nè. Chờ tao ký tên rồi mang về trên Tỉnh một bản» Nói xong, Peppone rút bản đánh máy ra, định ký tên thì bổng bỏ xuống bàn, lấy tay vổ trán chửi thề : « Thôi chết mẹ rồi! Tao nhè để ngược mấy tấm carbone !»

            Đối với riêng tui, viết tiếng Việt coi vậy không phải dể. Tui viết cho vui, vừa viết vừa học thêm cách ẹo qua ẹo lại kẻo thiên hạ chê là Tiếng Tây chưa biết mà tiếng Việt đã quên. Chuyện vui về bảng quảng cáo của gian hàng bán cá là một thí dụ tiếu lâm về viết tiếng Việt: « Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI« . Người đi qua, kẻ đi lại bàn ra tán vào: « Cá đương nhiên phải tươi mới có người mua. Viết dư chử! » Ông bèn bỏ chử Tươi còn « Ở Đây Có Bán Cá » Thiên hạ lại chê dư hai chử Ở Đây ! Hổng lẻ bán ở chổ khác à! Ờ há, thấy có lý ông bèn bỏ bớt hai chử Ở Đây. Câu quảng cáo còn ba chử « Có Bán Cá » Chưa yên, người khác lại nói, có cá mới bán chứ hổng có thì lấy gì mà bán. Ông thấy đúng, bỏ luôn hai chử còn lại có một chử «Cá» thôi. Khách hàng đến mua cá nói với ông: Ghi chử «Cá» làm gì? Không lẻ họ tới đây đòi mua thịt à! Từ ngoài đầu chợ đã nghe mùi, biết ở đây bán cá rồi! Rốt cuộc, ông bỏ luôn bãng quảng cáo bán cá mà vẫn bán đắt như . . . tôm tươi vì khách hàng đã hiểu ngầm với nhau, gặp mặt ông họ gọi là Ông Bán Cá.

           Tui học việt văn với Thầy Đoàn văn Thuận, người Huế, ở THĐ. Tất niên năm đệ Tam, Thầy có ngâm thơ cho học trò nghe bài Màu Tím Hoa Sim của Hửu Loan. Thuở đó, tui chưa từng tận mắt nghe thấy ai ngâm thơ hết. Nét diển tã, đôi mắt nhìn vào cỏi xa xăm, giọng Huế vang lên nhẹ nhàng: « Nàng có ba người anh đi bộ đội. . . những đứa em nàng, có em chưa biết nói . . . » Đám học trò im lặng ngồi nghe, giọng thơ dìu dặt như từng chử ngọt ngào rót vào lòng. Tui nhắm mắt thã hồn lơ lửng trên đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt của Thầy. Hay quá hay, quá nghệ sĩ, lãng mạn tình tứ, vị Thầy đáng kính của tui ơi. Sau đó Thầy ngâm tiếp bài Tiển Người Trên Sân Ga của Nguyễn Bính. Lời thơ là cả một nổi buồn cô đơn vô tận xoáy xoay vào hồn:

Có lần tôi thấy một người đi,
  Chẳng biết vê đâu, nghĩ ngợi gì
Chân bước hửng hờ theo bóng lẻ
Một người làm cả cuộc phân ly.

           Làm sao mà quên khi tui vừa mới lớn lên vào tuổi mơ mộng, lại được Thầy mình ngâm thơ cho nghe.

          Thầy Tô Hoà Dương, con của nhà văn Bình Nguyên Lộc gốc Tân Uyên BD, dạy Toán năm Đệ Tam. Thầy có hai bằng Cử nhơn Toán và Triết ! Tánh tình hề hà, giảng bài xong, Thầy ưa hỏi Các anh em hiểu chưa ? Đứa nào đưa tay vì có chổ chưa hiểu, thì Thầy tỏ ra hết sức ngạc nhiên : Hổng hiểu ? Vậy mà hổng hiểu ? Trời ơi, hể mở miệng là VN có bốn ngàn năm văn hiến, tám triệu năm lich sử, văn minh văn hóa. Có chút xíu vậy cũng hổng hiểu. Rồi Thầy giảng lại. Từ đó, bạn học ưa xài chử 4000 văn hiến để chọc quê nhau!
Một trong 3 câu hỏi toán của Thầy cho thi đệ nhứt lục cá nguyệt mà tui còn nhớ : Ba cây kim đồng hồ chỉ số 12 ( 0h 0mn 0sec) Kim giây bắt đầu di chuyển. Hỏi:
1-Khi nào kim giây gặp lại kim phút sớm nhứt
2- Khi nào kim phút là phân giác của kim giờ và kim giây.(độ chính xác là 1/ 100).

           Thầy Nguyễn Trí Thành dạy Vạn Vật năm đệ tam và Lý Hóa năm đệ nhị. Học trò rất « khoái » phương pháp sư phạm của Thầy vì chỉ cần chú ý nghe giảng trong lớp, đến ghi vô tập thì chỉ tóm tắt các điểm chính, còn lại chừng hơn 1 trang. Dể nhớ, dể thuộc, có thể nói đó là tinh túy của bài học. Nhớ thuộc bao nhiêu đó đủ đi thi rồi. Học trò quá nhiều, sau gần 50 năm, làm sao mà Thầy nhớ cho hết. Riêng em vẫn còn thấy Thầy hiện hửu trước mặt, đứng trên bục giảng trong lớp ở từng trệt đối diện nhìn ra sân cờ THĐ củ. Thầy mặc áo sơ mi trằng tay dài, cà vạt màu xanh, dáng gầy, hơi có chút xíu răng khểng bên trái, gương mặt hiền từ Thầy thấy chưa, em đâu có quên Thầy.

            Ngày qua ngày, rời THĐ, thi vô trường Hàng Hải Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ. Gần 300 thí sinh lấy 24 chổ, 16 chính thức thì tui đứng hạng 17 nằm trong danh sách thí sinh dự khuyết. Cũng ráng lắm chớ nhưng làm sao tranh lại với thiên hạ! Nào là dân Bac Tú Tài Tây, người khác đã học xong hoặc đang năm cuối bên Khoa học, Luật. Phần nhiều lớn hơn tui 7, 8 tuổi. Họ trở lại học năm thứ nhứt để được hoản dịch vì lý do học vấn. Ngoài đời, tầm cở đó là các giáo sư Toán, Lý Hóa, Pháp Văn như mấy Ông Thầy tui không hà, học trò quèn như tui mà bài đặt chen đua với các Sư phụ, vô phép quá đi.

           Cuộc thi gồm 6 bài toán đủ loại, có thể giải bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Tiếp theo là một bài Thème Việt dịch ra tiếng Pháp và một bài Pháp Translate into English. Nhờ mấy câu thơ về công thức biến đổi Lượng giác của Thầy toán Nguyễn Vũ Hải ở THĐ dạy mẹo cách nhớ, tui giải chớp nhoáng mấy bài toán dù không có bãng lượng giác (không được mang theo vô phòng thi) tới bây giờ tui vẫn không quên:
Cos đối, Sin bù, Phụ chéo, Tang khác Pi ( 180°)
Cos cộng Cos bằng hai Cos Cos,
Cos trừ Cos, trừ hai Sin Sin
Sin cộng Sin bằng hai Sin Cos
Sin trừ Sin bằng hai Cos Sin
Sin bằng Sin Cos, Cos Sin
Cos bằng Cos Cos, Sin Sin dấu trừ.

            Thầy ơi, nếu Thầy biết là mấy chục năm sau, ba đứa con em khi học lên cấp III bên Pháp, tụi nó đều thuộc lòng bài tiếng Việt này thì chắc Thầy sẽ vui lòng lắm lắm. Học trò Nhơn xin Tri ơn quí thầy THĐ, Nguyễn Trí Thành dạy Lý Hóa, thầy Nguyễn văn Trừng Pháp văn, Thầy Hải, thầy Tô hòa Dương Toán, Thầy Phong, Cô Ngọc, Cô Tường Vy Anh văn, thầy Điềm, Thầy Nguyễn Huy( trục Chépone) Sử địa, Thầy Phạm minh Kiên, thầy Thuận Việt văn, cô Long (qua đời). Học trường Việt, tui khổ sở với dấu Hỏi Ngã. Vô Hàng hải thì lại kẹt tiếng Tây, giống đực, giống cái, nghe Thầy giảng chử được chử mất.

           Tui tội nghiệp cho tui, từ chết tới bị thương. Ê, tiếng Tây của tui không phải tệ như loại tiếng bổi đâu nha, học trò cưng của Thầy Trừng Pháp văn ở THĐ đó. Không phải tã con dê bằng Com lơ sen, dà na cọt, dà na bạt ( Comme le chien, il y a corne, il y a barbe ( giống như con chó mà có sừng, có râu). Tui viết tiếng Tây rất để ý văn phạm như lời dạy của Thầy Nguyễn tiên Sanh và Phạm duy Nhượng ở trường Nguyễn Trải. Trực tiếp nghe giảng rồi ghi chú, thì tui hiểu loáng thoáng vì còn phải dịch ra hiểu theo tiếng Việt. Hởi ơi! Mà toàn là danh từ kỷ thuật không hà, tìm trong cuốn Danh Từ Khoa Học của Ông Hoàng Xuân Hản, dịch ra tiếng Việt cũng khó hiểu luôn! Kỷ niệm đáng thương của tôi, trong môn Navigation Hải Hành, có chử Taximètre, chỉ dụng cụ gắn hai bên đài chỉ huy để đo phương giác. Vừa thấy chử đó là tôi liên tưởng ngay đó đồng hồ xe taxi, ô là la . . .

            Tui vừa nhỏ tuổi nhứt, tiếng Tây dở ẹt như vậy nên bạn bè gọi diểu tui là thằng Tây con (tưởng hay lắm ai dè là con nít mới bập bẹ học nói). Đúng là nhà quê trên tỉnh xuống Sè gòn, hiền khô chưa biết ăn chơi, nhãy đầm (Khi xưa em bé em ngu béng beng, em lấy dây thun em quấn gì gì đó) Mới đây, xem vidéo đám học trò trong đó có tui đến thăm thầy DUCASSE trên Paris, bạn học bên Mỹ nói tui bây giờ thành Tây . . già. Ô, hơn ba chục năm trên đất Pháp rồi chứ đâu phải ít! Và tui hiểu tại sao người khuyết tật câm thường bị điếc (để khỏi phải nghe mà không nói được) Nghĩ trong đầu, bực thiệt nhưng hổng lẻ mình chịu thua thiên hạ sao ?

           Học mới có mấy tháng thì tới vụ bãi khóa, biểu tình Phật giáo. Ở nhà tui mài mò, ráng tự học, dò lại hết cho thấu đáo các bài trong trường. Lúc vô học lại, thầy Tổng Giám thị Trương Thế Phiêu ngạc nhiên thấy tui tiến bộ rỏ rệt khi làm bài « Cách thiết lập trục tọa độ một bản đồ với tỉ lệ định sẳn (Canevas) » được Thầy DUCASSE phê Très Bien mới hỏi: Bộ gia đình em có ai đi tàu, dạy kèm cho em à? Thầy đâu có biết, tui tra tự điển muốn chết thân. Với sức người, vo gạo tui cũng. . . nấu thành cơm. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Chổ nào không hiểu, ngoài giờ học, tui bắt đầu dám hỏi thẳng Thầy DUCASSE. Biết tui dở tiếng tây, Thầy giải thích chậm chậm, không phải lẹ như với bạn tui trong lớp. Rồi từ từ khá hơn, tui gọi thẳng tên các dụng cụ, đồ nghề bằng tiếng Tây mà không thèm dịch nửa. Tui không bao giờ quên được câu chuyện Thầy kể về sao Vénus (Vệ Nử, Kim Tinh) Lúc đó vào một buổi chiều thứ ba khi trã lại bài tập định vị trí con tàu bằng toán thiên văn hàng hải calcul astronautique làm cuối tuần ở nhà. Tui có kể cho Thầy nghe trong điện thoại sau mấy chục năm bắt lại được liên lạc. Nhờ Thầy mà em chưa hề làm toán này sai trong đời hải nghiệp. Thầy rất vui, nhớ ra liền quê tui ở trên Thủ dầu Một và bảo tui bây giờ nói tiếng Tây khá hơn xưa nhiều. Tui hay hơn tui thôi nha. Bây giờ tui nói tiếng Tây hay như Tàu nói tiếng . . . Việt chứ không dám hay hơn ai khác đâu hihi. (Hồi đó, Ba tui có nói, ngày nào con nằm chiêm bao, thấy nói chuyện với Tây thì ngày đó mới khá): Đến nay đã 5 tuần, mấy em làm quen với loại toán thiên văn hàng hải, mặt trời, mặt trăng, hành tinh và các vì sao khác. Chỉ riêng có sao Vénus là các em tính sai góc giờ ( Angle horaire) do lộn dấu của sai số correction « V » lúc cộng lúc trừ. Các em đừng quên điều này: CHÍNH VÌ VẬY NGƯỜI TA LẤY VENUS TƯỢNG TRƯNG CHO PHÁI NỮ, ĐÀN BÀ. Họ cũng y hệt! Lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc nũng nịu lúc giận hờn, họ đổi dấu cộng sang trừ không có lý do. Hỏi lý do còn khó hơn đường lên trời! Là dân đi biển, các em nên cư xử với họ làm sao để mai đây, một mình trên biển xa khơi, các em vẫn hãnh diện nhìn sao Vénus, cầm kính lục phân (Sextant) đo độ cao, tìm ra đâu là hướng trở về gặp lại những người đàn bà tuyệt vời ấy! Ôi chao, gần 50 chục năm qua rồi mà hình ảnh Thầy cầm xấp bài làm của học trò; cười cười, nói chuyện này vẫn còn nằm trong trí tui như mới hôm qua.

           Tui nhớ thầy Quyền dạy Elect, kỷ sư điện tốt nghiệp ở Grenoble Pháp. Thỉnh thoảng, Thầy nhắc lại kỷ niệm khi du học với giọng bực bội là lúc thi tốt nghiệp, Thầy chỉ đậu được hạng nhì, thua một con đầm!

Thầy Jean Ducasse và các anh cựu sinh viên trường Việt Nam Hàng Hải

           Đến Pháp vào dịp Noël 5/ Dec/1979, tui nộp đơn liền lên Bộ Giao Thông, xin cấp cho bằng tương đương Thuyền Trưởng HH thương thuyền CMM. Ba tuần sau, nhận được thơ trã lời. Bộ từ chối vì không có liên hệ ban giao HH với VN nhưng cấp giấy giới thiệu tui xuống trình diện trường Marseille và tùy nơi đây quyết định. Ngày 7/ Jan/ 1980, sau cuộc khảo sát bằng tiếng Anh về trình độ hàng hải (vì nghĩ rằng VN bây giờ nói tiếng Mỹ) tui phải kể lại chuyến tàu rời VN, phương pháp hải hành như thế nào? Sau đó, cả ba vị gồm Giám Đốc Mr RANGO, Giáo sư TREMILLON và Giám Thị OZANO đồng ý nhận tui vào năm thứ hai Kỷ sư Hàng hải (chương trình 4 năm) nhưng hởi ơi, nếu đi học thêm hai năm nửa thì ai nuôi vợ con. Cho nên, tui xin học khóa nào lẹ lẹ để đi làm kiếm tiền thì Mr RANGO cho tui vào lớp CDQ.Thêm một khám phá: Tui có tên mới! Thầy và bạn trong lớp gọi tui là Anh nờ ‘N’ rồi GUYEN chớ hổng còn Nhơn nửa. Thầy kêu lên bãng làm toán mà tui vẫn ngồi yên thì có chết hông! Ô, tui tên Nhơn chứ đâu phải như vậy. Đi chưa tới một ngày đàng mà đã học hết mấy sàng khôn! Ngẫm nghĩ lại chuyện xưa tức cười, hôm nọ tui kể lại trong điện thoại cho thằng bạn học đang ở bên Mỹ thì nó trã lời bộ có mình mầy sao, ai cũng vậy hết!
Câu nói của thầy Quyền lởn vởn trong đầu bắt tui phải hết sức cố gắng không để thua Tây. Cũng nhờ quí Thầy bên nhà rèn luyện, Trời Phật Chúa Bà còn thương nên dù mới vừa ra khỏi trại cải tạo, đầu óc còn lùng bùng ba cái chử họp tổ, tự kiểm với đấu tranh, hết khẩn trương rồi khắc phục, tui vô lớp đã trể hơn thiên hạ 4 tháng. Đến tháng 6/1980, nhờ cố gắng, tui đậu ra được hạng nhứt Diplôme phần lý thuyết Sỉ Quan Trưởng Phiên CDQ chỉ sau gần 6 tháng đăt chân lên đất Pháp. Nhờ đó mà Bộ hàng hải cấp luôn cho Brevet bằng toàn phần khỏi cần qua 10 tháng tập sự. Năm sau, sẳn dịp nghỉ bờ Congé hai tháng, tui nạp đơn xin thi tự do bằng Thuyền Trưởng CC trong khi chờ đợi Bộ HH trã lời đơn xin cấp bằng CMM, Thuyền Trưởng HH thương thuyền Pháp. Lần này, tui được 16,82 vinh danh thí sinh gốc VN, đậu trên hạng nhì Bernard MARQUES gần 3 điểm trung bình. Năm 1996, tui đang làm trong Capitainerie cảng Marseille, có Jean BOILOT học sau tui mấy khóa vào làm việc chung. Hắn kể lại là mấy Thầy ở trong trường, CHABERT dạy Astro, DELOLME dạy Navigation, CHOMARD dạy Carte cứ nhắc tới tên mày hoài mà bây giờ tao mới gặp mặt.

           Tui viết ra đây không phải để nói về thằng tui. Đã vào cuối đời, già rồi, còn ganh đua, bài đặt khoe khoan làm gì. Tui viết để cho bạn bè cùng lớp đọc, như là lời cám ơn sự dạy dổ đối với Quí Thầy ở trường HH bên nhà. Tui không trao chuốt câu văn, nhớ sao viết vậy
Thầy Phùng Lương Ngọc bên Pháp về làm GĐ thay thế thầy Đặng văn Châu dạy Carte Marine năm thứ hai. Sau giờ học chiều, trên đường về, Thầy cho tui quá giang ra Ngã Bảy đón xe về BD. Trên xe, Thầy kể lại lúc du học bên Tây, gặp biết bao nhiêu là khó khăn khi xin xuống tàu tập sự vì mang quốc tịch VN. Tui nhớ hoài bài zône d’incertitude d’estime với erreur de vitesse, erreur d’observation par sextant và erreur du Cc, làm sao tìm cách giảm vùng nghi ngờ khi sắp vào đất liền. Thầy đâu có biết là đứa học trò Nh này khi thi môn Carte Marine bằng Thuyền Trưởng CC bên Tây, bản đồ số 5316 vùng biển Bretagne Pháp, em «Trúng Tủ» bài Atterrissage với vùng nghi ngờ. Một lần nửa, đây là lời tri ơn của em với tất cả tấm lòng đối với Thầy. . .

             Có điều này tui chắc chắn là anh em hàng hải bên nhà không biết! Đừng tưởng tui hay nha, cũng mới biết đây thôi: Hồi đầu năm 2010, Thầy PELLEN OM1 hồi xưa dạy tui môn Machine marine có đến ăn cơm ở tiệm của phân nửa kia nói cho biết, dân hàng hải Pháp khi đậu thi tuyển vào làm giáo sư trong trường trực thuộc Bộ Giao Thông, đều trở thành Sỉ Quan Hiện Dịch, cấp bực khởi đầu là Trung Úy Hải Quân ( giống như Bác sỉ bên mình vô quân đội mang lon Trung úy quân y vậy) Thầy PELLEN khi về hưu, mang cấp Phó Đề Đốc và hưởng hưu bổng trong điều kiện đó! Ông nói, nếu bây giờ đất nước xảy ra chuyện,Tổng Thống cần đến thì tao phải trở về quân ngủ liền! Ngoài ra, còn có một số các giáo sư thỉnh giảng như Hoa Tiêu, Giám đốc sở hàng hải, GĐ sở khí tượng, Cựu Thuyền Trưởng về hưu, Bác Sỉ v. . .v

           Thảo nào, bây giờ tui mới hiểu. Hồi còn trong trường, vào các dịp lễ, tui thấy mấy ông Thầy mặc quân phục toàn là cấp Tá HQ hết trơn. Các vị Thầy của tui trong trường Marseille phần lớn là cựu sỉ quan hàng hải của 2 hảng tàu Pháp Messageries Maritimes gọi tắt là MM và hảng Chargeurs réunis, hảng 5 sao mà ngày xưa chạy qua Đông Nam Á.

           Ông Cerigelli sinh trưởng tại Saigon, Hải quân Trung Tá, Luật Sư hàng hải là Giám đốc sở hàng hải Marseille phụ trách môn Législation maritime. Năm lên 13, ông theo cha mẹ hồi hương (1953) Cách nói chuyện, giảng bài của ông rỏ ràng, kỷ lưởng, chính xác đúng là một nhà luật học. Chẳng hạn như đang giảng về đề tài nào đó mà cần dẩn chứng thí dụ thực tiển đã xảy ra, ông nói: tôi xin mở dấu ngoặc. Rồi sau cùng, ông không quên: tôi đóng dấu ngoặc và giảng tiếp. Trong 15 phút nghĩ giải lao, ông kể cho tui những kỷ niệm xưa: Mr NGUYEN à, tôi biết nói tiếng Việt trước tiếng Tây vì bà vú nuôi của tôi là người Việt. Bây giờ quên hết rồi, chỉ còn sót trong trí nhớ vài ba chử bậy bạ như Ăn no quá, chết rồi. Cái bụng mập, Đu mẹ …. Cười chết được! Ông còn nhớ luôn lời bài hát bằng tiếng Nhựt bản thuở đó rất thịnh hành : bản Shina no yoru! Tui cũng có biết luôn cả hai lời Việt và Nhựt nửa, tựa là Vọng Tô Châu: Nhớ. . ., về miền đồng núi xa (hồi xưa chị của thằng bạn học bên hàng xóm dạy tui hát lúc 9, 10 tuổi gì đó).Ông ta hát một câu Shi . . . , i na no yoru yo thì tui tiếp minato no akari, murasaki no yo ni. Đôi mắt ông ta sáng lên tiếp liền Noboru janku no, yume no fune . . . như thấy lại những kỷ niệm tuổi thơ. Nghe khoan khoái trong lòng như lúc học đàn guitare cổ điển, ai đó dợt bài 14 của Carulli, điệu nhạc 6/8 thông thả trải dài không có lạc qua valse 3/ 4 sống động, vui tươi.

