Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.
Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể « vợ những người tù cải tạo » quanh đây.
Phú Quốc 1970 (Hình tác giả cung cấp)
30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ Hải Quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.
Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là Hải Quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến Hải Quân.
Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi. Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.
Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.
Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.
Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn ?
Phi Trường Tân Sơn Nhất – 4 tháng 7 1991 (hình tác giả cung cấp)
Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.
Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