           Thầy CASTAGNERA có một nhận xét chính xác nhưng rất tức cười về cách đi ăn cơm tiệm của người mình. Khoản cuối thập niên 50, mổi khi tàu ghé qua Saigon, ông thường mang bom, nho, fromage, rượu chát qua cho bạn bè VN. Chiều đến, họ đèo ông trên chiếc Vespa kiếm chổ ngồi nhậu bia 33 trên bến tàu Nguyễn Huệ. Hổng có xem ông đi qua mà thích ngắm bà đi lại! Ôi chao, lạng lách sao mà thấy sợ quá chừng (Thời bây giờ chắc hết dám đi luôn) Lai rai rồi lên xe, đi ăn cơm tàu tuốt trong Chợ Lớn. Ăn xong, chạy về SG kiếm chổ ăn tráng miệng, chè đủ loại. Rồi đi uống cà phê, nghe nhạc PHÁP. Một buổi chiều đi ăn mấy tiệm !

           Vui nhứt là Thầy CHABERT, Capt de Vaisseau, Đ.tá HQ, dạy Thiên văn, toán astronautique và tân toán học rất thương học trò. Khi ra thi mà thí sinh không trã lời được thì ông vừa làm vừa giải thích ra hết trơn. Rồi ông hỏi hiểu chưa, hiểu thì ông cho 14/20! Lúc đó, ông khoản 45 tuổi, độc thân.Ông thường nói, Bon commandant thuyền trưởng giỏi khác với một CDT expérimenté thuyền trưởng dày kinh nghiệm. Giỏi là tới khi về hưu không có tiếng tăm, bị mắc cạn, đụng tàu gì hết còn kinh nghiệm thì ngược lại.

             Tui có một kỷ niệm khó quên với thầy CHABERT: Sau khi ra trường, tui được một người VN chở hết gia đinh chạy dọc mé biển từ Marseille qua Nice cho biết. Tới chổ nọ, gần Saint Tropez từ trên cao, thấy phía dưới có một bãi biển quá đẹp, bèn ngừng xe lại. Để bà xã và đám nhỏ trên xe, tụi tui đi xuống dọ đường thì gặp thầy CHABERT mặc quần tắm, khăn vắt vai, ở trần ở dưới bải đi lên. Thấy tui, ông ta nói: Ủa, Mr NGUYEN, mới tới Pháp có mấy tháng mà Vous đã biết chổ này rồi à ? Tui đáp: nhờ người bạn VN này chở hết gia đình đi qua Nice cho biết, thấy chổ này đẹp xuống dọ đường chứ đâu có biết gì ! Và đây là câu trã lời ( Nhớ nghe quí vị, một người Pháp bất chợt nói chuyên này, không có chuẩn bị trước chứ chẳng phải VN hay Tàu đâu nha ): À, vậy sao! Nè, mà Vous cũng biết rồi, từ quả đất lên mặt trăng rất gẩn, chỉ có 384.000 km, bằng 1/ 400 của khoản cách mặt trời. So về khối lượng cũng vậy. Chỉ có phân nửa mặt trăng lộ diện xoay quanh quả đất mà thôi. Phân nửa kia gọi là Vẽ Đẹp Bí Mật Của Chị Hằng. Qua bao thế kỷ, Cảnh trăng rầm hấp dẩn làm con người lúc nào cũng mơ ước được đặt chân lên đó. Đời nhà Đường bên Tàu chẳng hạn, Đường Minh Hoàng Du Nguyệt Điện, nằm mơ được bay lên cung Quãng Hàn xem vũ khúc Nghê Thường. Khi thức dậy, Ông nhớ lại rồi dạy cho cung nử múa hát. Mãi đến tháng 7/1969, Hoa Kỳ phóng hỏa tiển Appolo, con người mới đặt chân lên cung trăng. Họ mới khám phá ra bí mật của chị Hằng mà ai cũng mơ ước, thèm được chiêm ngưởng đó: khi lại gần thì hởi ơi, chỉ thấy toàn là . . lổ với lổ ! ! Chào Mr NGUYEN, chúc quí vị một ngày vui vẽ.

            Đọc tới đây, có ai hiểu gì không, đưa tay lên ? Ủa, không có ai hết à! Tui cũng vậy. Tiếp tục, lối đi kín đáo lần xuống bải cho đến khi cảnh tượng hiện ra trước mắt, tui mới hiểu câu nói của thầy CHABERT : Ây da, Tui đang đi vào khu vực . . . TẮM Ở TRUỒNG. Ô là la! Từ nhỏ đến giờ tui chưa từng thấy chị Hằng . . . Tây. Cũng chưa coi tuồng cải lương Con Gái Chị Hằng. Bây giờ trước mắt lại quá nhiều . . . Con Bé của Chị Hằng như vậy đâm ra hoảng thiệt. Bèn thối lui ! Dáng dấp của tui hơi phong trần, dân đi biển lì sóng gió như chưa biết sợ gì nhưng lại có cái tật . . . hơi nhát nên tui nhịn hay lắm kể cả nhịn thèm, nhịn ngắm hihi. Hai đứa bèn đi trở lên. Anh bạn VN cười quá chừng : ông Thầy đáo để thật, nói xa nói gần bây giờ mới hiểu !

Tự nhiên nhớ lại bài thơ Thầy Đồ:

Thầy Đồ là người tài bộ,
Gánh đồ đi giao thụ phủ Vĩnh Trường.
Trước nha môn thiết trí học đường,
Dạy năm đứa chi hồ dã dã.
Những bửa thầy Đồ nhàn hạ,
Đồ ra sân, ngắm ã hái hoa.
à lom khom, ã để . . . đồ ra,
Đồ trông thấy, ngâm nga tức khắc.
Phong tiền lạng mạn hoa xuân sắc,
Thủy diện lang bang bạnh thổ thần.
Đồ ngâm rồi, Đồ đứng tần ngần,
Đồ nọ ngắm đồ kia không chớp mắt.
Suốt năm canh Đồ nằm khôn nhấp,
Những mơ màng Đồ nọ tưởng đồ kia.
Đồ ơi, gặp gở làm chi !

             Thử hỏi quí vị chứ đêm đó, tui có ngủ ngon giấc hay trở mình hoài. Nói thiệt nha, trằn trọc một lúc rồi cũng thiếp đi. Giật minh tỉnh dậy, mồ hôi đầy mình : Đêm qua, tui vừa mơ gặp . . . ân nhân râu dài, tóc bạc phơ, nhờ ông ta mà hôm nay tui thành Tây . . . giấy ! ! ! Có Thầy dể chịu như vậy thì cũng có Thầy gắt gao, khó chịu dể sợ, đánh rớt thí sinh dù rằng đó là . . . con ruột của mình. Đối với ông, thuyền trưởng là phải giỏi nghề vì trách nhiệm nặng nề. Khi tàu cập bến ở nước khác thì đó là một quốc gia nhỏ trong một quốc gia. Cho nên, khi chấm thi môn loại vấn đáp, hỏi đứa con ruột mà nó không trã lời được, ông ta cho điểm loại và nói : Mầy về nhà nói với vợ tao là thằng con của bả học dở quá, chưa làm thuyền trưởng được. Năm tới phải ở lại lớp. Nghe khủng khiếp chưa!

             Một ông giám khảo ở trường khác đến chấm thi, còn khó ghê gớm hơn nửa : một thí sinh đã bị ổng đánh rớt năm rồi trên miền Bắc, trường Le Havre. Năm nay sợ quá, trốn ổng xuống đây ghi tên thi vì ông này chuyên chấm trên đó. Ông nổi danh là Người Chuyên Giết Thí Sinh. Số xui tận cùng, năm nay ông ta lại xuống miền Nam! Khi thấy tên ổng trên danh sách giám khảo chấm môn loại Calcul d’assiette, nó than trời. Mà thiệt, lần này, ông ta đánh rớt nó nửa! Thê thảm quá. Ông ngồi nơi bàn học trò, nó đứng trên bãng. Ông cho tựa đề xong, nói : Je vous écoute, tôi nghe anh đây.Thằng nhỏ chết điếng, không viết được một chử. Mấy phút trôi qua, ông nói: còn nhiều người sau anh đang đợi bên ngoài kìa, anh viết cái gì đi chớ! Viết chử a đi. Nó lật đật viết chử a. Ông tiếp: đừng ngưng lại kéo dài nét cuối ra, kéo ra nửa, ra nửa, tới cửa rồi, thôi cám ơn, đi ra luôn đi ! Ghê chưa các bạn đồng khóa của tui, chưa vô phòng thi mà thấy ướt quần rồi.

             Vậy mà số tui hên, hay không bằng hên là vậy. Tới phiên lên máy chém, ông hỏi tui về Carène Liquide với cách tính Moment d’inertie trong hầm tàu dầu. Ối giời ơi, đây là món ruột của em đấy các anh ạ! Mới coi lại bài này hôm qua thôi. Nghe tui trã lời suông sẻ vừa dẩn chứng công thức, chừng được ba phút thì ông ta chận lại, hỏi: anh có làm thuyền trưởng rồi phải không ? Tui đáp dạ có. Ông ta nói : Tốt, được rồi, Cám ơn anh, anh có thể đi ra !!! Lại Chúa Bà, Trời Phật, có bao nhiêu chử Amen, Mô phật tui làm ráo hết. À, tui nhớ ra rồi, ông ta tên là MENAN, nghe nói hồi xưa vốn là Phó Thuyền Trưởng chiếc tàu FRANCE với câu ghi chú bất hủ trên Paris Match Voici Le France dont La France est fière. ( Đây là chiếc tàu France mà nước Pháp hảnh diện vì nó).

             Cha mẹ tui vốn là nhà giáo ở tỉnh BD. Chuyện tôn sư trọng đạo, quân, sư, phụ là truyền thống tốt đẹp của dân mình. Trong nhà, cả hai thường hay nhắc nhở điều đó với con cái. Ngày Ba Vú tui qua đời, học trò củ đội khăn tang, đến quỳ trước linh cửu. Có anh chị học trên tui mấy năm, hoặc học sau tui mấy khóa. Hết lớp này đến lớp khác.

             Một người bạn Pháp du lịch VN, lúc đó đang ở Saigon biết tin. Anh vội mang bó hoa, đi Taxi lên BD chia buồn với gia đình. Thấy học trò Ba tui, bây giờ đã là những ông bà già trên 60 tuổi, tóc bạc phơ, hàng hàng lớp lớp đến quỳ trước linh cửu, anh ta đi từ ngạc nhiên qua đến ngưởng mộ tinh thần tôn sư trọng đạo của VN. Tui giải thích cho anh ta biết là đối với người VN, đã là học trò thì suốt đời phải giử phận học trò đối với Thầy, dù mình có làm ông này bà kia trong xã hội đi chăng nửa. Sẳn dịp, hỏi nó một câu, nó nói không biết nên tui kể cho nó nghe:

             – Hồi nhỏ, tao có học bài Phải Tôn Kính Thầy. Chuyện kể bên xứ Pháp, Tổng Thống Sadi CARNOT về thăm quê củ. Nhân tiện trên đường đi, ông ghé qua thăm ngôi trường xưa. Thầy lớp vở lòng vẫn còn đó, vội ra đón tiếp ông với vẽ tôn kính đối với một Tổng Thống. Ông ôm Thầy trong vòng tay và nói: « Thưa Thầy, đừng làm như vậy, con mãi mãi là đứa học trò bé bỏng của Thầy ngày nào »

           Trước mặt mọi quan chức và đám học trò, ông nói « Đây là Vị Thầy đầu đời, người đã khai tâm cho tôi. Tôi có được ngày nay là nhờ công ơn dạy dổ của Thầy. Riêng các em, phải cố gắng học hành, nghe lời Thầy dạy để mai sau thành người có ích cho xã hội. Nhớ nghe các em, không Thầy đố mầy làm nên! ». . . Quá tuyệt vời. Cựu GĐ Đặng văn Châu là vị Thầy đầu đời trong nghề Hàng hải của tui, duy nhất sống bên Pháp. Các Thầy khác phần lớn bên Mỹ. Ngày Thầy về cỏi vỉnh hằng, tui được các Quý Thầy, Niên Trưởng khắp năm châu giao phó, đại diện đến dự tang lễ. Tui đã giử đúng phận học trò của mình, đội khăn tang đến quỳ lạy trước linh cửu như còn bên VN.

             Trời thương cho tui tánh nhớ dai. Khuôn khổ hạn hẹp của bài không cho phép tui kể ra hết từng vị Thầy, từng bạn học, từng nét mặt, từng câu nói mà tui không quên. Cho nên, gặp lại bạn học, tui thích nhắc lại chuyện Thầy củ Trường xưa thuở nào. Âu dó cũng là Tinh Nghĩa Giáo Khoa Thư vậy.

 

Tản mạn tuổi già

TẢN MẠN TUỔI GIÀ

Nguyễn ngọc Nhơn

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

Anh chị Nguyễn Ngọc Nhơn

            Sáu mươi mấy tuổi rồi mà tui vẫn chưa biết là mình già hay còn trẻ… chán! Ra ngoài, những anh chị lớn tuổi hơn thì nói tui còn trẻ, khoái chí ! Tới khi con cái dắt mấy đứa cháu nội tới thăm, nghe câu : ”Thưa ông nội”, tui mới xác định được vị trí của mình: hết còn chổ đứng trong giới trẻ mà chỉ còn chổ ngồi kế bên . . . Bà Nội !

             Lần đầu về Việt Nam, thoáng một cái đã ở bên Pháp 18 mùa Đông (tại lạnh quá nên dể nhớ hơn mùa Xuân), chưa kể mấy năm cải tạo và lưu lạc bên Nam Dương. Về lại chợ Thủ, thời gian hình như đã dừng lại từ lúc tui ra đi : những chuyện xa xưa tựa hồ như chỉ mới xãy ra cách đây mấy bửa. Gặp một em trai ngoài chợ Bình Dương, mừng quá gọi lớn: Ê! Tường, khỏe không mậy? Bổng giật mình nghe câu trả lời: Chú hỏi gì vậy ? Má ơi! Vậy mà tui cứ tưởng mình vẫn còn trẻ, cùng lứa tuổi với em đó, tưởng là thằng bạn nên kêu lầm tên nó thuở nào ! Hỏi ra mới biết, nó chính là con của thằng Tường, bạn học cùng lớp ngày xưa. Hèn chi, giống Cha nó quá ! Tới thăm, vẫn cảnh củ nhưng qua bao tháng năm, chỉ còn trơ lại như căn nhà diển tả trong bài Hàn Nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ. Bạn bè gặp lại, mừng mừng tủi tủi. Nội Ngoại Suôi gia hết trơn rồi mà vẫn quen miệng Mầy Tao như thuở đầu trần chân đất. Nó nói tui phát tướng, thấy là biết Việt Kiều. Tui nhìn lại nó, ốm nhom, áo quần tơi tả. Chỉ có một điểm giống nhau, xin mạn phép cụ Phan Khôi: Hai mươi bốn năm sau, Tình cờ nơi xứ Thủ gặp lại nhau. Hai mái đầu xanh giờ nay đã bạc, Nếu chẳng quen nhau, Đố mà nhìn ra cho được…

             Một buổi sáng đẹp trời, sau giấc ngủ êm đềm, người thiếu phụ thức dậy sửa soạn, chuẩn bị cho một ngày mới. Đang ngắm bóng mình trong gương, bất chợt, nàng giật mình thảng thốt: hình như có một sợi tóc bạc quái ác ẩn hiện giửa những mượt mà đen bóng. Cố nhìn cho kỷ lại, trời ơi, đúng rồi. Không, trăm lần không, vạn lần không. Nàng không thể chấp nhận được sự phản bội tàn nhẩn đó. Nàng thấy mình còn quá trẻ, tâm hồn còn ngập đầy thơ nhạc, thể xác còn căn tràn sức sống, hát karaoke còn dài hơi vững nhịp, cặp chân còn khá dẽo dai suốt đêm trên… sàn nhảy. Nàng vẫn còn đang Xuân phơi phới đấy ! Bằng mọi giá, phải nhổ cho được sợi tóc quỉ quái mới được ! Từ đó, nàng đâm ra mất ngủ vì lo sợ mình già. Hể soi gương là kiếm… tóc bạc. Nhổ ít, bạc ít, nhổ nhiều bạc nhiều, càng nhổ càng bạc. Phát biểu như các quản giáo hồi còn trong cải tạo: Rồi đây nàng sẻ quá độ lên giai đoạn… sói mà không kinh qua giai đoạn bạc. Cuộc tình sẻ rụng rơi mái tóc giả chứ không lạt phai màu tóc nhuộm. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý sợ già của quí bà, trước sau như một, sẽ không bao giờ thay đổi ! Nàng đành tự nhủ: sợi tóc bạc cũng có cái duyên riêng cùa nó chứ! Thôi già rồi, dù đó chỉ là Già Không Đều vì tuổi thì già nhưng tâm hồn thể xác vẫn còn có chổ Trẻ.

             Em tuy… năm mấy hãy còn xuân!

             Nhớ lại một kỹ niệm vui hồi còn trong Trại Cải Tạo. Lần đầu tiên được xem phim câm, chiếu ngoài trời, phụ đề tiếng Anh phía dưới có tên “Trẻ Mãi Không Già” mà tức cười. Nàng bộ đội cầm micro thuyết minh. Trên màn ảnh, có một cặp tình nhân trên bải cỏ. Nàng nằm dài, chàng ngồi kế bên. Đôi mắt mơ màng, môi nàng mấp máy và chàng cuối đầu xuống. Trên màn ảnh, thấy chữ Kiss Me My Love. Giọng nói cô thuyết minh bổng trở nên lạnh lùng dử dội như ra lệnh: Cuối Xuống Tôi Bảo ! Anh em vổ tay, cười rần rần. Lại có ông già, ngồi quay hoài cuộn chỉ trong cái máy thời gian. Lúc ra về, ai nấy cười quá xá: Mút chỉ rồi anh em ơi, Ở Mải Không Về chứ không phải Trẻ mải không Già. Hết cuộn chỉ này thay cuộn khác.

             Tới đầu năm 1976, trước Tết Bính Thìn, có nhiều người ra về theo diện bà con Cách Mạng bảo lảnh. Đám còn lại như tui, loại con bà phước, cháu ni sư thì ta cứ yên tâm ở lại học tập cho nó tốt thôi ! Ngày về, sớm hay muộn là tùy… các anh. Sau đó ít bửa, anh bạn chung một A kể lại giấc mơ lạ kỳ: Anh chiêm bao thấy đang ngồi, tự nhiên có một ông già, tóc bạc phơ đến vổ đầu, miệng nói: Thiệt tội nghiệp cháu quá. Ngac nhiên, anh hỏi, Ông là ai vậy? Bị ổng mắng: Tổ Cha mầy, thời buổi này con cháu đâm ra bất hiếu hết trơn. Tao là Ông Nội mầy, từ mấy tháng nay mầy viết đi viết lại tên tao cả chục lần trong bản tự khai ba đời đó. Tôi lật đật thưa Ông Nội, họ kêu con khai chứ con đâu có biết mặt. Mà ông nội đi đâu vậy? Trả lời: Bà nội mầy ở dưới khóc quá trời, thấy ai được bảo lảnh cũng ra về hết trơn nên Bã kêu tao lên đây làm giấy cho mầy sớm theo về… với Ông Bà !

             Gặp lại sau mấy lần chuyển trại, tuy nét mặt vẫn trẻ trung nhưng tóc đà bạc trắng. Anh cũng vẫn tiếu lâm như ngày nào: học tập chưa xong mà đầu đã bạc. Thôi, ráng ở lại đây, học cho xong môn Song Thủ Bổ Bác, Tay Búa Tay Liềm của Lão Ngoan Đồng để Cách Mạng trang bị cho bộ râu và cây gậy mới mong mai sau có chổ đứng trong lòng dân tộc. Nếu không thì chắc ngồi luôn chứ oải quá rồi, sức ở đâu mà đứng nổi nữa.

            Có một người cùng đơn vị, lớn tuổi hơn, trước kia là Sếp tui, mới được con bảo lảnh qua đây năm 1990. Mười mấy năm được Nhà Nước lo cho ăn học trong Trại Cải Tạo, nên răng rụng gần hết. Qua đây rồi mà anh cũng không chịu mang răng giã. Anh triết lý rất hay: Răng hư là triệu chứng bộ tiêu hóa có vấn đề. Cơ thể đã già lại còn mang răng giã chỉ để nhai xương cho dòn chứ tuổi này còn dám cười duyên với ai ! Bày đặt gắn cái đó, bao tử chịu không nổi thì có nước húp cháo rùa. Tui hỏi ông ta, ngày xưa anh đi tu nghiệp bên Mỹ như đi chợ, về đơn vị khoe với em út vụ “trả Thù dân tộc”, vậy chớ qua đây anh có đi trả thù chưa? Cười trừ: Người mình khi nói về đàn ông, đàn bà thì hay lắm chú à. Còn trẻ thì gọi là hai vợ chồng, có nghỉa đàn ông trẻ khỏe hơn đàn bà nhiều, hai vợ một chồng cũng được, bảy ba ra vô không kể. Tới khi già yếu rồi thì kêu là hai ông bà. Lúc đó thì ngược lại, bà khỏe hơn ông ! Nước chảy ngày càng tới, đến lượt chú rồi, mới thấy tuổi già nó dở đủ thứ. Như tôi bây giờ, vạn sự hưu, xí xóa bỏ qua hết cho yên thân.

Nợ Đầm đem trả cho Tây,
Tuổi già ốm yếu, ăn chay, đi chùa.

Không phải ốm vì yêu hay yếu vì ôm đâu nhé!

            Một đồng hương ở Pháp lâu lắm rồi, về hưu từ năm 1974, kể lại tuổi già bệnh hoạn của ông làm tui cười đau bụng. Rảnh rổi, ông đến mấy trại tiếp cư tỵ nạn, thông dịch, làm giấy tờ giúp miển phí cho dân mình. Thấy ai nấy ốm o gầy còm, ông tội nghiệp hỏi: Sau 75, thuốc men không có, lở bệnh hoạn rồi làm sao? Nghe trả lời: coi vậy mà trời sanh trời nuôi bác ơi, không có thuốc tây thì mình trị theo lối Việt Nam cũng hết bệnh hà! Ngạc nhiên, ông hỏi lại, Ủa, trị theo lối mình là trị cách nào? Người kia đáp: Bây giờ, có nhiều thầy trị hay lắm, chẳng hạn như cháu đây, hồi trước nói xin lổi, đi tiểu kiến bu chớ phải chơi đâu mà nhờ ông Thầy Nước Lạnh trị cho cháu có hai ba tháng thôi là dứt cái vụ đó. Trị dể ợt, không cần thuốc men gì hết ! Trời ơi, ông cũng bị bịnh như anh kia từ hồi năm mươi mấy tuổi đến nay, phải kiêng cử đủ thứ. Thuốc tây thì uống mổi ngày, sáng ra cà phê với đường giả. Thèm miếng bánh sinh nhật của thằng cháu nội đích tôn hết sức mà không dám rớ. Việc gì quên được chớ uống thuốc thì không à nha! Cho nên vừa nghe nói, ông vui như lân thấy pháo hỏi liền: Vậy sao, đâu chú nói cho tôi nghe coi. Người kia giải thích, đâu có gì, cứ mổi buổi sáng thức dậy, bác uống liền một hơi 1 lít rưởi nước lã. Rồi trước hai buổi cơm trưa chiều, uống thêm nửa lít. Nhớ đừng ăn vặt, chừng qua một tháng thôi là bác thấy kết quả. Nó rửa sạch trơn gan ruột, hết bịnh luôn ! Bán tín bán nghi, nhưng ông nghĩ trong bụng, tưởng làm sao chớ trị cách đó thì dể quá ! Hồi còn bên Việt Nam, bia 33 uống cả thùng, sá gì ba cái lẻ tẻ, đồ cái thứ 1 lít rưởi buổi sáng. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, đồng bệnh thương nhau, ông lật đật phone cho ông bạn già người Pháp làm chung Sở, để báo phương cách mầu nhiệm trị bệnh tiểu đường mới nhập cảng từ … Việt Nam! Cả hai vui mừng quyết định ngày mai áp dụng liền. 

             Rạng ngày sau, thức dậy sớm, lấy chai nước suối Evian loại 1 lit rưởi chế ra ly. Nghĩ trong bụng, có 6 ly 0.25 như vầy nhầm nhò gì ! Ông ực một cái trót lọt. Một ly nửa, đi ngọt ngay. Thêm ly thứ ba, phải lấy… hơi, uống hai lần. Tới ly thứ tư bắt đầu… khựng ! Lạ chưa ! Sao bia xuống trơn tru mà cái thứ nước suối mắc dịch này lại kiếm chuyện kỳ cục vậy cà ! Phải gần 20 phút mới uống xong 6 ly, nhìn lại đồng hồ, sắp trể xe bus. Ông lật đật mặc áo, xách dù ra đi. Lên xe, vừa ngồi xuống ghế, nhè phát chứng… mắc tiểu. Má ơi, hồi nãy, lụp chụp sợ trể xe, quên hát phim ngắn. Chịu trận gần 20 phút với bầu tâm sự nặng trĩu mới tới trạm xuống. Nhiều lúc xe bị dằn xóc, ông muốn chết được chớ phải chơi đâu ! Tội cho ông, xuống trạm phải lết bộ gần 200 m mới tới cổng, sau đó phải đi né bên lề đường dẫn vào trong cơ quan, sợ rủi ro gặp ai đó chào hỏi bắt tay thì có nước qua đời. Nhẹ bầu tâm sự vừa xong, thấy ông bạn Pháp gương mặt hầm hầm chung vô thế chỗ, miếng nói: Mẹ họ, chút xíu nửa là có án mạng xảy ra trên xe bus rồi, mắc tiểu quá chừng mà thằng tài xế dịch vật lái xe như đi ăn cướp không tránh ổ gà thiếu điều bể bọng, tưởng chết rồi chứ! 

            Có sự khác biệt rất xa về quan niệm tuổi già của dân VN với dân Âu Mỹ, giữa người mình ở trong, ngoài nước, ông bà hồi xưa và đời bây giờ. Với dân Âu Mỹ, hỏi tuổi đàn bà là điều khiếm nhã vô cùng, nhất là đối với người lớn tuổi. Thân thiện lắm thì câu trả lời cũng rất Tây, tuổi Song Nam, Hổ Cáp…Có người nói, cái chết không có nghĩa lý gì hết nhưng chỉ buồn là sáng ra không còn được uống ly cà phê nóng (M. Pagnol). Trên tàu Pháp, tiếng lóng gọi Commandant là Le Vieux, Le Pacha, coi như ông già là chức vị mặc dù nhiều khi ông vẫn còn trẻ.

            Lúc mới qua, tui có quen một người Pháp cùng tuổi. Lúc đó, anh vẫn còn độc thân vui tính. Hai mươi năm sau gặp lại trên hè phố, tay bắt mặt mừng. Cùng nhau đi dạo, để ý thấy anh đi hơi cà nhắc.Tui hỏi thì anh ậm ờ không trả lời. Đi ngang qua tiệm giày, có một kiểu vừa ý, anh liền vào mua. Thử được số 42, anh lại bảo cô tiếp viên gói cho anh một đôi số 41. Tui ngạc nhiên hỏi, anh mua tặng cho ai vậy thì anh bảo không, mua cho anh ta ! Tui nói làm sao đi được đau chân chết. Sau đó, anh giải thích, từ ngày vợ anh có tuổi, bà đâm ra sanh chứng gắt gỏng. Mỗi khi thấy mặt anh là hình như có chuyện để cằn nhằn cự nự. Về nhà không có gì vui. Chẳng thà anh mang đôi số 41, dù phải cà nhắc ngoài đường nhưng bước vô nhà, lột đôi giày ra, sướng tê người, quên luôn Tổ Quốc, mặc cho bà muốn nói gì thì nói (Ê, ê, đây là chuyện Tây, quí vị liền ông phe ta đừng tưởng thiệt bắt chước là tụi mình… què với nhau hết đó).

            Một tác giả Pháp, viết về tuổi già Việt Nam nhận xét hết xẩy là người mình suốt đời chỉ biết lo cho con cháu, không bao giờ nghĩ đến chuyện dành dụm riêng tư. Đến lúc làm việc không nổi nữa thì ở nhà giữ cháu. Đám con lớn lên, đi làm nuôi lại cha mẹ vì người dân thường ở xứ mình không có trợ cấp cho người già. Người Pháp khi lớn tuổi, họ tính từng ngày mong nghỉ việc lảnh tiền hưu, đi chơi. Người mình còn sức là còn làm, ở nhà phụ với con cháu được cái nào hay cái đó.

            Đời sống ở nước ngoài cũng ảnh hưởng khá nhiều đến dân mình: thích đi du lịch, họp bạn đồng hương, hoạt động xã hội, karaoké, khiêu vũ… Những chuyện đó, nếu còn ở lại Việt Nam, chưa chắc gì mình làm. Tuổi già ở VN rất cam phận, ngồi yên, đi đứng thong dong, từ tốn, hai tay đong đưa không quá gối. Ra ngoài nhìn thẳng, không ngó ngược ngó xuôi, sợ thiên hạ chê già mà còn ham vui mất nết.

            Chắc chưa có ai dám khai sanh tên con mình là… Già ! Nè, bộ tính giởn mặt, hết tên đặt rồi sao Cái già coi như là danh từ duy nhất, ngoài ra nó là tĩnh từ. Gọi ai là thằng cha già, con mẹ già tức có vấn đề và thường đi đôi với trạng từ… gân, dịch, ham vui, bứng giựt, bộp chộp. Dân Việt Nam ở đây gọi tiếu lâm là … Già Không Đều. Thời tụi mình còn nhỏ, ông nội, ông ngoại nghỉ trưa thì mình đi kiếm chổ khác chơi. Bây giờ đó hã, khỏi đi! Muốn đi thăm cháu, thì ông nội phải phone trước coi nó thức chưa rồi mới dám đi chớ không, tới nhà bấm chuông cháu nó giật mình! Xưa, cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đó. Ngày nay, con chỉ chổ nào thì mình ngồi chổ đó cho yên.

            Già cưng cháu là chuyện thường. Nhiều khi cưng quá mình cũng bị kẹt. Ba tui, mỗi khi đi công chuyện dưới Sài Gòn, đều ghé qua nhà thăm mấy đứa cháu. Có lần, nhè trước mặt ông mà tui phát vô mông thằng cháu nội đích tôn, ông liền xách gói bỏ về Bình Dương. Sau đó Vú tui kể lại là Ba tôi than phiền, nó sanh con ra… để đánh. Ông đã quên hồi tôi còn nhỏ, ăn bánh tét hỏng nhưn dài dài…

            Người già thuở xưa bên Việt Nam không sợ chết mà lại sắm quan tài để sẳn sau nhà, xây kim tỉnh. Ngày nay, già phải tẩm thuốc bổ, uống kích thích tố cho sống thọ để… yêu đời, cởi ngựa, ngắm hoa. Điều kỳ lạ, ít có ai tự thấy mình già. Bạn bè lâu năm gặp lại, người này thấy người nọ già quá trời. Cái già hình như chỉ dành cho người khác.

            Sợ già là điều cố hửu của con người. Đến khi thực sự già, chấp nhận mình già lại đâm ra sợ đủ thứ chuyện: sợ ăn uống không tiêu, sợ mỡ sợ đường, đi đứng sợ té, sợ trái gió trở trời. Trong bài Ngỏ Ý của Nguyên Sa có đoạn: Đợi đến ngày mai, tôi e sợ rằng đời sẽ bỏ tôi làm phu lục lộ, đi đo sự già nua của tâm hồn mình bằng mớ tóc bù tung và đôi mắt quầng thâm của người yêu, nàng đi lấy chồng rồi và sinh con đẻ cái.

            Cách đây mấy năm, truyền hình Pháp có chiếu phim tài liệu, nói về một làng hẻo lánh bên Nam Mỹ, nằm giửa thung lủng của rặng núi Andes. Nơi đây, toàn những người sống trên trăm tuổi mà vẩn còn khỏe mạnh, cày cuốc làm việc ngoài đồng áng (làm việc thôi nha, còn… vụ khác thì không có nghe bàn tới). Tác giả phim trên còn kể lại chuyện vui xứ đó: Trên đường, thấy có một ông già chừng 70 tuổi, vừa đi vừa khóc. Động lòng, anh ta dừng xe lại hỏi xem ông ta có cần gì không thì ông cho biết vừa… bị cha đánh đòn! Quá ngạc nhiên, nhưng anh ta cũng kiếm cách an ủi: Thôi, ông đừng buồn, dù sao cũng là cha mình. Nghe vậy, ông càng khóc lớn hơn vừa nói: không phải vậy mà vì lần này bị đòn mà… ông bà nội tôi không có can!
Sống lâu nhứt ở Pháp phải kể là bà Jeanne Calment. Báo chí loan tin buồn khi Bà từ trần năm 1997 hưởng thọ… 122 tuổi. Nghe nói hình như có một người vui. Chuyện gì mà kỳ cục vậy ! Người ta qua đời mà lại vui ?

            Thì ra, bên Pháp, có lối bán nhà rất lạ của những người già (Viager). Đại khái, người bán đòi một số tiền lớn nào đó (bouquet) tương ứng với bao nhiêu phần trăm của căn nhà. Sau đó, mỗi tháng người mua phải trả góp (Rente) như tiền mướn nhà cho đến khi nào người bán qua đời thì nhà đó mới thuộc sở hửu người mua. Có khi là nhà trống, người mua vào ở liền. Có khi người bán ở lại đó, người mua cứ chờ đến khi nào người bán qua đời mới lấy được nhà. Thỏa thuận mọi đìều kiện, giá cả dỉ nhiên tùy thuộc và số tuổi, sức khoẻ của người bán. Như đánh bài vậy mà, năm ăn năm thua.

            Khoảng 42 năm trước khi Bà mất (lúc đó cũng đã trên 80 tuổi rồi) có người chịu mua viager căn nhà của Bà, với điều kiện bà được ở lại đó. Nhà đẹp, tiền Bouquet khá lớn, tiền trả hàng tháng cũng cao vì người mua chắc mẩm rằng chừng vài năm nửa (ai biết đâu, nhiều khi ngày… mai bà ra đi hổng chừng) căn nhà sẻ thuộc về mình, tha hồ lời tiền của, sướng nhé!
Nào ngờ, ai cũng học hoài mà không thuộc được chử Ngờ ! Hàng tháng cứ phải lo trả tiền nhà mà lại không được vô ở. Mắc thấy mồ chứ đâu có rẽ, biết làm sao bây giờ. Mong cho bà ra đi mà bà vẩn sống khoẻ mạnh ngon lành. Sẳn tiền đó, bà chỉ có việc mua sắm, cho tiền con cháu thôi. Người mua, quá mỏi mòn vì chờ đợi, bèn… qua đời trước bà sau gần 20 năm đóng hụi mà vẩn chưa được vô nhà. Người con của ông ta phải tiếp tục trả nợ thêm 22 năm mới được dọn vào
Trong phạm vi văn chương, như truyện Kiều chẳng hạn, Nguyễn Du diển tả cái già đến rất đường đột, tàn nhẩn. Nó len lén chen vào cuộc đời hồi nào không hay để rồi bất chợt, hất chân con người:

Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,
Cái già sòng sọc nó thì theo sau.

Cho nên, chúng ta phải vui sống, trào phúng, đừng thèm nghĩ mình già hay trẻ cho mệt. Nguyễn Công Trứ hóm hỉnh tự trào trong bài Tuổi Già cưới Nàng hầu:

Giai nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngủ thập niên tiền nhị thập tam!

(Đêm động phòng em hỏi anh mấy tuổi ? Nói cho em biết nha, 50 năm về trước anh mới có… hăm ba hà!!).

           Giởn cho vui chút thôi, nếu có về bên nhà, nhớ nghe, tui nhắc lại là đừng có nghe mấy nàng ngâm nga, tình tứ đâm ra mờ mịt tưởng thiệt là chết bỏ xác đó nha:

Đứng xa cứ tưởng…Ông Già,
Lại gần mới biết, chỉ là… Chú thôi.
Nắm tay, đích thực… Anh rồi,
Lên giường thủ thỉ là… Tôi với Mình.

Để rồi sau đó trở qua đây, lén thở than một mình không cho má bầy trẻ biết:

Chưa đi, chưa biết Sài gòn,
Trở về bên Mỹ, hổng còn một xu!
Nghĩ ra mới thấy mình… ngu,
Thằng lớn nhịn đói, thằng cu… ngoẻo đời !

Ba bài thơ liên hoàn Lão Tướng Quần Vợt của cụ Hương Thủy đã từng làm các Nử Đấu Thủ đỏ mặt, bỏ vợt chịu thua:

Càng già càng dẻo lại càng dai,
Lão tướng ra quần chẳng kém ai.
Đấu mấy hiệp liền không chịu nghỉ,
Tranh ba ngày lẻ chẳng mòn hơi.
Khi mau, khi chậm khi mơn ngắn,
Lúc xuống, lúc lên, lúc thọc dài.
Gác qua, gác lại phô đủ kiểu,
Mòn lông banh nỉ Lão còn chơi!

Mòn lông banh nỉ Lão còn chơi,
Cầm sức cho nên chẳng dám lơi.
Chống đở gay go, sùi bọt mép,
Cò cưa dai dẳng toát mồ hôi.
Chơi trưa chưa phỉ đòi chơi tối,
Đánh chiếc xong rồi lại đánh đôi.
Phút chốc cơn mưa đâu ập đến,
Cuộc vui hào hứng tạm ngưng rồi.

Cuộc vui hào hứng tạm ngưng rồi,
Lát nửa lau khô, Lão lại chơi.
Biểu diển sân quen, hay đáo để,
Nắn dồi banh mới, sướng mê tơi.
Người trên ụp xuống phì phào thở,
Kẻ dưới nâng lên, khúc khích cười.
Đối thủ gặp nhau mùa nắng cực,
Quần năm ba hiệp ngã lăn nhoài !

            Già thường sinh ra lẩm cẩm, nói nhiều mà toàn là chuyện đời xưa, đời trước. Vô lai rai ba sợi, hứng chí, còn dám mở máy radio kể, khoe các chiến tích vẻ vang trên tình trường với chị hàng xóm mà vốn xưa nay nín thinh, dấu nhẹm bà xả. Nè, ngậm miệng lại dùm nghe quí vị liền ông ! Chết cả đám rồi lây lan tới bạn bè chớ không phải chơi đâu ! Trong Cải Tạo gọi là: Phải khai báo thành khẩn thì C. M. (đọc là… Con Mẻ) sẻ tha thứ vì C. M. biết hết rồi, không dấu diếm được đâu hihihi. Tây nói: « Muốn nói láo với Bà Xả, phải có trí nhớ dai !  » Ê, mấy quí ông chồng phải trả cho tui $5, tiền nhắc nhở quí báu đó à nha!

            Trời sanh người đàn bà không bao giờ quên bất cứ chuyện gì của ông xả mình. Như hai ông bà kia ra ngồi ghế đá công viên phơi nắng sáng, bà nói với ông:

          – Em nhớ ngày xưa, hồi mới quen nhau, lần đầu tiên hẹn hò đi chơi, anh ngồi sát bên em trong công viên Tao Đàn như trong thơ Xuân Diệu vậy.

            Ông lật đật ngồi sát vào bà. Bà tiếp tục:

          – Mau quá, mới đây đã mấy chục năm rồi mà Em cũng còn cảm nhận cánh tay anh choàng qua vai em như hôm qua.

            Ông bèn choàng vai bà. Mắt bà sáng lên, bà nói trong mơ:

           – Lúc anh cắn nhè nhẹ vai em, em mắc cở quá chừng, sợ có ai thấy kỳ chết.

            Nghe câu đó, ông vụt đứng dậy nói với bà:

           – Em chịu khó ngồi chờ anh một chút nghen, anh chạy vô nhà lấy… hàm răng giã!!!

            Thấy ớn chưa, lở có chuyện gì, mấy chục năm sau cũng còn nhắc hoài !

            Nói vây chứ nhiều chuyện trước mắt thì già lại quên, chẳng hạn như kiếm hoài không ra tức muốn chết, cặp kiếng đọc báo mới để đâu đó hôm qua mà bửa nay không nhớ thấy.

           Chuyện tiếu lâm xưa, có ông già phụ nuôi cháu nội cho cha nó đi làm xa. Ông nổi danh trong làng vì thuộc làu mấy chục bộ truyện tàu. Làng xóm có chuyện gì, ông thường ví von đem chuyện Phong Thần, Tam Quốc… ra so sánh xưa với nay: Bởi vậy, hồi xưa . . .

            Gởi cháu đi học, tới tháng lại không nhớ đóng tiền trường. Tháng nào như tháng nấy, phải nhắc hoài, thầy đồ đâm ra bực mình. Một hôm, thầy gọi đứa cháu lại bảo nó về nói với ông nội mày là hôm nay học câu: Hớn trào Tam Kiệt, Khổng Minh, Trương Lương Hàn Tín. Nó về kể lại trong lúc ông đang ăn cơm chiều. Bỏ đủa xuống, ông nói, Cha, coi bộ Thầy mày quên rồi đó. Ngày mai vô lớp, nhớ kín đáo nhắc ổng, Hớn trào Tam Kiệt là Khổng Minh Trương Lương Tiêu Hà chớ không phải Hàn Tín. Ngày sau, đứa cháu làm như ông nó dặn, thì Thầy đồ bèn nói nhỏ với nó: Mầy về nói với ông nội mày là chuyện xưa nhớ hay quá mà sao chuyện đóng tiền học mỗi tháng lại cứ quên hoài vây !

            Già thích dạy đời nhưng nhiều khi cũng bị kẹt. Chuyện kể, cô nọ dắt em nhỏ đang đi trên đường bổng thấy hai con chó… dính với nhau. Đứa nhỏ hỏi, hai con chó đang làm gì vậy? Cô ta lật đật kéo tay nó đi sang qua phía bên kia đường, miệng nói:

           – Thôi thôi đừng lại gần, mấy con chó đang… cải lộn với nhau đó.

            Ông già đi gần bên nghe vậy chen vô:

           – Nói với con nít phải nói thiệt đừng tập nó nói láo.

            Cô bèn nổi giận cự lại:

           – Ông già vô duyên ! Khi không lại xía vô chuyện người ta.

            Sửng sốt, ông đáp :

           – Tôi già rồi mà cô vẩn còn muốn… cải lộn với tôi à!

Một chuyện khác khá vui về khã năng giường chiếu của các lão tướng “Già không đều”. Hai vợ chồng đến gặp BS gia đình. Ông vào khám trước, đem thắc mắc hỏi bác sĩ về cái khoãn yêu đương, tù ti túc tích của mình :

           – Sao kỳ quá BS, khi tui sinh hoạt vợ chồng với nhà tôi có lúc thì nóng, mồ hôi ra như tắm, lại có khi lạnh run vậy

           – Ông vẫn còn khõe vậy à, để tôi xem lại rồi kỳ khám tới, tôi sẽ giãi thích cho ông.

            Tới phiên bà vợ vô. Khám xong, BS bèn hỏi tình trạng của ông chồng đúng như vậy không, thì bà đỏ mặt trã lời:

            – Đâu có gì bất thường đâu. Một năm ông ta chỉ có hai lần, một khi mùa hè trời nóng, một lúc mùa đông tuyết lạnh. Ông nhà tôi thiệt là . . .!!

            Nhớ hồi nào còn trai trẻ, hùng dũng bước đều một hai, hát vang trời : súng là vợ, đạn là con, thà hao mòn hơn . . . cất kỷ ! Chỉ có một số ít người vì lý do sức khỏe hay sao đó nên được miển dịch vỉnh viển khỏi làm bổn phận Công Dân Nam. Rồi ngày qua đi, một mai qua cơn mê, đến lúc hát bài Giả Từ Vủ Khí « để có một ngày, có một ngày chinh chiến . . . tàn ! Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con chim héo . . . em ơi » người thì âm thầm như những đêm không trăng sao, buông dao đồ tể thành Phật, súng đạn quăng cái xạch thành ông . . . Từ. Ngược lại, cũng có người không chịu cam phận, còn nhớ tiếc thời vàng son, oanh liệt của mình, giờ nhìn cải dưa, nhớ xưa cà rốt như Hổ Nhớ Rừng . . . Lá Thấp :

Sáng nay, ngồi nấu nước chè,

Nhớ lại chuyện củ nó đè trong tim.

Ngồi buồn, ngó xuống con chim,

Xưa sao hùng dũng giờ im thế này!

Lắc qua, lắc lại mõi tay,

Sao cứ ủ rủ, ngây ngây, khờ khờ.

Thôi rồi! Tàn một giấc mơ,

Cần câu còn đó, mồi trơ hết rồi . . .

            Lúc tui lập gia đình, cha tui có nói một câu mà tui nhớ mải đến bây giờ: Lấy nhau vì Tình, ở với nhau vì Nghĩa, sống với nhau cho phải Đạo, đó là 3 giai đoạn trong đời sống Vợ Chồng. Người đàn bà có thương có yêu mới chịu về làm vợ, nâng khăn sửa túi cho chồng. Họ mong đến khi tuổi già có nơi nương tựa, gọi là sống với nhau đến bạc đầu. Sanh con đẽ cái, nối dỏi tông đường, dung nhan không còn được như xưa, mình phải biết ơn mà đối xử cho phải Nghĩa. Khi lớn tuổi, qua mấy mươi năm chung sống dù không còn nói chuyện với nhau nhiều như xưa nhưng tánh ý đã tương thông, đó là Đạo Vợ Chồng vậy.

            Án Anh đem Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín ra thuyết phục Vua để từ chối đứa cháu trẻ của Ông ban cho, quyết lòng ở lại với người vợ già của mình, còn sáng ngời trong truyện xưa tích củ…

            Thủ khoa Bùi Hửu Nghĩa, lúc bị tù oan, nhờ có Bà vợ lặn lội ra tận triều đình Huế đánh trống kêu oan mà ông được giải nạn. Đến lúc Bà qua đời, ông bận công vụ ở xa không kịp về tống táng. Ông viết hai câu đối rất thương tâm:

Ngã bần khanh năng trợ,

Ngã oan khanh năng minh,

Thiên hạ giai xưng khanh thị phụ

Khanh bệnh ngã bất dược,

Khanh tử ngã bất táng,

Thế gian đàm tiếu ngã phi phu.

Tạm dịch:

Thuở tôi nghèo, Bà giúp đở,

Lúc tôi oan, Bà giải tội,

Ai ai cũng khen: Bà xứng danh là Vợ Hiền

Bà lâm bệnh tôi không thang thuốc,

Bà nằm xuống tôi chẳng cất chôn,

Trên đời ai cũng chê: Tôi không xứng mặt làm Chồng.

Thông tắc cùng, cùng tắc biến, biến tắc thông mọi sự đều mãi mãi trãi qua như vậy. Khi lớn tuổi, giác quan con người không còn bén nhạy như xưa. Âu cũng là điều may, nếu không mình sẽ triền miên trong Ngủ Uẩn.

Về lại Bình Dương, tối tối, ngồi nói chuyện với Ba tui trước sân nhà, cỏ mọc um tùm, ếch nhái kêu inh ỏi. Tui nói để nhờ người đến phụ với con, dọn dẹp sân vườn lại cho gọn gàng thì Ba tui nói: Kệ nó con, Đừng Nghe, Đừng Thấy…

Ba tui rất thích hai câu thơ nói về cuộc đời:

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung

Tạm dịch:

Tới như dòng nước, tan như gió,
Chẳng biết từ đâu, đi đến đâu.

            Mãi mê nói chuyện, tới đây tự nhiên tui thấy buồn cười cho chính mình: Tui vẫn chưa thoát ra được hai chử Nghe và Thấy của Ba tôi dạy. Tôi vẫn còn Nghe Thấy rất rỏ trong tâm tưởng những việc thuở xa xưa. Tui viết tản mạn như hồi học lớp Đệ Tứ dịch bài Thème bị Thầy Phạm Duy Nhượng (anh của Nhạc Sỉ Pham Duy) chê… Văn Hôi Nước Mắm!

Thuở đó, tui vừa 14 tuổi, học đệ tứ trường Nguyễn Trãi Bình Dương. Bài Thème dịch 4 câu thơ ra tiếng Pháp, lời than thở của con trâu trong Lục Súc Tranh Công:

Trâu mõi mệt, trâu liền năn nỉ,

Một mình trâu, ghe nổi gian nan.

Lóng canh gà vừa mới gày tan,

Chủ đã gọi thằng chăn vội vã . . .

Tui dịch ra như vầy:

Le buffle se dit pitié,

Je suis seul et travaille beaucoup.

Dès que le coq chante,

Le propriétaire appelle tout de suite le berger . . .

Thầy P. D. Nhượng sửa lại :

Le buffle, exténué par un long travail, murmure ses plaintes.

Que de misères ai-je tout seul supportées.

Sitôt que le chant du coq annonce la fin des veilles

Le maître se hâte d’appeler mon gardien . . .

Đọc lại câu của mình, đúng là Văn Hôi . . . Nước Mắm thiệt ! Vì lời phê này mà tui nhớ đến bây giờ. Tui thấy hơi bị … « Già Không Đều » mặc dù « Không Còn Có Chổ Trẻ » (viết theo cách nói . . . thời thượng đó nha. Tới luôn bác tài, cho vui bao la, mênh mông . . . tình đời hi…hi…hi)

Những tưởng khi già mình sẽ khác người, rốt cuộc cũng lẩm cẩm, vật vờ y hệt. Xin mượn mấy câu thơ của Tô Thức để kết luận bài này:

Lô sơn yên tỏa, Triết Giang triều,
Vị đáo thiên ban hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt cảnh,
Lô sơn yên tỏa Triết Giang triều.

Tạm dịch:

Khói ngút sơn Lô, sóng Triết Giang,

Chưa đi tới đó những mơ màng.

Tới nơi mới thấy không gì khác

Khói ngút sông Lô sóng Triết Giang

O.K, ngôn từ quốc tế

O.K, ngôn t quc tế

Nhơn (Pont.13)

Riêng tặng Quan Tàu Phú Quốc
             Suốt đời hải nghiệp, rày đây mai đó, tiếp xúc với nhiều giống dân khác nhau, không nói chuyện được bằng tiếng Anh, Pháp thì ngoài cái vụ quơ tay chỉ chỏ khi ngôn ngử bất đồng, còn có… O K là hai bên nói lia chia thôi! Cho đến bây giờ, tui vẫn nghe và nói thường ngày khi lên tàu kiểm soát (Tous les moyens sont bons!) Nghĩ tức cười, trong khóa toàn là dân trường Tây có mình tui là trường Việt. Bây giờ bạn bè qua bên Mỹ hết thì có mình tui lại lưu lạc qua Tây. Đã đành là tây giấy rồi nhưng khi phone thăm nhau, thì hai bên dù nói tiếng Việt, cũng chen vô O.K loạn cả lên chứ hổng có Oui, Non, çà va, d’accord, đo cắt gì hết. Gọi về Việt Nam cũng vậy, mình nói tiếng Việt mà bà con ta cứ hỏi: sao lối rày sức khỏe, công việc O.K không…

             Tháng 4/2010, 2 đứa ở bên Tây, tui và Nguyễn Hiếu Liêm khóa 19 với Nguyễn Q.Kiệt bạn cùng khóa bên Mỹ qua đây, lên Paris thăm thầy Ducasse.Thầy trò gặp lại nhau sau mấy chục năm xa cách, vui mừng hỏi thăm tin tức nhau, thật là… O.K nhưng suốt buổi không có ai nói O.K! Điều đó chứng tỏ O.K cũng có giới hạn chỉ xử dụng trong bạn bè hoặc ngoài đời. Với bậc trưởng thượng, ông bà, thầy cô giáo mình chỉ có Dạ Thưa, Yes Sir, Oui Monsieur chứ chen O.K nghe không giống ai hết. Cho nên, tui tò mò, cố tìm kiếm thu thập trên sách báo Pháp, Anh và Internet nguyên lai của chữ O.K gởi tặng bạn bè cùng khóa, đồng nghiệp xa gần. Anh em nếu có biết nguyên do nào khác nữa từ đâu mà có O.K thì cứ thêm nào để bạn bè đọc cho vui.

            Có nhiều nguồn gốc khác nhau khá thú vị của O.KAY (O.K). Đó là tiếng Mỹ thuần túy không phải tiếng Anh, nhập cảng, phổ biến khắp Âu châu chỉ mới sau thế chiến thứ hai thôi. Trước đó, người Anh đâu có biết xài. Chổ nào Mỹ tới là có O.K. Bên Việt Nam mình cũng vậy. Tiếu lâm nhứt là chỉ có một số rất ít người Mỹ biết lai lịch của nó. Tui có hỏi vài Sĩ Quan Hàng hải Mỹ và họ trả lời rất… Mỹ: I don’t know! Ngày nay, nói hoặc viết O.K quen thuộc đến độ hình như nó trở thành một từ quốc tế, không còn là riêng Mỹ, được xữ dụng nhiều nhứt trên khắp thế giới. O.K có thể viết dính liền, hoặc rời ra O K hay là có thêm chấm ở giữa O.K hoặc với hai chấm O.K. cho chính xác. Trong tất cả ngôn ngử đều có O.Kay, hoặc Ô Kê, kể cả viết ra chữ trong các thư từ trả lời. Nghĩa của nó đã biến thể rất nhiều không còn đơn giản là Đồng ý, Yes, Oui. Khi nói chuyện, vị trí O.K nằm trong câu và tùy người nói mà có nghĩa khác nhau: nằm ở đầu câu là để trả lời, ở cuối là câu hỏi, ở khoảng giữa là kể sự việc thí dụ: Xin nghỉ phép mà ông chủ trả lời O.K tức là cho phép. Xếp giải thích công việc để mình làm, hỏi mình O.K? là hiểu, nghe rỏ chưa. Chuẩn bị đi đâu, khi O.K là xong xuôi, đi được rồi. Bạn bè hỏi thăm nhau căn nhà mới mua ở khu vực đó ra sao, O.K là tốt. Nghe bạn bị bệnh, gọi tới thăm, bạn O.K là bớt rồi. Đi xin việc làm, chủ Hãng O.K là đơn được chấp thuận. Bạn nhập viện giải phẩu, gọi tới thăm nghe gia đình trả lời O.K là đã tỉnh lại, khỏe rồi… Nói tóm lại, dù dưới dạng trạng từ hay tỉnh từ, O.K không thiếu gì cách diển tả tùy theo tình huống: O.K lắm, không O.K gì mấy, người ta O.K mà minh không O.K…

            Chữ Tây vốn dỉ khá dài. Nhớ lại kỷ niệm hồi nhỏ đi học ưa đố nhau chữ tây dài nhứt là chữ gì: anticonstitutionnellement. Khủng khiếp ! Khoảng mấy mươi năm sau này, Tây cũng viết tắt các nguyên phụ âm đầu tiên của chữ giống như kiểu Mỹ, hoặc khi họ nói ra, thì tóm gọn lại chỉ còn 2, 3 âm đầu của chữ đó thôi. Thời gian ngày nay quí báu lắm! Điện thoại, trả lời qua Fax cũng xài O.K (mà không có O.K man dù là Yes we can nha). Không quen thì chịu thua, thấy lạ lùng, khó hiểu thí dụ như R.A.S: rien à signaler vô sự, d’ac: d’accord đồng ý Bon’ap: bon appétit chúc ăn ngon, à plus: à plus tard hẹn gặp lại, Manifestation: manif biểu tình… Có cả mấy trang giấy giải thích, viết rõ ra nguyên chữ rõ ràng cho dân chúng hiểu tên chữ tắt (abréger) của các cơ quan, công tác chính phủ, thí dụ CAF là Caisse d’Allocation Familliale, đọc thẳng một chữ là CAF luôn, quỹ trợ cấp gia đình.

            Cho nên mấy nhà sưu tầm bèn nhảy vô tìm cách giải thích do đâu mà có O.K. Họ nói O.KAY có thể do chữ O.KEH thuở xưa của nhiều bộ lạc da đỏ xài như YES bây giờ. Lại có người cho rằng chữ này do Obeliah KELLY, tên của một nhân viên hỏa xa bên Mỹ hồi thế kỷ 19 trách nhiệm việc kiểm hàng. Anh ta ký tắt tên mình là O.K phía dưới tấm giấy cho phép đoàn tàu rời ga một khi tất cả đều hợp lệ. Lâu dần, người ta có thói quen, khi nói có giấy phép, được rồi là… O.K.
Lại có một giải thích khác nằm trong cuộc chiến tranh Nam Bắc của Hoa kỳ (1861-1865) giửa 23 States phía Bắc và 11 States phía Nam. Cứ mỗi buổi chiều là ban quân số tổng kết số quân sĩ tử trận. Nếu không có ai, họ ghi O.K là 0 Killed (zero killed): suốt ngày hôm đó yên ổn. … O.K! Lối giải thích này không thuận lắm vì 4 năm chiến tranh chết 617.000 chứ đâu phải ít! (Xin mở dấu ngoặc kể chuyện vui cho quí vị nghe về số Zero: người Tàu phát âm chữ R thành chữ… L! Cho nên Paris thành Ba Lê, Roumanie thành Lổ Ma Ni rồi Việt Nam ta xài luôn. Gặp ở Marseille, một người Việt gốc Bắc Bùi Chu Phát Diệm đi du lịch qua đây, ông ta bảo mới trên Bá Nê xuống! Ráng hiểu thôi! Mới hôm qua, trong phiên trực trên đài kiểm soát, có chiếc tàu Trung Quốc sắp vào bến, gọi Radio báo tin giờ đến bằng tiếng Anh theo Code Hàng hải: Phỏng định giờ tàu sẽ đến điểm hẹn Hoa tiêu là 10 giờ sáng, trong 2 tiếng đồng hồ nữa. My Echo Tango Alpha to pilot station is One Zilo, Zilo, Zilo Local Time, two hours from now over (My E.T.A is 10.00 LT, 2 Hours from now over). Anh chàng Sĩ quan vô tuyến này đọc chữ Zero là Zilo theo… Tàu hihi!

            Cũng nằm trong những giải thích hơi ly kỳ kiểu đó, lần này chữ O.K lại có nguồn gốc nước ngoài. Nó xuất phát từ bến cảng Les Cayes nằm ở phía Nam đảo Haïti, vốn là thuộc địa của Pháp, độc lập từ năm 1804 thủ đô là Port au Prince. Nói theo tiếng Pháp ở Les Cayes là Aux Cayes. Khi tàu ghé bến, thủy thủ Mỹ nhà ta có thói quen đi xuống phố Les Cayes (rendre aux Cayes) vì nơi đó có rượu Rhum thiệt ngon. Mang về xứ, họ quảng cáo: This is really AUX CAYES (O.K) stuff, đây là rhum thứ thiệt, ngon hảo hạng! Cách giải thích này được truyền bá khá lâu trong dân gian.

            Cho đến ngày ông Allen Walker Read, giáo sư đại học đường Colombia đưa ra câu trả lời nghe hợp lý và mọi người sau đó đồng ý. Ông ta nói hai chữ O.K thật ra là viết tắt hai chữ đầu của «OLL KORRECT » một biến dạng rất buồn cười của ALL CORRECT. Mà tại sao do đâu lại xuất hiện sự biến dạng kỳ cục vậy? Đơn giản do đầu óc tiếu lâm khi viết một câu hoặc diển tả một lời nói nào đó mà lại dùng toàn là các nguyên phụ âm đầu tiên của các chữ khi nói ra rồi mở dấu ngoặc giải thích)

          Xuất hiện vào cuối thập niên 1830-1840, định kiến này đã gặt hái được sự thành công vỉ đại trên các báo ở Boston. Người ta ghi nhận: K.Y (know yuse) No use không đáng, hết xài, N.S (nuff said) Enough said nói đủ rồi. Và dỉ nhiên, chữ O.K (oll korrect) All correct cũng đã được xữ dụng từ tháng March 1839!

           Trong khi mấy chữ khác xuất hiện vài ba lần rồi chết ngắt vì thiên hạ hổng xài nửa thì chữ O.K vươn lên mạnh mẻ, lẹ làng. Có thể họ cho là khi nói ra hai chữ O.K «đúng hết» thì trong đầu người đó lại có chút nghi ngờ, hóm hỉnh gì khác vì chữ O và chữ K vốn nó đã không đúng rồi!
Có thêm một sự kiện chính trị khá quan trọng làm chữ O.K càng được quảng bá thêm rộng rãi. Năm 1840 đương kim Tổng thống Hoa Kỳ Martin Van Buren (1782-1862) tổ chức vận động tái tranh cử vào nhiệm kỳ hai. Vốn sinh trưởng trong một làng nhỏ KinderhoO.K (New York) vị Tổng thống thứ 8 của Hoa Kỳ đắc cử kỳ 1 vào năm 1837 lần này không được thuận lợi cho lắm so với các đối thủ khác. Phe phái của ông vốn rất thiện chiến trên đấu trường chính trị bèn ráng tìm một khẩu hiệu hấp dẩn để có thể đưa ông trở lên danh vọng kỳ hai. Rốt cuộc, họ quyết định xữ dụng hai chữ O.K đang rất thịnh hành trong dân gian, hai chữ tắt đó làm biệt danh cho Gà Nhà của mình: OLD KINDERHOO.K! Vậy là O.K được coi như dấu hiệu đầu câu của phe ủng hộ Van Buren chẳng hạn như Câu Lạc Bộ «O.K Democratic Club» quảng bá đường lối chính trị.

            Thuở đó, người ta đã biết cách pha trò, chọc quê, chê bai nhau trong cuộc vận động bầu cử. Các đối thủ của Van Buren lập tức chộp ngay cơ hội, châm biếm bảng tổng kết của ông bằng 2 chữ O.K: Orrible Katastrophe (Horrible catastrophe); Orful Kalamity (Awful calamity); Out of Kash (Out of cash).

             Kết quả bầu cử quá thảm hại cho ông Buren! Nhưng người thay thế, ông William Harrisson chỉ 1 tháng sau khi nhậm chức lại ngã bệnh và qua đời vào ngày 4/ April/ 1841 vì bị sưng phổi: Ông ta ỷ y để đầu trần, đứng đọc diển văn giửa trời giá rét. Thật là không O.K chút nào! Dù sao đi nữa, chữ O.K bắt đầu đi vào chính thức từ đó.

          Hình như làng KinderhoO.K nhứt định phải thêm cho được tên mình vào lịch sử nguồn gốc chữ O.Kay. Nằm trong Quận Columbia của New York, thành lập do các di dân Hòa Lan đến cư ngụ vào hồi đầu thế kỷ 17, khoảng thời gian sau khi người Anh khai phá dòng sông và vịnh Henry Hudson (1609-1610) còn mang tên ông ta. Chinh trong hành trình này, lần đầu tiên ông đã gặp được sắc dân Mohicans. Một thế kỷ sau, các vườn cây ăn trái của vùng đất KinderhoO.K dể thương này sản xuất ra một loại trái bom thiệt là ngon ngọt, được mọi người đặc biệt ưa chuộng, săn tìm mua. Các trái bom này xếp ngay ngắn trong các thùng gổ, bên ngoài ghi chú nguồn gốc, xuất xứ: O.K (Old KinderhoO.K). Từ đó, người tiêu dùng lấy hiệu bom O.K để chỉ loại ngon khi bàn chuyện với nhau.

          Đọc xong bài này, bạn O.K hay có đoạn nào bạn không O.K ? Viết chơi, gởi bạn bè đọc cho vui vậy mà, O.K?

Cuộc phiêu lưu của dế mèn xứ Thủ

CUỘC PHIÊU LƯU CỦA DẾ MÈN XỨ THỦ

Nhơn P.13
Riêng tặng các bạn còn yêu nghề Hàng hải nhưng vì hoàn cảnh phải bỏ ngang không hẹn ngày tái ngộ
Người bốn giống đen vàng đỏ trắng,

Trời bốn phương Nam Bắc Đông Tây.
Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn . . .
            Hồi năm sáu tuổi gì đó, tui bị té xuống mương khi chạy chơi phía sau vườn. Cũng may là mương cạn với lại hổng phải té giếng nên tới bây giờ cũng không có vấn đề gì như khi dân mình nói tới mấy tay hơi bệnh tâm thần. Vậy mà Bà Nội tui cũng rầu quá trời vì khi tui mới lọt lòng, có nhờ Thầy xem Tử Vi, nói cái số thằng tui coi chừng bị nạn sông nước
Khó nuôi thuở nhỏ chẳng lành,
Ốm đau kể thác, nhọc nhằn Mẹ Cha.
Trầm Phù chiếu mạng cho ta,
Té sông cùng giếng vậy mà phòng âu !
Cho nên, Bà lật đật bày cúng mâm tam sên ngay chổ tui té, khấn vái hú ba hồn bảy vía của tui mau trở lại nhập xác cho đủ số. Bà sợ rồi đây cháu nội đích tôn lạc mất một hai hồn vía gì đó rồi học hành không được nửa nhứt là sẽ khờ khờ dể bị con gái dụ trước tuổi hihi (thầy bói cũng hay à nha, đoán trúng phóc đoạn sau 50%) Đã vậy thôi, còn dặn mấy người hàng xóm, hể thấy thằng tui mon men ra bờ sông cuối xóm là đuổi nó về . .
Tui thi vào Phú Thọ một lượt hai trường, Công Chánh và Hàng Hải. Nghĩ chắc mình ban Toán là ngon lắm, đâu ngờ trong phòng thi toàn là dân học trường Tây, hoặc bên khoa học hai ba chứng chỉ. Thằng tui duy nhứt học chương trình Việt, đọc truyện Kiều còn ai nấy đọc Le Cid. Kết quả, làm mấy bài thi sinh ngử dở quá nên đậu bên Công Chánh hạng 15 trên 24, còn Hàng Hải đậu hạng 17 trong số 24 gồm 16 người chánh thức và 8 dự khuyết! Tưởng làm nghề đo đất đo đường rồi chớ, nhè đâu bên Hàng Hải kêu qua trình diện. Khám sức khỏe tốt, tui bèn bỏ nghề đo đất sau khi đã nhập học được 2 ngày.
Tui còn nhớ, Bà nội rầy la Ba Vú tui quá chừng, hỏi tại sao để nó muốn làm gì thì làm ? Đã biết sẽ bị nạn sông nước mà không bắt nó học tiếp nghề đo đường, lại bỏ mà đi học . . . lái ghe, lái đò ? Nó đâu có biết lội. Hồi tưởng lại, thương Bà nội tui hết sức…
Ra trường, đi Elève tập sự trên tàu trắng Thống Nhứt. Chuyến đầu chạy Đà Nẳng, đi quart trực phiên với quan tàu. Biển động cấp 7/ 8, tui say sóng quá trời. Nghĩ lại sao thấy mình ngu quá, bỏ ngang Công Chánh làm chi. Tính về tới SG là dẹp đi tàu, qua học nghề khác sướng hơn:
Ta tưởng hải hồ vui tứ xứ,
Ai ngờ say sóng nản tương lai !

Phải nói cũng may, ngày nay còn ở trong nghề là nhờ ơn quan tàu Lưu văn Quãng. Lúc tui nằm mẹp trên phòng lái, trong bụng nói tới đâu thì tới, ông kéo tui ngồi dậy và nói :

         – Elève, anh phải cố gắng lên! Người đi biển có đức tính cao quý nhứt là khinh thường sóng gió. Anh học mấy năm trong trường mà xuống đây, anh nằm mẹp như con chó rứa, mai sau răng anh commander người ta được ?

             Cho nên, tui ráng sức ngồi dậy. Trong cảnh sóng gió gào thét mù mịt con tảu ngã nghiêng đó, ông vẫn đứng vững vàng và còn hát khe khẻ bài Chiều Mưa Biên Giới : Lênh đênh, chiếc bóng bên trời, vừng trăng xẻ đôi, vẩn in hình bóng một người… Xa xôi, cánh chim tung trời, một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai … (Coi vậy mà đã 45 năm rồi ! Xin đốt một nén hương tưởng niệm đến ngườI đàn anh với tất cả lòng biết ơn chân thành. Nghe nói đã ra đi trong một tai nạn nghề nghiệp bên Mỹ).
Tưởng làm sao, về cập bến Saigon, tui hết say sóng ! Rồi hảnh diện khoe với mấy em, anh là thủy thủ (Lạ chưa, mới say sóng muốn chết đó bây giờ lại hảnh diện), rồi đặt thơ, viết nhạc ca tụng biển cả tặng cho em (biển có một, mà ca thằng tui tới mười, vậy không hà), nào là:
Người đi biển tựa mình bên thành tàu sơn trắng,
Hai mắt mở to, nhìn thẳng vào đêm biển mênh mang.
Con tàu ngửa nghiêng, sóng gió phủ phàng,
Người vẩn đứng để thi gan cùng sương gió …
(Nh/1965)                                                         
Chã bù lại, lúc còn trong trường Hàng Hải, dòng thơ tặng em mơ mộng làm sao :
Sẽ có hôm, anh trở về với biển,
Yêu dịu hiền, yêu vẻ đẹp xa xăm.
Để dừng chân trên bải vắng chiều hôm,
Biển vẩn đẹp như ngày xưa anh kể …
(Nh/1964)
Rồi tiếp tục, ngày qua ngày, lên Dịch rồi đi Gòn. Tổng động viên, nhập ngủ khóa 4/68, đi lảnh tàu Mỹ. Năm 75 vô Cải tạo, 79 cầm tàu qua Nam Dương, tới Pháp làm lại cuộc đời đi tàu:
Trót mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẩn trời gần trờI xa … (Kiều)
Và từ đó, tôi đi năm châu bốn biển, xuyên suốt Đại Dương, lưu lạc tha phương, mặc dù thằng tui tới ngày nay … cũng vẩn chưa biết lội.
Từ Marseille, tui đáp xe lửa lên tận miền Bắc để nhận chức vụ Sỉ Quan Hải Hành trên tàu Douce France 3 của hảng Marseille Frêt. Tàu cũng lớn, trang trí viển dương trọng tải 15 ngàn tấn, từ Phi Châu sẽ trở về Pháp chiều nay và cập bến Dunkerque. Chuyến ra đi đầu đời này không khỏi làm tui bâng khuâng. Thứ nhứt là mừng tìm được việc làm nhưng phải để vợ con xoay trở một mình trên xứ người. Kế đó là chưa từng làm việc trên tàu Pháp mặc dù tay nghề tui hổng có ngán ai:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem tàu Pháp đưa mình đi mô ?
Bèn hát câu, thôi mình ở lại, anh đi…

Ôi, cảnh biệt ly sao mà buồn vậy !
Thuyền Trưởng tên Moisiard, người Breton to con, nói năng hiền hoà, không phải như thóc với ngô đâu nghen). Gương mặt tươi vui mà đôi mắt toát ra vẽ lì lợm, oai hùng của một sói biển dạn dày. Mới vừa diện kiến, tui đã phục trí nhớ của ông : nhắc tới những kỷ niệm xa xưa bên Việt Nam như rạng đá ngầm banc de Corail Nhà Bè, Pernambucco, phía Nam mủi Kỳ Vân (Cap TiWan) ngoài khơi Long Hải, hòn Ba Vua (Trois Rois) gần Hòn Khói … mà ông gọi là les cailloux. Trời ơi, đất nước của tui mà lại có người ở xa xôi ngàn dặm vẩn còn nhớ đến từng chi tiết như vầy thiệt làm tui cảm động lắm lắm.
Đưa cho tui tờ giấy ghi các bến cảng của chuyến hải hành sắp tới, ông bảo tui lo chuẩn bị : chiều mai, tàu sẻ khởi đi một vòng gom hàng biển Bắc, Antverpen Bĩ, Amsterdam, Rotterdam Hoà Lan, Brême, Brêmahaven, Hambourg Đức. Lấy hàng xong, băng Đại Tây Dương, qua kinh đào Panama. Sau đó, đổ hàng dài dài ở các hải cảng Nam Mỷ phía Thái Bình Dương, từ Buenoventura Colombie, qua Guayaquil Equateur, xuống Callao, Arica, Antofagasta của Pérou, Valparaiso thuộc Chilie. Bây giờ chưa có hàng về, chỉ biết chuyến đi tới đó thôi. Mai mốt Hãng cho biết thêm mình sẻ đi đâu ! Ông lưu ý tui, cho ông biết khoản cách khác biệt giửa Loxo (Tà hành) và Ortho (Trực hành) bao nhiêu ? (Tui xin phép mở dấu ngoặc ở đây để giải thích cho quí vị ở dưới máy rỏ một chút về sự khác biệt này: trên mặt phẳng, đường thẳng là đường ngắn nhất nối liền giửa 2 điểm. Mặt hình cầu như quả đất, đường ngắn nhứt nối liền giửa hai điểm lại là hình cung của vòng tròn lớn, đi qua tâm của quả đất và phần lõm của nó lúc nào cũng quay về xích đạo. Trên bản đồ hàng hải theo phép chiếu Mercator, kẻ đường thẳng nối liền khởi điểm A đến điểm B gọi là Tà hành vì nó không phải nằm trên vòng tròn lớn. Quí vị để ý thấy phi cơ từ Âu châu qua Mỹ hay ngược lại thì rỏ, nó bay theo Ortho đó. Khoảng cách càng xa thì sự khác biệt càng lớn) Má ơi, ở mấy năm trong cải tạo mới ra, đầu óc còn lùng bùng, đêm ngủ còn thấy đang đốn củi trong rừng Katum (nhớ rỏ nghe, đêm qua tui không có mơ gặp bác gì đó nha) lại vừa qua Tây có mấy tháng, ngủ mớ nói tiếng Việt rân trời, Marseille còn chưa biết hết đường xá (Thành phố lớn thứ 2 sau Paris) lại tính chuyện đi thế giới ! Nghe tên mấy hải cảng lạ quắc lạ quơ chứ hổng phải như Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rứa mô tê chừ thân yêu của mình. Bây giờ bổn phận của tui phải xem nó ở đâu, rồi tính toán vẻ đường chạy tàu tới đó, Hết rồi, cái trò thuộc lòng, Saigon đi Nha trang 241, Qui Nhơn 341, Đà Nẳng 511 hải lý. Bây giờ phải lật sách SHOM xem nó nằm ở đâu, ghi ra tất cả số bản đồ đủ loại, từ ngoài khơi vô cho đến cảng, rồi cờ của mấy xứ, sau đó kêu Đại lý mua. Phải tra Instructions nautiques xem bến bải, đèn hải đăng, liệu tính atterrissage làm sao, xem khí tượng, tính thời gian hải hành với 2, 3 loại vận tốc bình thường cuả tàu để liệu giờ đến, xài tiền gì, so với tiền Pháp … ối thôi ngàn lẻ một chuyện mà toàn chuyện thiệt không hà, hổng có chuyện nào giởn hết. Đồ đạc đại lý vừa mang tới, Cdt kiểm hàng chung với tui (trên tàu Pháp gọi Thuyền Trưởng Commandant Cdt, Thuyền Phó Capitaine Capt. Tiếng Anh Captain hay Master và Chief Mate). Ông nói, phải coi chừng, họ mua lộn cờ là phiền lắm đó, có lần vô hải phận của CHND Trung Quốc mà nhè treo cờ Đài Loan, bị Hải quân Trung Quốc chận lại xét hỏi, may phước trên tàu có cờ đầy đủ nếu không là mệt rồi. (Cũng giống qua VN, vô cảng Hải phòng mà đem treo …cờ vàng ba sọc đỏ vây !)
Thuở đó, hàng hải Pháp gặp nhiều khó khăn vì giá chuyên chở mắc hơn các nước khác. Rất ít tàu còn giử được lộ trình thường xuyên, đi về bến cảng quen thuộc. Phần lớn chỉ có hàng đi rồi từ cảng đến đó, Đại Lý sẻ tìm hàng cho mình đi tiếp. Đúng nghỉa giang hồ, ra đi không biết ngày về. Tuy nhiên, làm việc trên tàu khoản 3 tháng là mình có quyền xin lên bờ nghỉ phép. Dù ở bất cứ hải cảng nào, Đại Lý cũng sẽ lo việc chở người của hảng gởi qua thay thế và đưa mình ra phi trường. Hồi đó, cứ mổi tháng làm việc thì được 20 ngày nghỉ bờ. Có hảng trả thẳng tiền congé này, có hảng cho lảnh lương bình thường vào cuối tháng chờ ngày trở xuống tàu. Phương tiện từ nhà mình đến tàu và ngược lại đều do hãng đài thọ hết. Sắp sửa hết phép, hãng sẻ phone cho biết ngày, tàu ở đâu, mình ra lấy vé xe lửa hoặc máy bay dành sẳn. Đi một vòng biển Bắc, mổi bến ghé có mấy giờ không kịp ngưng máy tàu. Công việc vẩn phân nhiệm theo phiên trực hải hành. Thằng tui lo tính toán, vẻ đường đi tiếp. Tàu VN thì Quan tàu vẽ đường, tàu Tây thì đó là công việc của Dịch. Phải cập nhật hàng tuần những thay đổi theo AVURNAV, còn ghi chú thêm bằng viết chì trên bản đồ đang xử dụng. Ít có ai đi bờ. Với tui là lần đầu còn như mấy người khác thì họ rành quá, lo ngũ nghỉ cho khỏe.
Hải hành vùng Pas de Calais rất khó khăn. Vào mùa Đông, thời tiết xấu, trời mù mịt, sóng to gió lớn mà tàu đông như kiến, san sát với nhau. Đâu phải tàu nhỏ, năm ba chục ngàn cho đến mấy trăm ngàn tấn. Còn thêm tàu đò băng ngang qua lại nước Anh, Pháp Bỉ Đức,chiếc nào chiếc nấy từ 150 đến 200 m bề dài, chở mấy trăm xe hơi, xe lửa chứ không phải như đò Thủ Thiêm, Mỹ Thuận của mình. Khu vực này có những qui định quốc tế do các đài duyên hải kiểm soát chặc chẻ. Từ ngoài Đại Tây Dương vô thì đi phía bên bờ Pháp, khi trở ra thì phía bên Anh. Máy lúc nào cũng phải P.A.M chuẩn bị sẳn. Phải chạy trên những trục lộ (chenal) ấn định mà dân trong nghề gọi là đường rầy (Rails). Radio liên lạc 24/24 trên canal 16. Sỉ quan trực phiên phải báo cho Cdt bất cứ có tin tức gì quan trọng như cấp cứu, bảo tố v.v.. Chạy lạng quạng là Đài Duyên Hải kêu đúng tên tàu mình, yêu cầu điều chỉnh hướng lại. Nhiều chiếc vào khu vực này phải lấy Hoa tiêu hướng đạo luôn mấy ngày trời (Pilote hauturier). Tàu Tây, từ lúc khởi hành đến khi cập bến không tắt đèn hải hành. Thời tiết thay đổi hoài, mưa mù nối tiếp, hơi sức nào mở tắt, canh mặt trờI mọc lặn cho mệt. Quí Vị nào còn khoái nghề (già hết rồi, tui nói khoái chớ không có yêu, ngứa gì nửa hết nha) cứ lên mạng http://marinetraffic.com/ais/ sẻ thấy hiện lên bản đồ thế giới, được phân ra thành từng ô nhỏ. Cứ click lên ô vùng nào mình thích xem, nó sẻ zoom + lên, muốn lớn hơn nửa thì cũng làm y như vậy. Muốn biết đó là tàu gì thì click lên chiếc tàu, tất cả chi tiết, tin tức của nó, vận tốc, bến cảng sắp đến sẻ hiện lên. Khi biết nó bao lớn, chạy bao nhiêu noeuds trong đám kiến đó, quí vị làm bộ tính thử F=1/2 mv2 rồi suy ra vận tốc an toàn vitesse de sécurité thì biết ! Bây giờ, mổi chiếc tàu đều có vẽ số IMO (interational maritime organization) trên thành tàu như số xe trên bờ vậy. Bất cứ nó ở đâu ngườI ta cũng tìm ra được. Hệ thống cứu nguy, phao bè đều được trang bị thêm một bộ phận báo động lên vệ tinh nối bằng sợi dây cột vào thân tàu. Khi quăng phao bè cứu cấp xuống nước, bộ phận này bị tách rời ra làm hai như nấp và thân cây viết, lập tức nó phát tín hiệu SOS, Ship’s name, IMO, Call sign, tọa độ … gởi lên vệ tinh. Đài kiểm soát duyên hải khu vực đó nhận tin, sẻ báo động tổ chức cấp cứu tức khắc. Đã từng xảy một chuyện diểu Charlot ở Marseille : trong lúc tui đang trực ca trên đài Vigie Port Control thì Đài kiểm soát Duyên Hải Toulon điện thoại đến, thông báo có nhận tín hiệu vệ tinh, tên một chiếc tàu đang lâm nạn trong … Cảng Marseille ! Quả thật trong cảng có chiếc Supertanker khoản 300 ngàn tấn mang đúng tên call sign nhưng nó đâu có chìm! Lên tàu kiểm soát, má ơi, một thủy thủ tay mơ nhè gở rời bộ phận báo động, tháo phao cứu nguy tròn ra để sơn cho tiện ! ! !
Rời Dunkerque, đi Antverpen của Bỉ thì trời sụp tối. Hoa tiêu đưa ra khòi Cãng, lên đường rầy. Làm trưởng phiên hải hành trong khu vực sóng gió sương mù này quả là một thử thách khá lớn mặc dù có huấn lệnh của Cdt cho 3 chefs de quart là báo liền cho ông khi nghi ngờ bất cứ chuyện gì. Tôi cố gắng giử bình tỉnh, chăm chú không dám lơ đểnh. May nhờ phước đức ông bà, 4 giờ quart trôi qua. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết sợ.
Lấy hàng xong rời Hambourg, tàu trở hướng ra Đại Tây Dương, trực chỉ détroit de Mona gần Porto Rico, xuyên qua tam giác quỷ vào vùng biển Caraibes để qua kinh đào Panama.
Từ đảo Ouessant, cái mốc chuẩn ra khơi, Cdt quyết định đi Loxo, lý do là tuy xa hơn nhưng tránh được vùng phía Bắc đang có bão. Thật ra, ông muốn khảo nghiệm trình độ nên bắt tôi tính vì sau đó, ông so lại với sổ tay ghi chú thì thấy cùng đáp số (một lần nửa, học trò Nhơn xin tri ơn thầy Sanh dạy Trigo sphérique thật kỷ càng, thầy Ducasse dạy cách tính point vertex, xử dụng table Bataille mà ngày nay em vẩn còn nhớ rỏ dù đã qua gần năm chục năm trời và mấy năm ở trong cải tạo).
Đảo Ouessant thuộc vùng Bretagne, Tây Bắc nước Pháp. Có câu « Qui voit Ouessant, voit son sang » để nói lên sự cực khổ của nghề biển. Dân Breton rất thích phiên lưu, đi biển rất lì và suốt đời hình như chỉ biết có biển thôi. (Les bretons se trouvent partout sauf en Bretagne) Thử nghĩ, sau 5 tháng là muốn ngất ngư con tàu đi rồi, tui hỏi thằng Dịch commissaire Daniel kỳ nghỉ phép mấy tháng này mầy làm gì ? Nó trả lời ngon lành, về nhà xong, tao lái tàu ra biển, câu cá, hứng gió, phơi nắng. Tui hỏi, bộ 5 tháng đi tàu chưa đủ sao mà mầy còn ra biển? Ở đây là đi làm còn về nhà là tàu của tao, đâu có giống nhau ! Tui ngọng.
Sóng Đại Tây Dương tuy lớn nhưng chu kỳ sóng tương đối dài, tàu lắc nhảy từ từ khác hẳn với Địa Trung Hải ngắn nên mệt hơn. Khi qua khỏi quần đảo Açores thuộc Bồ đào nha, tàu đi vào Tam giác quỷ, hệ thống GPS en panne, không chạy nửa. Có nó thì tốt chứ căn bản vẩn dùng sextant để định vị (dụng cụ hàng hải còn GPS và radar chỉ là aide de Nav) Vừa vô tam giác quỷ, tàu đang ngon trớn # 15 gút, bổng nhiên bị chết máy. Cả tàu nhốn nháo, Cdt lên Passerelle ra lệnh treo dấu hiệu bất khiển dụng lên cao còn Xếp đi xuống dưới máy. Tàu thả trôi bập bềnh cả giờ mà sửa vẩn chưa xong. Bổng Xếp máy Breton trở lên Pont, kêu bếp chánh người Mạc Xây hỏi, vừa rồi, lấy thêm thức ăn ở Hambourg có mấy con …tai dài không ? Anh ta đáp, có 4 cartons. Xếp máy bổng nổi giận đỏ mặt tía tai, la lối um sùm, mở tủ lạnh quăng hết 4 thùng xuống biển. Và như phép lạ, chỉ độ 5 phút sau là tàu sửa xong, chạy tiếp. À, phim này tui mới thấy lần đầu nha nên tui thắc mắc hỏi cho biết : Thì ra, nhiều thủy thủ Pháp còn tin dị đoan, rất sợ loài gậm nhấm theo như truyền thuyết xa xưa trên các tàu gổ đến độ không dám kêu tên Thỏ, Lapin, rabbit mà gọi né là con . . .tai dài (Longues oreilles) Cũng giống như bên xứ mình, không dám chở rùa, mèo sợ xúi quẩy vậy. Ai mà gặp toàn chuyện xui xẻo, vận số đen đúa hoài thì bạn bè chọc quê : il est noir, hoặc gọi diểu là con mèo mun (chat noir).
Chắc quí vị có để ý điều này, dân mình gọi là năm con mèo trong khi lịch tàu kêu là năm con thỏ. Năm xung khắc là năm Dậu, con gà. Trên lá Tử Vi, Cung Mẹo hay Thỏ đóng ở chánh Đông, từ 5 đến 7 giờ sáng. Cung Dậu đóng ở chánh Tây từ 5 đến 7 giờ chiều. Sở dỉ như vậy vì người Tàu quan niệm theo việc truyền giống, thỏ giao mà không cãm (vì quá lẹ), trong khi Dậu gà cãm mà không có giao (chỉ .. hun nhau bằng hai cái phao câu, chứ không có vào trong nhau) Cung Mẹo thì dương thịnh âm suy (mặt trời đi lên, nhật xuất lôi môn) cung Dậu thì ngược lại, cái lên cái xuống, giao hoà âm dương trời đất. Đàn ông VN tiếu lâm nói hát dở như gà còn Đầm thì chê lên phim lẹ như thỏ !
Viết đến đây, chợt nhớ ra một câu chuyện vui. Có lần ghé cãng Beyrouth của xứ Liban, dân ở đây nói và viết tiếng Pháp như mấy người lớn bên mình hồi xưa, lọai tiếng Pháp văn chương, lể phép mà thời buổi này ở tại Pháp ít có ai xài nửa. Thí dụ như trịnh trọng hỏi người gọi phone tới: tôi đang được hân hạnh tiếp chuyện với ai vậy?( A qui ai-je l’honneur de parler ? Chử La chatte là con mèo cái, không còn xài mà trở thành tiếng lóng như Con Chim trong tiếng việt người ta ưa nói và hiểu ngầm (giống như chử Pussy vậy.J’ai un chat, c’est une femelle. Khổ hết sức ! Lạ lùng là tiếng lóng sao tui mau nhớ, nhập tâm lẹ lắm à nha! Chiều hôm đó, tui và Cdt Pierno lên Đại Lý lấy giấy tờ sẳn chuẩn bị cho 18 giờ tàu chạy. Ông ta 53 tuổi, còn độc thân, hiền hoà. Người gốc Ý quê quán ở Napoli, quê hương của những bản nhạc tình nổi danh trên thế giới. Tôi làm Phó cho Ông. Cô thư ký người Beyrouthine tiếp chúng tôi. Cô trẽ đẹp, đôi mắt mơ màng như trong chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm. Đây là cuộc đối thọai :
– Cdt, est ce que la prochaine fois, vous reviendrez ici ?
– Oui, encore un voyage avant de prendre mes congés. C’est pourquoi ?
– Je voulais vous demander un petit service.
– Je me tiens à votre disposition, de quoi s’agit-il ?
– Merci Cdt, Il s’agit de ma . . . Chatte. Elle est souvent en chaleur!
Tạm dịch :

– Thuyền Trưởng, chuyến sau ông còn trở lại đây không ?
– Còn một chuyến nửa mới nghỉ phép. Có gì không Cô ?
– Em định nhờ Ông giúp giùm em chút việc.
– Cô cần điều gì cứ nói, tôi sẳn sàng giúp Cô.
– Cám ơn Ông. Về cái vụ Con Chim của em ấy mà! Sao mấy bửa nay, nó rượn đực quá trời !!!!!
Tui vội vàng quay mặt chổ khác, làm bộ ngó lên trần nhà. Nếu tui còn nhìn cô ta, tui sẻ bật cười thành ra vô phép lắm. Cdt Pierno cũng lúng túng, không dám nhìn cô ta mà cũng không biết nói sao, chỉ nói Oui, Oui thôi. Tưởng tượng đi, một người con gái, sắc nước hương trời, dể thương mà nói cái điệu đó thì người nghe chỉ có nước ngọng chứ trả lời gì được. Cô ta thật tình kể chuyện con mèo cái của cô, định nhờ ổng mua giúp giùm thuốc ngừa thai cho nó, chỉ có bán ở bên Pháp thôi, rồi chuyến sau mang qua dùm. Hai chúng tôi lại hiểu bậy bạ theo phản xạ. Tui vừa mới gặp lại ông ta ở Mạc Xây và chính ông nhắc lại chuyện vui này. Ông ta còn nói, hồi đó mày mới qua đây có mấy năm mà sao mầy rành tiếng lóng quá vậy ? Nếu còn ở bên VN, tui cũng sẻ thiệt thà hiểu và dịch ra đúng như cô chứ hổng phải như bây giờ, nói con này lại lây qua con kia, quá trời quá đất đi !
Câu chuyện còn dài lắm với chuyến sau mang thuốc trở qua, gặp cô lại cười thêm một chập nửa, nhưng thôi, cho tàu chạy vòng vòng hoài, biết tới chừng nào mới đưa quí vị ghé bến Nam Mỹ. Thôi lấy lại hướng, lái thẳng qua Porto Rico. Zéro la barre, Cap comme çà, steady as she goes, full ahead. Tới đây là biển Sargasse ngập tràn rong biển, nơi có nhiều huyền thọai về con lươn (Anguille) Nó sống được khoản 20 năm do những lươn mẹ từ Âu châu sang đây sanh ra. Từ đó cho đến 5, 6 năm sau, do bản năng, nó trôi nổi di chuyển trở về quê mẹ, len lỏi vào tận trong vùng nước lợ sinh sống. Sau đó, nó tự tìm về đây sanh sản rồi chết.
Dọc theo hai bên xích đạo, có một vòng đai rộng khoản vài trăm cây số. Trong nghề hàng hải gọi là pot-au-noir, theo nghỉa hiện nay là để chỉ một vùng khí hậu bất ổn, áp thấp nhiệt đới, hình tượng do các khối không khí nóng, ẩm hội tụ do hiệu ứng của gió alizé. Theo lời của một đàn anh người VN, cựu thuyền trưởng hàng hải Pháp, chử pot-au-noir có gốc tích từ thời chở nô lệ qua Mỹ châu. Nhiều khi gặp biển lặn đứng gió (mer d’huile), các tên thuyền trưởng ra lệnh hạ thuyền cứu nguy rồi bắt dân nô lệ xuống chèo, kéo chiếc tàu buồm chở đầy người. Đôi khi, vì chở quá nhiều nô lệ, các tên thuyền trưởng dã man đó bèn quăng người xuống biển cho nhẹ tàu!
Khi tàu chạy qua biển Caraïbe tới vịnh Colon, đến cửa kinh đào Panama thì neo lại chờ tới phiên mình. Kỷ sư Pháp Ferdinand de Lesseps khởi công xây dựng từ năm 1880 và người Mỹ hoàn thành năm 1914. Kinh đào Panama dài khoản 80kms, nằm vắt ngang qua dãy núi, cao hơn mặt biển 26 m. Tàu muốn lên trên đó, phải leo qua 2 bậc ụ giống như cầu thang vậy. Hoa tiêu Panama đem tàu vô ụ ở đầu kinh. Có một toán chuyên viên vận chuyển tháp tùng, mình không quen không biết làm. Họ đóng ụ lại và bơm nước vô. Tàu được giử thăng bằng với 4 sợi dây cáp lớn như cườm tay từ 4 đầu xe lửa( mules) trang bị hệ thống kéo xả để giử cho con tàu nằm ngay ngắn trong ụ, nếu không khi bơm nước vô, sẽ xãy ra tai nạn. Đóng cửa ụ lại, bơm nước vô, đưa tàu lên cao. Lên tới bậc một, nhìn lại vịnh Colon, thấy các tàu đang thã neo nằm sâu phía dưới. Lại tiếp tục đóng ụ một, bơm nước vô như củ, lên tới bậc hai. Chẳng mấy chốc, mực nước ngang bằng với con kinh : mình đang ở 26 m cao hơn mặt biển đó ! Mở cửa ụ, chạy qua tới đầu kinh phía bên kia, chun vô ụ, xuống vịnh Panama tới Thái Bình Dương.
Dân Nam Mỹ phần lớn nói tiếng Tây ban nha, phía bên Brazil, Argentine còn nói thêm tiếng Bồ đào nha. Nhiều nơi, họ đội nón rộng vành Sombrero như dân Mể. Đàn bà da đỏ thường đội nón nỉ giống như mấy ông già xưa bên mình trông thật lạ mắt.
Bến cảng đầu tiên là Buenaventura của xứ Colombie. Quán nhậu rất nhiều, chổ nào cũng mở nhạc ầm ỉ. Rời Colombie, qua Guayaquil của xứ Ecuador, trồng chuối bạt ngàn. Phong cảnh nên thơ, rất giống VN. Bầy phoques hải cẩu nằm phơi mình trên những ghềnh đá ở cửa biển. Ven theo bờ sông chạy vào cảng, có những nhà tranh lẩn khuất sau vườn làm tôi nhớ nhà quá chừng. Dân bản xứ kể cho tôi nghe, trước khi vác quài chuối lên vai, người phu khuân phải coi kỷ, có một loại rắn lục nhỏ bằng ngón tay út, dài khoản 3 tấc núp trong đó, nếu không nó cắn trúng là chết. Tui không biết ở các đồn điền chuối bên mình có loại rắn này không?
Khi xuyên xích đạo, trên tàu có tổ chức lể phát bằng theo truyền thống hàng hải. Nhiều thủy thủ cho đến lúc về hưu, chỉ hành nghề ở một phía bán cầu mà thôi. Theo thần thoại Hy Lạp, Neptune là thủy thần cầm cây chỉa ba cùng với vợ là Amphitrite do hai thủy thủ hóa trang, sẽ rửa tội, đặt cho mổi người tên một loài cá và sau đó phát bằng cho các thủy thủ lần đầu tiên xuyên xích đạo trong đó có tui. Ôi chao, thần Neptune bắt uống một ly cối cocktail ghê gớm, rượu chác pha dấm, whisky, tabasco, nước biển thêm đường rồi hè nhau quăng họ xuống piscine bơm đầy nước biển xích đạo! Bắt buộc phải uống, không được chạy trốn thì sau đó mới phát bằng. Ai cũng nhớ đời hết. Nhậu nhẹt đàn ca, xướng hát suốt đêm, vui hết sức. Tàu vẫn rẽ sóng chạy đều. Phía ngoài xa khơi kia, bên phải con tàu là quần đảo Galapagos gồm 13 đảo lớn, 17 đảo nhỏ, hiện là khu vực sinh thái đang được quốc tế bảo vệ.
Từ đó hướng xuống Perou, rất nhiều đàn cá dài mút mắt, óng ánh màu bạc dưới nắng, tàu chạy hoài mà không hết đàn cá. Ngoài xa kia, những tàu xưởng nổi to lớn làm cá hộp, với kỷ thuật tiên tiến, chỉ đánh bắt một loại cá nào đó mà thôi. Nó phát sóng trên một tần số đăc biệt của loại cá đó, kêu chúng đến rồi cuốn hút lên tàu. Trải qua tiến trình, cá sẽ được đóng hộp trên tàu. Về đến bến, là những kiện hàng cá hộp được tải xuống!
Tới cảng Callao của xứ Perou, nhìn các tàu cá về bến, phải lấy lưới bọc hết boong tàu lại vì bầy chim già đãy bằng cở gà tây, bay theo kiếm ăn ngộp trời. Có điều lạ là hải sản nhiều như vậy mà Perou lại không có chế ra . . . nước mắm. Ở đây, tha hồ ăn sea foods đủ loại, tươi mà rẻ lắm. Bên Pháp mắc lắm. Đầu bếp đi qua bến tàu cá, mua tôm hùm (lobster) mới vừa lưới đem vô bờ. Phần thì đem nướng lửa than, một mớ đem luộc chấm muối tiêu chanh, sauce mayonnaise, ngọt thịt quá chừng!
Ghé mấy cảng Perou, tui có đi thăm vài bộ lạc da đỏ nằm sâu phía trong núi. Bà hướng dẩn kể lại là có những bộ lạc cứ mổi năm, tụ họp lại một lần làm lể . . . khóc suốt đêm! Chắc họ buồn cho số phận người da đỏ.
Hải cảng Valparaiso thuộc Chilie khá lớn, sinh họat sầm uất, dân tình dể thương. Thấy có một chiến hạm Pháp nằm trong bến, Thuyền trưởng bảo Cò Tàu Lieutenant Commissaire mang quà tặng cho Hạm Trưởng Pháp. Phong tục hàng hải Pháp dể thương chổ đó. Họ biết sự hiện diện của chiến hạm ở vùng biển xa xôi này là để bảo vệ các thương thuyền Pháp khi cần. Cò tàu này vốn là cựu trung úy hải quân Pháp. Sau đó, anh ta kể lại cho tui nghe, đây là lần thứ hai trong đời, anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng. Lần thứ nhất, hồi còn trong quân ngủ, Chiến Hạm ghé bến cảng bên Phi châu. Hạm trưởng bảo anh mang quà tặng cho Hạm Trưởng Soái Hạm của quốc gia Phi Châu đó, hiện đang có mặt trong cảng.
Lên tàu, anh trình lá thơ của Hạm Trưởng Pháp và xin gặp Soái hạm trưởng để trao quà. Gần 20 phút ngồi chờ trong bộ lể phục hải quân, anh ta muốn chết ngộp vì tàu hư . . . hệ thống điều hòa không khí. Anh kể : Khi Soái Hạm Trưởng mặc đại lể ra đón tiếp, lon lá dày cộm nơi cổ tay, mề đay đầy ngực, áo trắng, cà vạt, trông oai vệ hết sức mà nhìn kỷ lại, té ra là . . . thằng bạn đồng khóa hồi còn trong trường Hải quân bên Pháp. Anh chàng này được quốc gia gởi đi du học tu nghiệp, do H.Q. Pháp đào tạo, sau đó trở về phục vụ đất nước và lên cấp lẹ hơn sao xẹt. Nghi thức lể lạc xong xuôi, hết còn danh xưng chức tước, hai bên bèn gọi nhau mầy tao như xưa, kéo nhau vô phòng ăn S.Q. uống rượu. Anh kể tiếp, hắn xin lổi tao vì hệ thống máy lạnh chưa có cơ phận thay thế, nên tàu còn nằm chờ ở đây. Mồ hôi nhể nhại, hắn đề nghị trời nóng quá (Phi Châu mà!) thôi mày lột áo ra cho mát rồi uống. Để làm gương, anh ta lột áo veste ra trước. Trời đất thiên địa ơi! Tưởng là cái áo sơ mi trắng, cà vạt bên trong, ai dè chỉ có chút xíu . . . cái cổ áo với cà vạt thôi, không có lưng mà cũng không có hai vạt phía trước áo, trông tức cười không nói được! Ngộ biến phải tùng quyền hi…hi…hi…
Tui cũng kể cho Cò Tàu Daniel nghe, hồi còn nội trú trong trường hàng hải, tui có thằng bạn chung phòng bên nước Phi châu gởi qua học theo chương trình đào tạo Thuyền trưởng. Có lẻ là con ông cháu cha, nhà giàu sao đó, thay vì lo học, tiền bạc rủng rỉnh, đêm nào cũng như đêm nấy, anh ta đi chơi đến 1, 2 giờ sáng. Tui nói mầy không lo học, mai mốt làm sao xuống tàu làm việc, thì nó trả lời: Tao qua đây học, để về xứ làm . . . Bộ Trưởng chứ đâu có phải để đi tàu! Thật vậy, mấy năm sau, hắn có gởi thư cho tui, cho biết hiện là Bộ Trưởng Bộ Ngư Nghiệp, rủ tui qua đó làm cố vấn cho hắn, lương bổng sẽ rất hậu hỉ. Lúc đó, tui đang làm Thuyền Trưởng lại suy nghĩ, qua bên đó rồi mấy đứa con làm sao đi học nên tui từ chối . .
Trở lại chuyện Nam Mỹ, dân tình ở đây rất tự nhiên, vui vẻ, ồn ào, thích múa hát, các điệu nhạc nóng bỏng, vui tươi như cha cha cha, mambo, salsa . . . Mấy bà vừa lựa hàng, vừa nhún nhảy, lắc lư theo tiếng nhạc thấy ngộ ghê. Kế đến là chổ nào cũng có con nít đá banh, trên đường, trong hẻm, góc phố, chổ nào trống là có đá banh. Sau cùng, ở các ngã tư lớn của thành phố, có nhiều tiệm ăn, tạp hóa của người Tàu.
Lần khác, lên sông Amazone bên Brazil, tới bến nọ, thấy có một tiệm nước nửa, có bày thêm bàn bên ngoài. Kêu một ly xây chừng, xổ vài câu xả giao tiếng Quảng đông còn sót lại trong trí nhớ lúc ở Đại học xá Minh Mạng, ngã sáu chợ lớn: Chủ sành tài lủ, nị hủ ma, cấm dạch dậu mụ xíu xức, nị úc khị hầy bính tù. May phước, ông chủ đúng người Quảng đông, khoái quá khỏi lấy tiền cà phê luôn. Ê, tui hỏi thì được, mà đừng có hỏi lại là tui . . . kẹt liền. Tới chừng ông nói tùm lum, tui bí qua bèn trã lời tiếng Anh thì ông ta không hiểu mà nói lại bằng tiếng . . . Sì! (Spanish) Trời đất ơi, vốn liếng có mấy chử nghèo nàn, chưa đầy lá mít, hát được vài câu Cielito Lindo, Besame mucho mới từ lúc chạy qua Nam Mỹ thôi, tôi ngọng ! Uống lẹ tách cà phê, tố chè, tằng tài dạch chôi lầy nhẩm thím, bye bye.
Sau cùng, tàu ghé cảng bên Nam Dương, 80% là đạo Hồi không ăn thịt heo. Người Triều châu ở đây khá đông. Vào thời điểm đó, Hồi giáo đang trong thời kỳ ăn chay một tháng Ramadan. Vậy mà tui cũng được đại lý chỉ dẩn đến một tiệm nước không mở cửa hẳn, chỉ hé một bên do lể nói trên. Lại thấy treo cành cây nhỏ dấu hiệu hôm nay có món đặc biệt duy nhất bán một ngày trong tuần. Cũng hên, hôm nay đúng ngày mở cửa. Ngôn ngử bất đồng, tui chia liền động từ to Quơ, hand language. Chủ khách hai bên ráng hiểu nhau, OK, OK rân trời. Chịu trận bánh mì, bích tết, phó mách cả tháng rồi mà! Trong tiệm bày biện trên bàn ống đủa, muổng, tương ớt, xì dầu y hệt như bên mình. Tui tìm lại được hương vị xưa, trong cảnh củ.Ăn bánh bao, xíu mại, hủ tiếu có hẹ nửa, thím sực tô mì, sì sụp húp nước lèo đến nổi không biết mình gốc Việt hay Tàu. Thêm ly cà phê là đúng tiêu chuẩn . .
Từ Valparaiso, được lệnh trở lại Antofagasta của xứ Perou. Lấy hàng cho Hòa Lan xong, qua kinh Panama trở ra Đại Tây Dương, tới tam giác quỷ, lại được xem phim Charlot. Đúng là Tam giác quỷ! Trưa hôm đó, Trưởng phiên hải hành Daniel bổng thấy có một người đàn bà Âu Mỹ, tóc dài màu vàng, bập bềnh trên sóng nước xa xa, đang chới với vẩy tay cầu cứu. Anh vội vàng báo cho CDT. Ông lập tức lên đài chỉ huy, lấy ống dòm quan sát cẩn thận trước khi ra lệnh báo động vận chuyển cứu người. Cã tàu đứng trên boong theo dỏi việc cấp cứu. Kìa, cô ta đang nằm ngửa trên sóng, rành rành sẳn đúc một tòa thiên nhiên, lồ lộ với những đường nét hấp dẩn. Hai cánh tay và đôi chân trong tư thế còn như đang quấn quít ôm chặc người tình, đôi môi khêu gợi chết người mặc cho sóng biển dập dùi thân xác: một nàng búp bê bằng. . . cao su, bơm hơi, cở như người thật, một cô bạn đồng hành lén lút xuống tàu của anh chàng thủy thủ đọc thân, đa tình nào đó ! Có lẻ anh chán nản với người đẹp . . . câm, thiếu chất . . . người nên đem quăng xuống biển.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng !
Lạ gì. . . cái thứ đàn ông,
Lúc thương nựng nịu, khi xong . . . quăng liền.
Trên phương diện hàng hải, bản đồ Đại Tây Dương, nối hai bờ Đông Tây, có tỉ lệ rất nhỏ, chỉ để ghi lại các tọa độ hằng ngày lúc 12 giờ trưa và tính vận tốc trung bình mà thôi, chứ không làm point, định vị được. Với nhiệm vụ SQ hải hành, tui phải chế canevas, hệ thống trục tọa độ ngang dọc gồm các vỉ tuyến parallèles và kinh tuyến méridiens của khu vực đang hải hành với tỉ lệ lớn hơn để vẻ Rv và tính (Hv – He), Zv trên đó (nhắc lại chút kỷ niệm cho vui với các bạn đồng khóa, đây là bài Carte Marine, Canevas học với thầy Ducasse kính mến, chỉ dạy tận tình g = e sec Lm, L = mcos V, e = msin V, TgV = e/ L . . .). Hồi đó học là học thôi, đâu ngờ có ngày đem ra xài!
Có lần, băng qua Guadeloupe sau mấy ngày, trung bình 17 noeuds, tự nhiên hôm qua sụt xuống còn có 11! Tui và thằng Lieutenant kia xách sextant ra đo lại một lượt, có mặt CDT và Sếp Máy. Kết quả y hệt. Không hiểu nổi! Sau cùng mới tìm ra nguyên nhân: đêm qua tàu đụng con cá voi rồi nó mắc kẹt, nằm ngang phía trước mủi chổ cái bulbe tròn ! Cũng ở gần tam giác quỷ nửa! Cá voi khi ngủ, nằm là đà trên mặt nước. Chỉ vậy thôi mà vận tốc giảm khủng khiếp! Sếp máy thở phào nhẹ nhỏm.
Trên phương diện kế toán của hãng tàu, cứ chạy tăng thêm được 1 noeud thì sau 24 giờ, sẽ đến bến sớm hơn khoản 1 tiếng. Từ Pháp chạy qua Viển Đông, chừng 22 ngày thì sớm hơn 22 giờ, nghỉa là tàu sẽ cập bến sớm hơn một ngày, biết bao nhiêu là tiền của . . .
Nhân tiện, tui xin được ghi lại lòng biết ơn của dân tị nạn VN như tôi đối với Cdt FOLLIGUET, thuyền trưởng tàu Pháp Chevalier Valbelle thuộc hảng Chargeurs Réunis, đã nhiều lần cứu vớt thuyền nhân trên biển Nam Hải. Tàu Chevalier Valbelle chạy đường Âu châu, Địa trung hải qua Viển Đông. Mổi chuyến trung bình hai tháng. Tui có người bạn ở chung trong cải tạo. Quả đất tròn, qua Pháp gặp lại nhau. Tui đem anh vô hảng, làm phụ bếp trên tàu. Năm 1984, khi tới bến Barcelona thuộc Tây ban nha, anh chỉ cho tui, tàu Chevalier Valbelle này đã cứu ghe chở cả trăm người vượt biên của anh đúng lúc sắp chìm, chờ chết. Sau đó, tui dắt anh qua xin gặp Cdt để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình. Biết tui là người VN, làm việc trên tàu Pháp đậu kế bên, ông ta vui vẻ, chỉ những giấy ban khen của hảng treo đầy trong phòng khách vì đã nhìều lần cứu vớt sinh mạng con người lâm nguy trên biển. Ông kể lại, mổi khi tàu chạy ngang qua vùng này, ông thường rà sát tới giới hạn hải phận của VN. Bận đi, bận về, lần nào ông cũng vớt cả trăm người . . .
Từ ngoài khơi, vào gần Ouessant, sắp lên đường rầy, thì đài kiểm báo duyên hải Pháp đã gọi trên canal 16, chiếc tàu đang ở tọa độ đó, tên gì, quốc tịch, loại tàu và hàng hóa gì, từ đâu tới etc . . Đây là nói chuyện đời xưa, chứ bây giờ vừa rời bến, đi tới đâu là thiên hạ ai cũng biết hết (http://marinetraffic.com)
Bỏ hàng bên Hòa Lan xong, chạy về Dunkerque rồi qua Saint Malo, Nantes, St Nazaire chở hàng đi vài nước trong Địa trung hải, sau đó xuyên kinh đào Suez qua liên bang Á Rập ở Trung Đông. Tàu tách bến, hướng về Nam, dọc theo vịnh Gascogne ngoài khơi Bordeaux, rồi cập theo bờ biển Bồ đào nha xuyên qua eo biển Gibraltar vào Địa trung hải. Tàu chở khách băng ngang, qua lại, nối liền cảng Tanger của Maroc Bắc Phi với Tarifa Âu châu, y như eo biển Pas de Calais trên miền Bắc.
Thủy triều Địa trung hải chừng 50 cm, trái hẳn với miền Bắc Pháp. Chẳng hạn như ở Mont Saint Michel, một trung tâm du lịch được xếp vào di sản lịch sử, bải biển rất lài, nước dâng 8m trong vòng 6 giờ, ngựa chạy không kịp. Việc canh giử du khách không được ra xa bờ thật nghiêm nhặt.
Tàu lướt sóng êm giửa trời nước bao la, phía Nam của đảo Las Palmas, hướng về mủi Spartivento Sardaigne của Ý. Sau đó, băng qua biển Andriatique nhắm mủi Matapan của Hi lạp. Một nử tu viện nằm cheo leo trên sườn núi ngay Matapan. Mổi khi thấy có tàu đi qua, các Sơ thường giựt chuông rộn rã rồi chạy ra vẩy tay chào mừng thật là cảm động.Địa trung hải có những phong tục hết sức dể thương, chẳng hạn như ở eo biển Messina nằm giửa đảo Sicile và Ý. Khi tàu chạy qua đây, mình viết thơ và thêm $ 5 bỏ vô chai, đóng nút lại rồi quăng xuống biển. Dân ở đây sẽ vớt lên rồi gởi về nhà cho gia đình mình. Ngay cửa vào, có hòn đảo núi lửa tên Stromboli, cứ 15 phút thì phun lửa. Miệng núi lửa nằm lệch một bên sườn núi. Phía bên kia, thiên hạ vẩn cất nhà, trồng nho. Trên đảo Sicile, có ngọn núi lửa Etna, thỉnh thoảng nổi giận. Cách đây khoản 26 năm, trên đường Izmir bên Thổ nhỉ kỳ về Marseille, từ xa trên mặt biển, nhìn cột lửa cao ngất trời, mới thấy sức mạnh thiên nhiên thật khủng khiếp. Tui có ghé bến Palermo, trên đảo Sicile. Thành phố Syracuse, bên phía đông của đảo Sicile, nơi sinh trưởng và mất đi của nhà toán học kỳ tài, liên hệ mật thiết đến môn Stabilité và Calcul d’assiette trong ngành hàng hải, người đã tìm ra nguyên tắc này: mọi vật nhúng chìm trong chất lỏng đều bị một sức đẩy từ dưới lên trên đó . . . : quí vị biết ai rồi phải không? Eurêka! ARCHIMEDE. Syracuse còn là tên của chuổi số toán học bất biến, lạ kỳ, kết quả sau cùng của phép tính lúc nào cũng cho ra ba con số thường là 4, 2, 1. Thỉnh thoảng ra 3 số khác nhưng cũng bất biến tương tự như vậy (Lấy bất cứ một con số nào, nếu chẳn thì đem chia hai, nếu lẻ thì đem nhơn cho 3 rồi cộng thêm 1, xong viết kết quả kế bên. Từ kết quả đó, cứ tiếp tục theo qui tắc như vậy cuối cùng sẽ thành bất biến 4, 2, 1) Xa kia, về phía Napoli, vào năm 79, núi lửa Vésuve dưới triều đại Titus đã chôn vùi thành phố Heculanum, Pompei dưới bao lớp đá tro bụi. Napoli, quê hương của những bản tình ca, giọng nhạc bất hủ được phổ biến bắng nhiều thứ tiếng, Trở về mái nhà xưa, O sole mio, Serenata . .
A, tới đây tui phải mở dấu ngoặc để nói cho không ít quí vị sẽ ngạc nhiên: Tui ghé Napoli hơn chục lần và xưa nay tui rất thích nhạc Napolitaine. Lời nhạc mà quí vị nghe Luciano Pavarotti hát đó không phải tiếng Ý mà chỉ là ngôn ngử địa phương (Patois). Người Ý thích nghe nhạc này nhưng không nói được! Có lời nhạc bằng tiếng Ý nửa. Tui có quen một ca sỉ chánh gốc napolitain và nhờ anh ta luyện giọng, dạy cách hát, nén hơi loại nhạc này. Anh rất vui tánh, nói tui phát âm sao giống Pavarotti quá chứ không phải như Caruso. Tui tưởng anh chọc quê thì anh nói, Pavarotti không phải chính gốc là dân Napolitain, nên phát âm không chuẩn. Giọng Ténor tuyệt vời thiệt nhưng để cho người ngoài nghe thôi. Dân napolitain phải ráng hiểu. Cũng như hồi xưa, gánh hát Kim Chung ca vọng cổ, xuống xề vậy mà: Chời đất ơi cái nổi đọan . . . chường!
Đi tàu, ghé Napoli phải biết hát bài Santa Lucia, bà thánh phù hộ cho dân đi biển: Sul mare luccia, l’astro d’argento. Placida è l’onda. Bài hát này được diển tã bằng rất nhiều ngôn ngử khác nhau. Có lần, tui vào quán nhạc, ngay bên ngoài cảng, nghe những thủy thủ hát bài này bằng ngôn ngử xứ họ. Một chàng trẻ tuổi, lên hát với tất cả niềm tin chân thành, giọng hát cao vút như ca sỉ thứ thiệt Thiên hạ vổ tay quá xá: anh là . . . dân Nga sô đấy!
Lịch sử bản Torna a Surriento mà nhạc sỉ Phạm Duy phổ lời VN thành Trở Về Mái Nhà Xưa cũng lạ lùng! Tác giả Decurtis vốn là bà con của một chủ khách sạn trong vùng Surriento lúc đó còn hoang vắng lắm (1902). Một hôm, có vị Thủ Tướng đương thời về đây nghỉ hè tại khách sạn này. Viên Thị trưởng, vốn là bạn của chủ khách sạn muốn tìm cách nhờ Thủ tướng giúp đở để phát triển khu vực này, bèn nói nhỏ với ông chủ, làm sao nhờ anh ta viết giùm cho bài nhạc ca tụng vẻ đẹp của bải biển Surriento. Bài hát ra đời trong hoàn cảnh đó. Lời nhạc thật sự Vide’o mare quant’è bello, Spira tantu sentimento (Hãy nhìn xem, ồ, biển đẹp làm sao, nó lôi cuốn tất cả tình cảm trong lòng người . . .). Tui đón mò thôi, có thể Ông Phạm Duy lấy ý từ lời tiếng Anh Come back to Sorrento nên thành Trở về mái nhà xưa: Về đây nghe tiếng hú hồn mê hoang, về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan. Về đây nhé, cấm xong chiếc thuyền hồn . . . Ôi! Lời VN của nhạc sỉ P.Duy trên cả tuyệt vời! Cũng như bài Célèbre valse của Brahms và biết bao nhiêu bài khác vốn chỉ có nhạc thôi, Nhờ nhạc sỉ P.D viết lời và Lệ Thu diển tã thành Thú Đau Thương: Trong chiều dần im hơi, người ngồi thương nhớ bao ngày vui . . . Tội nghiệp thằng nhà quê như tôi! Vậy mà ngày xưa cứ tưởng . . . Thôi, xin đóng dấu ngoặc lại, nếu không, tui nói lung tung, dám nhảy qua tới Bài Hát Khiêng Cây trong cải tạo: Bác Đang Hành . . . Chúng Cháu Mệt Ghê . . . Năm xưa tao gọi tụi bây không nghe lời hi…hi…hi . . .
Đảo Santorini ở biển Egée ngày xưa là một núi lửa. Năm 1490 trước T.L, bộc phát dử dội. Những ngọn sóng thần đập vào đảo Crète còn để lại dấu vết cho đến ngày nay. Mổi lần đi qua đây, Cdt thường cho tàu chạy quanh đảo một vòng để ngắm cảnh. Các mỏm đá đủ sắc màu, chổ đỏ, chổ trắng, chổ như cẩm thạch thật lạ lùng! Triết gia Hi Lạp Platon, thế kỷ thứ tư trước T. L bàn tới và cho rằng có sự liên hệ với nền văn minh Atlantide.
Cảng Izmir, Istanbul đẹp lắm. Vùng biển Egée là nơi tranh chấp giửa Hi Lạp và Thổ nhỉ Kỳ. Vào thời buổi đó, (1984) tới Izmir phải thông báo, trả lời bắng chớp đèn tín hiệu Morse vì lý do quốc phòng. Không được quyền gọi VHF ! Vụ này trên thế giới, chỉ còn lại trong nhà binh chứ dân sự đâu có xài. Cdt thấy tui chớp đèn trã lời ngon lành mà không thèm đánh thức sỉ quan Radio, ngạc nhiên hết sức. Chuyện nhỏ thôi, bên mình đêm nào mà không đánh đèn tích ta với H.Q hay Tuần duyên!
Chất hàng xong, chạy qua Alexandrie, cảng lớn của Ai Cập, nơi có ngọn hải đăng, một trong 7 kỳ quan của thế giới. Tàu phải neo 24 giờ chờ bến. Rảnh rang, tui lên bờ, đi thăm thành phố.
Từ trong bến tàu, đã thấy bài bán Papyrus, một lọai giấy viết phát minh từ đời Ramsès (1250 trước TL. Tui được họ giải thích, loại giấy này làm từ cây cỏ, mọc rất nhiều dọc bờ sông Nil. Người ta lột vỏ cọng cây, lấy phẩn mềm rồi cắt theo chiều dài từng lát mỏng, xếp thành 2 lớp chồng lên nhau thành tấm giấy. Xong thấm nước rồi lấy đá đập cho nó dính với nhau. Khổ giấy tùy mình muốn.
Tui gặp một đám tang. Có 6 người khiêng quan tài. Họ cố chạy theo một người đàn bà, khóc kể lu bù, băng từ lề đường này qua lề đường kia. Bà phân trần với mọi người trên đường. Ai nấy cũng tỏ vẻ thông cảm nổi đau của bà. Phía sau quan tài là thân quyến cũng chạy theo. Nghĩ lại xứ mình, khiêng quan tài phải nhẹ nhàng không được chao đổ ly rượu, còn ở đây . . .
Nho xứ Ai Cập thật ngon, trái lớn, màu ngà, hơi vuông chứ không tròn như nho tây. Bận về, có ghé Port Saïd, trên tàu mua rất nhiều, đem về tặng bà con bên Pháp. Nghĩ lại tức cười, hồi xưa, nói bom nho là phải nói . . . bên Tây! Bây giờ, thấy Tây đi mua nho mang về . . . Pháp!
Ai Cập về đêm, hàng triệu ngôi sao lấp lánh, chen chút nhau trên bầu trời. Rời Alexandrie qua neo gần cửa con kinh Suez chờ hoa tiêu. Kinh Suez dài 180 km, tiếp nhận được các tàu có lườn sâu 20 m. Không có ụ như bên Panama vì nước con kinh lưu thông giửa Địa trung hải và Hồng Hải. Sắp qua đoạn kinh hẹp, phải neo lại chờ đoàn tàu đi ngược lại.Đại lý cho biết đậu lại đây 24 giờ. Thuyền trưởng cho phép đi viếng Kim tự tháp do đại lý tổ chức trong khi chờ đợi.
Hồi nhỏ, tui có cởi bò trong quê, nhà của thằng bạn. Lớn lên, về SG đâu có dịp nửa. Giờ đây, qua xứ Ai cập, tui cởi . . . lạc đà cho mướn trên đường đi Kim tự tháp. Chỉ đi chừng 200 m thôi. Cởi cho biết chứ lại gần đã nghe mùi nồng nặc, hôi rình. Coi truyền hình thấy dể ợt: nó quỳ xuống, mình leo lên xong, nó đúng dậy đi. Coi vậy mà không phải vậy! Khi nó đứng lên, thằng bạn tui té cái ạch xuống đất. Nó không dám leo lên nửa mà chạy lúp súp theo sau. Lúc lạc đà bước đi, mình ngồi trên lưng vừa cao mà lắc lư không khoái như cởi bò.
Đi vào bên trong kim tự tháp thì đã có nhiều đoàn du lịch khác. Tôi mải mê quan sát, tự nhiên nghe lạnh sau lưng. Quay lại thì không còn ai, thiên hạ đi trước hết rồi. Tôi lật đật chạy theo, cảm giác rờn rợn lạ lùng . . .
Khu vực Hồng hải có ngọn gió Khamsin. Tiếng Á rập có nghỉa là 50. Nó mang cát và sức nóng sa mạc thổi tràn qua đây. Thời gian mổi khi gió lên là 50 ngày. Khi tàu vô Hồng hải tui mới biết tại sao có tên này: do khamsin nước biển lộn với cát sa mạc nên màu hơi giống màu nước phù sa sông cửu long. Vòm trời nhìn từ xa, gió cát sa mạc như sương mù đỏ. Cửa nẻo đóng kín mít mà cát vẩn chung vô.. Mới tuần trước đây, còn bên Hoà lan, lạnh cóng xương 10 độ âm mà bây giờ nhiệt kế bên ngoài chỉ 48° Celcius! Cho nên, đi tàu có loại tiền thưởng cho cái vụ nóng lạnh này nửa!
Dưới sức nóng ghê người, mặt biển như bốc hơi, mù mù, không thấy chân trời. Không có định vị làm point gì hết, cứ nhắm ở giửa biển mà chạy. Chỉ vào sáng sớm và chiều tối, 2 lieutenant mới xách sextant ra đo, tính toán điều chỉnh lại hướng.
Tới eo biển Bab el Mandeb, tàu rời Hồng Hải đổ ra vịnh Eden, tiếng Á Rập có nghỉa là Cửa Ngỏ Than Khóc, ngăn cách 2 nước cộng hòa Djibouti và Yémen, được coi như là một trong những eo biển có nhiều tàu qua lại nhứt trên thế giới.
Khi ghé Djibouti, tui gặp một lính lê dương Pháp gốc VN. Anh đưa cho xem vỏ chai rượu chác Bordeaux bị quẹo nghiêng một bên chừng 30°, ngay chổ giửa chai Mùa hè ở đây nóng khủng khiếp, Uống xong chai rượu, làm biếng đem bỏ thùng rác , vùi đại xuống cát dấu cho rồi. Mấy bửa sau, cần cái chai không, ra moi lên thì nó bị biến dạng như vậy Anh giử chai này làm kỷ niệm.
Cập bến Abu Dhabi, liên bang Á rập, tất cả rượu phải bỏ vào kho nêm lại. Xứ sa mạc như vậy mà dọc đường trồng hoa dài dài. Cứ 100 m có một người trách nhiệm tưới đi tưới lại hoài. Đất thì nhập cảng từ bên ngoài. Nước ngọt thì có máy. . . lọc nước biển. Nhà cửa tối tân, các chuyên viên, kỷ sư khắp nơi tụ họp về đây làm việc do lương bổng rất hậu. Nhiều tiệm cà phê nhưng không có tiệm rượu.
Hàng trăm giàn khoan nguyên cả một vùng Zakum Field. Có cái dùng để bom nước vô. Túi dầu cho dầu nổi lên, có cái hút khí Méthane, dầu thô. Từ năm 1976, bắt đầu khai thác vùng này với chi phí 1 triệu đô la/ ngày. Cuối năm 1981, tui có dịp trở lại đây vẩn chưa chảy giọt dầu nào. Tui hỏi thăm thì họ cho biết, giá dầu còn rẻ lắm, chưa muốn bán. Chỉ cần tối đa 1 năm khai thác là lấy lại vốn. Với dung lượng hàng ngày 800.000 thùng, ông chủ có . . .00 năm trước mặt, chưa kể đến túi thứ hai nằm sâu phía dưới ! Ây da, tọa thực sơn băng, ngồi ăn mải, non mòn, núi lở, mà chừng nào mới lở nổi đây ! ! !
Trên đường về, tàu ghé qua Sfax ở Tunisie. Lần đầu tiên mới thấy chà là tươi. Trái màu vàng, vừa chín tới, dòn dòn chứ không như bên mình. Khi tàu ghé Oran, nước Algerie, tui được Đại lý mời cơm chiều ở tại nhà. Ăn bốc bằng tay! Coi vậy chứ không phải dể đâu. Tây phương kỵ, đưa dao lên miệng, liếm dao khi ăn. Vô tù cải tạo, học được cách văn minh văn hóa, trở đầu đủa lại gấp thức ăn mặc dù không có cái gì để gấp hết. Bây giờ, qua xứ Á rập hoc cách ăn bốc. Người lịch sự phải ăn như vầy nè: có tô nước thơm để rửa 3 (ba) ngón tay phải, ngón cái, ngón trỏ và ngón giửa thôi chứ không phải thọc nguyên bàn tay đâu nha. Nhớ là 3 ngón bàn tay phải vì tay trái dùng để . . . hát phim ngắn, hay cái vụ nọ kia! Cấm xài lộn nghe chưa quí vị. Tui bị ông ta đùa vui khẻ tay, vì tui thuận tay trái nên nhớ rỏ lắm, mặc dù thiên hạ nói tay trái bóp cái gì đó . . . hổng đau mà la làng hihihi Dùng ba ngón tay, nhúm món ăn lại, đưa lên gần miệng cách chừng hai ba phân. Lấy bàn tay trái gỏ vào cườm tay phải cho thức ăn chạy vào miệng chứ không được đụng ngón tay lên môi vì như vậy sẽ bất lịch sự như liếm dao vậy. Chưa hết, xong buổi cơm, thay vì xếp khăn ăn lại thì mình phải vo tròn trong tay, ném mạnh xuống bàn rồi . . . rồi sao? Rồi ráng Ợ một cái cho lớn và nói bửa nay ăn ngon miệng quá!!! Ối mẹ cha ơi, hồi nhỏ mà tui lở làm như vậy có nước ra khỏi bàn cơm, nhịn đói luôn, còn bây giờ thì, . .thì sao ? Chủ nhà bèn mừng rở, cám ơn rối rít khoe là chính tay Bà chủ nấu nướng. Nhớ cho kỷ phim này nghe quí vị. Yêu cầu đừng chiếu lộn rạp nha: rạp nào chiếu phim nấy, rạp tây, chiếu phim đầm, bưng cà phê cho nàng uống, ăn sáng trên giường chớ đừng có chiếu phim đàn bà ra đường bit mặt, khách bỏ về hết đó.
Tàu đến Rotterdam, đại lý đưa ra phi trường, tung cánh chim tìm về tổ ấm. Gặp lại được phân nửa kia, chiếc dép cùng số của tui sau 5 tháng 11 ngày lưu lạc. Ba tháng nghỉ phép chớp nhoáng, Hảng điện thọai đến, thông báo vé phi cơ đã sẳn sàng, 3 ngày nửa lên đường. Bèn buồn!
Thôi . . . Anh về với em, rồi mai lại đi!
Nh.

Một thoáng hương xưa

Một thoáng hương xưa

Nh. 1966

Chiều chúa nhật nắng tràn qua nẽo phố,

Anh một mình đến chổ hẹn ngày xưa.

Nơi xa xôi, ai nào biết bây chừ,

Nha Trang vắng bóng người anh thương nhớ.

 

Anh vẫn biết yêu để rồi đau khổ,

Nhưng trót thương em hơn ánh sáng mặt trời.

Lúc bên nhau hờn giận thấy xa xôi,

Chừ trống vắng mong em ngồi kề cận.

 

Hai năm qua, cuộc tình nhiều lận đận,

Với vui buồn, câm hận lẫn say mê.

Lúc đâu thương, anh ngoãnh mặt ê chề,

Lúc âu yếm, em má kề, vai tựa

 

Bờ môi ấy, khắc ghi ngàn lời hứa,

Anh dại khờ muôn thuở tuổi đôi mươi.

Ái ân ơi…, anh chết lịm thân người,

Em rên rỉ…, nghe cã trời hạnh phúc !

 

Trong hối hã, đỉnh yêu thương cùng cực,

Suối tuôn trào ngập lụt xã thân em.

Ta yêu nhau không kể ngày đêm,

Chưa tàn cuộc đã thấy thèm . . . yêu nửa!

 

Để hôm nay anh một mình vò võ,

Ghế công viên đây đó những cặp tình.

Chân lang thang hồn lạc đất thần kinh.

Nhớ xứ Huế… anh nhớ mình tha thiết…

 

Ngày gặp lại chắc mình vui như Tết,

Góp hương hoa em đem kết mộng đời.

Dù nơi mô cho đến lúc tàn hơi,

Anh nguyện hứa một lời yêu em mãi. . .


Thủy thủ ca- Những con tàu hấp hối – HXĐỉnh

THỦY THỦ CA

Cởi giây rồi, thuyền ơi quên luyến tiếc
Vui ra đi cùng nước biếc trời xanh
Gió lên cao, vang khúc hát khởi hành
Ðừng sầu muộn, thẹn cùng sao lấp lánh

Ðường kẻ rồi, cố lái đều tay bánh
Dẫn tàu qua ngàn sóng, ánh lân tinh
Vui cảnh bao la, muôn vẻ muôn hình
Của kiếp sống bềnh bồng trên bể cả

Có những buổi chiều bình lặng, êm ả
Chờ hoàng hôn đến « xa lạc Kim Ô * »
Kính lục phân trong tay, mắt tìm cô Vệ Nữ
Hỏi thăm nàng bao nhiêu độ cao xa?

Rồi những ngày nhiệt-đới-dương oi ả
Nắng cháy người, mưa xối xả liền nhau
Mây đen hãy kéo đi mau,
Kinh tuyến sắp đến, mặt trời thấy đâu?

Có những hôm bể dâng sóng bạc đầu
Gió điên cuồng gào thét suốt đêm thâu
Thuyền ngã nghiêng giữ « cape » dạt về đâu?
Ðợt sóng tung, đầu tàu run ướt át

Nhưng cũng có những bình minh gội mát
Ánh hồng lên, đánh bạt bóng âm u
Gió nồm cất cao khúc hát êm ru
Có phải cá mỹ nhân hòng quyến rủ?

Rồi những hôm, sương sa dầy bao phủ
Còi tàu hụ, giữa mù mịt bể khơi
Giảm số vòng, người dưới máy kia ơi
Kẻo tàu đụng, tơi bời bao thuyền khác

Qua lắm ngày, sóng đại dương rào rạt
Thì kia rồi, khao khát ánh hải đăng
Trong đêm tối, dẫn đường ta thẳng tiến
Ðến cảng xa thoáng hiện ở chân trời

Rồi ngở ngàng, đất lạ bước dong chơi
Tìm tình mới, đẹp tô đời thủy thủ
Nhưng « circée ** », dẩu muôn ngàn quyến rủ
Quyết giã từ, tàu lại nhổ neo đi

Cứ thế, đời ta là một chuổi trường kỳ
Của đến, đi, của chia ly rồi gặp gở

 

Bể Oman, tháng ba năm 1959
(Tàu VIET NAM, 34, Messageries Maritimes)
Hoàng Xuân Ðỉnh, CLC

* Rút ra từ câu đối của Ô. Mạc Ðỉnh Chi:
Khi Mạc Ðỉnh Chi đi sứ sang Tàu, vua xứ này nghe tiếng về tài đối đáp của Ông Trạng VN mới ra câu đối để thách: « Nhật hỏa, vân yên, bạch-đán thiêu tàn ngọc thố » (mặt trời như hòn lửa, mây như khói, ánh sáng trắng của ban mai đốt cháy rụi con thỏ ngọc (mặt trăng)).
Không chút ngần ngại, Sứ Việt đối liền lại: « Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xa lạc kim ô » (Trăng lưỡi liềm như cánh cung, ngôi sao sáng như hòn đạn, bắn rớt ngay con quạ vàng (mặt trời)).
Vua Tàu phục lắm nhưng tiên đoán là trong đám con cháu của Mạc Ðỉnh Chi sẽ có người nổi loạn mà đoạt ngôi vua, vì kim ô Quạ Vàng là tương trưng cho Hoàng Ðế mà lại muốn bắn rớt đi! Thật thế … Mạc Ðăng Dung …
** Circée, người đàn bà tinh thông pháp thuật của thần thoại Hy Lạp, con của Hélios và Perséis. Vì muốn giữ Thuyền Trưởng Ulysse để sống đời với nhau trên đảo của nàng, nên dùng phù phép biến các thuyền viên  khác thành heo để không ai lái tàu được nữa.

NHỮNG CON TÀU HẤP HỐI

Ôi buồn quá, những con tàu chờ chết
Bến đìu hiu, thân nặng vết phong trần
Rét rỉ lên, thời gian đục từng phân
Mảnh vỏ sắt, lở lan tầng rêu mọc

Thuyền có nhớ, những khi còn ngang dọc
Thuở tung hoành, nơi góc bể chân mây
Của sa mù, băng giá Bắc Ðại Tây
Hay Nam Hải sóng xanh, bầy cá nhảy

Thuyền có nhớ, Ấn Ðộ Dương nắng chảy
Bảo Thái Bình ra sức trẻ trở xoay
Thuở hiên ngang, người chăm sóc đêm ngày
Ôi oanh liệt một thời nay đã hết

Giờ nằm đây, chờ lưỡi liềm thần chết
Xẻ thịt, xương, thành sắt vụn, thép cong
Ðâu người xưa tàu đã chở trong lòng
Có biết chăng bạn đồng phong hấp hối?

Hoàng Xuân Ðỉnh, CLC
1959/60 để tặng các tàu Désarmés, Cemay,

St Tropez, Le Lavandou
neo trong bến Marseille, France

Hồi ký

Hồi Ký

Nguyễn thế Huấn

            Sơ lược cuộc sống trên biển trong 15 năm của tôi để quý bạn đọc chơi cho vui:

           Khóa tôi học gồm 32 người, nhưng tất cả đều vào học trường Hải Quân Nha Trang như các Anh: Diệp Quang Thủy, Vũ  đình Đào, Nguyễn văn Thông, Nguyễn Thiện Noel … và …ở ngoài đi thương thuyền chỉ có năm người: Anh San bị chìm tầu ở ngang Mũi Né, hồi đó Anh Tôn thất Ấn có chạy xe ra Mũi Né tìm, nhưng không thấy xác Anh San, Anh Bùi Khắc Kim cũng chìm tầu ở gần Nha Trang khi tầu anh gặp bão lớn, còn một anh người Nam rất tiếc tôi quên tên, đi tầu Hương Khanh ra Đà Nẵng, lúc tầu  xuống hàng Anh đến sông Hàn tắm, không hiểu sao khi  đêm  ngủ rồi sáng hôm sau không thấy thức dậy nữa… Anh Lê văn Phước di cư sang Pháp cũng mới mất năm ngoái, thành chỉ còn mình tôi.

Lúc đó trường Hàng Hải còn ở trong khuôn viên Trường Petrus Ký.

Chúng tôi học sau lớp hai Anh Phạm Ngọc Lũy và Anh Bùi Ngọc Hương một năm, khi hai Anh Lũy và Hương lên thi Thuyền Trưởng, Tôi và Trương Hạo xuống thay thế trên tàu Nguyễn Văn Bảy, có lẽ trong  mười lăm năm sống lênh đênh trên mặt biển, có thể nói trong đời đi tàu của tôi thoải mái và dễ chịu nhất trong lúc tôi làm việc trên tàu Nguyễn văn Bảy cùng với Anh Lưu làm Thuyền Trưởng, vì mỗi khi tầu rời bến Sàigòn đến các bến khác, Anh Lưu thích lên bờ đi chơi, nhưng phải có bạn, thành mỗi khi đi Anh lại hỏi tôi: Hôm nay “Toa” có trực không? Tôi bảo thưa Anh hôm nay tới phiên Em trực, thế là Anh Lưu gọi Trương Hạo :

– Ê “ Toa” không đi đâu trực thay Huấn nó đi chơi với “Moa”.  Thế là từ bấy giờ trở đi, mỗi khi tầu tới bến khác là tôi được theo Anh Lưu đi tắm biển, hoặc đến nhà bạn ăn nhậu no say.

Còn phần đi ngoại quốc tôi cũng được đi nhiều nước như: Hồng Kông, Phi-lip-Pin, Nam Dương và  ngay  ra  đảo  Hoàng Sa  lấy  phân  tôi  cũng được ra, đi nhiều nước nhất là hồi đi trên tàu “Ô Sam- bô” cùng với Thuyền Trưởng Ducasse, vì tầu này chuyên chạy từ Cambốt, tới Thái Lan, Singapore, Mã Lai Á, rồi Miến Điện, mặc dầu có qua Vũng Tầu, nhưng tầu không vào sông Sàigòn, trong thời gian này Ông Ducasse chỉ  cho tôi làm Pilot dắt tầu từ Vũng Tầu vào bến tàu Cambot, thành giòng sông Mekong tôi thuộc lòng, hồi đó tầu O SamBo không cần lấy Pilot, Ông Thuyền Trưởng dẫn dắt tàu ra vào tự do.

Thành khi tôi vào Quan Thuế làm việc với Anh Lê Xuân Long, Anh chỉ định tôi đưa tầu đi tuần tiễu trên sông Mekong, tôi đi dễ dàng.

Trong thời gian tôi làm việc với Anh Long có  chuyện xẩy ra rất nguy hiểm, chắc hồi đó Anh Long không biết, vì tôi không báo cáo với Anh Long. Trong khi tôi đi tuần trên sông Mekong vào khoảng 4, 5 giờ  chiều, tôi thường thả tầu  trôi trên sông để hóng gió mát, một hôm bất ngờ nước thủy triều rút xuống quá nhanh, tầu tôi bị mắc cạn, loay hoay mãi không sao rút ra được, thành chịu nằm chết dí một chỗ, may sao có tầu  chở đạn của Hải Quân  đi tới, tôi kêu cứu, cũng may Anh Hạm Trưởng có lòng hảo tâm, tới  gần quẳng giây để kéo tầu tôi ra, nhưng không may, nước thủy triều rút xuống quá nhanh, chính tầu Hải Quân cũng lại bị mắc cạn gần tầu tôi.  Thế là hai tầu  đều chịu cùng một số phận, phải chờ đến nửa đêm, nước thủy triều dâng lên cao, tầu  Hải Quân rút ra trước, rồi kéo tầu tôi ra sau khỏi chỗ cạn, để trả ơn các Anh Hải Quân tôi mời tất cả các Anh trên tầu Hải Quân cùng với thủy thủ tầu tôi lên chợ Mỹ Tho ăn phở để trả ơn các Anh đã giúp tôi, nếu không có các Anh Hải Quân giúp,  không biết tôi sẽ giải quyết ra sao ?

Sau đó về Sàigòn tôi nghỉ Quan Thuế đi trình diện Thủ Đức. Cuộc đời tôi có cái rủi mà cũng có cái may.  Cái rủi là đương làm việc tại Nha quan Thuế, phải đi trình diện Thủ Đức. Cái may là khi vào Thủ Đức, tôi chắc là phải đi “ắc ê” mãn đời rồi, nhưng, ở đời thường có cái nhưng, không ngờ khi đi khám bác sĩ họ tìm ra tôi có viên sạn nằm trong thận quá lớn, nên họ đề nghị cho tôi được miễn dịch, khi ra hội đồng Tướng Lãnh, họ gọi tên Nguyễn Thế Huấn được miễn dịch vĩnh viễn, không biết đây thực hay mơ, tôi ngẩn người ra đứng một lúc, Ông Tướng thấy tôi vẫn còn đứng Ông hét lớn được miễn dịch vĩnh viễn rồi không đi còn đứng đấy à ?

Sau đó tôi trở lại chỉ huy trên tầu buôn mấy năm nữa rồi bỏ hẳn nghề lên bờ mở tiệm xuất nhập cảng, bán đồ điện tại Phú Nhuận cho đến khi di cư sang Mỹ cùng với vợ và bốn con sống tại Indianapolis cho đến ngày nay. May mắn bốn con tôi học hành đều khá và  ra trường cùng một lúc vào cùng một tháng năm,  năm 1985 với các cấp bằng khác nhau, con gái lớn có Master degree Computer Science, con  trai thứ nhì có bằng bác sĩ Giải Phẫu Nhãn Khoa, con gái thứ ba có bằng Kỹ sư điện và con trai thứ tư cũng có bằng Kỹ sư điện, hiện  bốn con tôi đều có việc làm, và một phòng mạch tư, tôi có dâu và rể được bốn cháu ngoại và một cháu nội, hiện giờ bốn cháu đều  có nhà riêng  quanh tôi đi độ 10 phút lái xe.

Hiện tôi  đã 76 tuổi và Bà Xã tôi đã 70 tuổi, cả hai đều về hưu trên mười  năm nay, nhận thấy cuộc sống của chúng tôi tạm yên thân cho tới ngày mãn phần./.

Vinh danh Sĩ Quan HHTT phục vụ hạm đội HQVN

VINH DANH SĨ QUAN HÀNG HẢI THƯƠNG THUYỀN PHỤC VỤ HẠM ĐỘI HẢI QUÂN VIỆT NAM

Lê Châu An Thuận

Mỗi năm gần Tết, Quân Chủng Hải Quân của chúng ta ở trong nước, trước năm 1975, và sau này ở hải ngoại đều có buổi lễ vinh danh các chiến hữu Hải Quân đã hy sinh ở trận hải chiến Hoàng Sa. Các chiến hữu nầy xứng đáng được gọi là Anh hùng Hải Quân vì các chiến hữu đã xả thân để bảo vệ phần lãnh hải của Tổ Quốc mà tiền nhân đã dày công xây dựng và bảo tồn từ bao thế kỷ. Trên danh sách các Anh Hùng Hải Quân tham dự trận Hoàng Sa mà chúng ta hãnh diện vinh danh hàng năm, tôi nhận thấy có tên anh HUỲNH DUY THẠCH, một cựu sinh viên Trường Việt Nam Hàng Hải, một cựu sĩ quan Hàng hải Thương thuyền Việt Nam.

ANH HUỲNH  DUY  THẠCH

HQ Trung Úy CK/HHTT

Cơ Khí Trưởng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo, HQ. 10

         

Anh Huỳnh Duy Thạch, sinh năm 1943, quê quán Ðà Lạt, nhà gần khu vực Domaine De Marie, cựu học sinh trường “École D’ Adran” Ðà Lạt. Rời Ðà Lạt để về Saigon, vì trúng tuyển vào trường Việt Nam Hàng Hải thuộc Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ. Anh ở nhà người chị ruột sinh sống ở Thủ Thiêm, Saigon. Tốt nghiệp khóa 13 Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền, ngành  Cơ  Khí, niên  khóa 1963-1965. Ra trường anh làm việc trên các thương thuyền Việt Nam  trong  một  thời  gian, sau  đó động  viên vào Trường Võ Bị Thủ Ðức, khóa 25, sau khi học xong giai đoạn I ở Quân Trường Thủ Ðức, anh được chuyển sang Quân Chủng Hải Quân để học nốt giai đoạn II. Tốt nghiệp Thủ Ðức, anh được chuyển hẳn sang Hải Quân với cấp bực HQ Chuẩn Úy CK/HHTTvà lần lượt phục vụ trên các chiến hạm của Hạm Ðội VNCH, anh cũng có thời gian làm việc tại đơn vị bờ với chức vụ Sĩ Quan Công tác tại Hải Quân Công Xưởng.

Chức vụ sau cùng của anh ở Hải Quân là HQ Trung Úy CK/HHTT, Cơ Khí Trưởng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10.

Trước chuyến công tác định mệnh của HQ. 10, chiến hạm bị hư bơm cao áp của máy chính tả, chiến hữu Huỳnh Duy Thạch và ban cơ khí của chiến hạm cùng lo sửa chữa với các bác công nhân của Xưởng Ðộng Cơ của Hải Quân Công Xưởng do Bác Bửu, Trưởng toán Ðại Ðộng Cơ của HQCX trực tiếp phụ trách sửa chữa.

Chiến hữu Huỳnh Duy Thạch ít nói, giọng trầm, người ngâm ngâm đen, ăn mặc quân phục lúc nào cũng tươm tất, đối xử tốt với bạn bè, kính trên nhường dưới, chiến hữu ưa thích hút thuốc Bastos, và hút quá nhiều, và còn thích uống café đen đậm, anh em khuyên bớt thuốc lá thì lúc nào cũng hứa nhưng chỉ hứa để làm vui lòng anh em mà thôi chớ không bớt chút nào.

Trước chuyến công tác cuối cùng, chiến hữu Huỳnh Duy Thạch đã nhận được lịnh thuyên chuyển để về phục vụ cho Hàng Hải Thương Thuyền. HQ. Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, Hạm Trưởng HQ.10 muốn cho anh được thuyên chuyển trước khi tàu rời Đà Nẳng đi Hoàng Sa, và bàn giao lại cho HQ. Trung Úy CK Phạm Văn Thi, anh có thể chọn trở lại cuộc sống dân sự thoải mái và sung túc, nếu rời chiến hạm HQ.10 ngay lúc đó, nhưng anh đã chọn “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm” và ở lại với đồng đội trong lúc dầu sôi lửa bỏng.

Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10 đã cùng với các chiến hạm Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ. 5,  Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ. 16, Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ 4 tham dự trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974 để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên quần đảo Hoàng Sa đang bị quân Trung Cộng lấn chiếm. Như chúng ta đã biết Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ. 10 đã chẳng may bị trúng đạn của chiếc Kronstad 271 của Hải Quân Trung Cộng và bị chìm. Chiến hữu Huỳnh Duy Thạch là một trong những chiến sĩ hy sinh vì đạn thù, máu của anh cùng máu của đồng đội đã đổ để cố bảo vệ từng tấc giang sơn của Tổ Quốc Việt Nam.

Sau 30 năm được coi như một chiến sĩ vô danh, nay anh đã được phục hồi và tôn vinh là Anh Hùng, Liệt Sĩ Hoàng Sa.

Sau đây là cái nhìn của một trí thức trong nước về trận hải chiến Hoàng Sa, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, đã viết:”Năm 1973 [đúng ra là năm 1974] thình lình Trung Quốc đem quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chống trả quyết liệt, gây cho địch quân những tổn thất về người cũng như chiến hạm nặng nề gấp mấy lần mình. Nhưng, vì lực luợng Hải quân quá mỏng so với Trung Quốc, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đành rút bỏ!”.

Dẫu thế nào đi nữa, tôi đề nghị phải xây một đài kỷ niệm để vinh danh những chiến sỹ đã hy sinh trong trận chiến đó.”

Chính Phủ, Quân Đội và Hải Quân VNCH thì xả thân để bảo vệ tổ quốc, trong khi tập đoàn lãnh đạo CSVN, bất chấp sự phản đối của đồng bào trong và ngoài nước, đã nhục nhã ký Hiệp định Biên Giới và Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ dâng đất đai và lãnh hải cho Trung Cộng.

 

Lê Châu An Thuận

Khoá 13

 

Trường Cao Đẳng Vô Tuyến Điện

Trường Cao Đẳng VÔ TUYẾN ĐIỆN

 École Supérieure de Radio Electricité

Tống hữu Sáo

            Cho đến giửa Thế Kỷ 20 ngành truyền tin  thông ở Việt Nam vẫn chưa phát triển được bao nhiêu nên v/đ truyền tin, thông tin liên lạc vẫn còn dựa vào mấy yếu tố Điện thoại – Điện tín (Téléphonie – Télégraphie); Vô tuyến điện thoại – Vô tuyến điện tín (Radiophonie– Radiotélégraphie). Vô tuyến điện Radiophonie chỉ có thể liên lạc được ở tầm gần thôi, liên lạc tầm xa phải nhờ đến hữu tuyến và vô tuyến qua những tín hiệu Morse tít tít ta ta… (Télégraphie & Radiotélégraphie)..

Lúc xưa người ta đi gởi điện tín (télégramme) thì thường hay nói là đi đánh giây thép, nhân viên làm công việc nầy được gọi là Opérateur télégraphiste hoặc là Thầy Ký giây thép….!

Trường Vô tuyến điện là nơi đào tạo những nhân viên cho ngành nầy. Đây là Trường của Nhà nước . Trước  đây  Saigon cũng có 1 trường Vô tuyến điện Tư thục (Lectason), nhưng đào tạo người chỉ để xữ dựng trong 1 phạm vi hạn chế ở trên  bộ (không đi máy  bay  hay  tàu  biển được).

Trường Vô tuyến điện Nhà nước nầy là  Trường Cao Đẳng Vô tuyến điện (Ecole Supérieure de Radioélectricité); chỉ có 2 ban; Cán sự điện (Agent technique de radioélectricité) & Điện tín viên (Opérateur radiotélégraphiste).

Điện tín viên được chia ra 3 hạng: 1ère classe – 2ème classe & Spécial . Bằng cấp khi tốt nghiệp ra trường là Certificat (chớ không phải Brevet hay Diplôme gì hết);

  • Certificat d’opérateur radiotélégraphiste de 1ère classe
  • Certificat d’opérateur radiotélégraphiste de 2ème classe
  • Certificat Spécial de radiotélégraphiste.

Ban Cán sự điện học 2 năm, còn Vô tuyến điện chỉ học 1 năm là ra trường.

Trường Cao Đẳng Vô tuyến điện nầy trước năm 1945 chỉ có ở Hànội thôi! Vì thế  nhiều HS trong Nam tốt nghiệp xong Tú tài, đi ra Hànội học tiếp, không vào Đại học Y khoa hay là những Đại học gì gì khác…mà cũng có người chịu chui vào trường Cao Đẳng Vô tuyến điện nầy…!!

Sau Đệ nhị Thế chiến 1945, trường nầy mới được mở trong Saìgon, nằm trong khuôn viên của trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, bên cạnh trường Hàng Hải & trường Cán sự Công Chánh. Đến  năm  1952  cả  3  trường  nầy  được dời về Trung Tâm Phú Thọ cùng một lúc. Còn là một trường của Nhà nước Pháp nên mọi việc thi tuyển, học hành, thi tốt nghiệp (thi viết, vấn đáp v..v) đều dùng tiếng Pháp. Cho đến lúc dời về Trung Tâm Phú Thọ năm 1952, trường mới được chuyển giao lại cho Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa…

Học thì ở trường Vô tuyến điện nhưng bằng tốt nghiệp là do nhà nước Bưu Điện Pháp (Administration des Postes Télégraphes & Téléphones (PT&T ..) cấp, dưới Tiêu đề của: Phủ Cao uỷ Pháp tại Đông Dương (Haut Commissariat de France en Indochine).

Về chuyện học hành và thi cử, 2 bằng 1ère & 2ème classe chẳng có gì khác biệt với nhau bao nhiêu! (bằng Spécial học chung chương trình với 2ème classe), 2 bằng đều có quyền và đủ điều kiện đi làm việc trên máy bay hay tàu biển như nhau, không bị chi phối bởi quyền ưu tiên lớn nhỏ…c ho nên đại đa số anh em học ngành nầy đều chọn thi 2ème classe… khi nào không đậu được 1ère hoặc 2ème classe thì mới đăng ký thi bằng Spécial (chỉ sau đó 1 tuần thôi).

Bằng Spécial chỉ đươc phép đi làm trên tàu biển (không được làm trên máy bay) khi thiếu người, nhưng phải nhường chỗ lại cho những 2ème hoặc 1ère classe, nếu có sư khiếu nại!! Trên nguyên tắc là như vậy, nhưng làm gì có những chuyện đi giành chỗ với anh em… chỗ làm thì chẳng thiếu…!!

Tóm lại; 3 bằng Vô tuyến điện nầy đều có quyền được đi làm trên tàu biển, với những điều kiện như trên và còn được hành nghề mình trên bờ: PTT, Cty Air nội địa nhỏ, đồn điền cao su, hoặc những Cty lớn có nhiều chi nhánh mà có trang bị máy phát sóng Vô tuyến điện để tiện việc liên lạc tin tức trong nội bộ……

PTT liên lạc thông tin với những tàu biển qua Đài Duyên hải (Station côtière), mỗi điạ phương cảng biển nào tàu biển thường lui tới đều có một Đài Duyên hải (cả trên Thế giới cũng vậy)…

Vô tuyến điện làm việc trên máy bay (chỗ làm nầy rất hiếm) gọi là Radio navigant .

Vô tuyến điện làm trên tàu biển gọi là Officier Radio de bord (SQVTĐ) được phong chức sĩ quan ngay, lieutenant (Dịch) mà không cần phải tập sự một ngày nào, nhưng cứ là Dịch cho đến già…!! Mỗi tàu hàng (Cargo) lớn hay nhỏ đều chỉ có 1 SQVTĐ, riêng những tàu hành khách (Paquebot), tùy theo lớn nhỏ mới có 2 hoặc 3 SQVTĐ, ở đây mấy anh chàng có bằng 1ère classe mới thấy được hưởng quyền ưu tiên của bằng cấp mình: được làm Trưởng Đài (Chef de station – đài Vô tuyến điện trên tàu là 1 station mobile) và được thăng chức Capitaine…(Quan 3).  Vô tuyến điện đi làm trên bờ là Opérateur télégraphiste, nếu làm PTT mà rơi vào những trạm chuyển/nhận điện tín (Télégrammes) thì chắc chắn sẻ được gọi là………….Ông Ký giây thép………!!!

 Sgn – VN  20/3/2006

Tống Hữu Sáo

SQVTĐ Hàng Hải 1950 – 1972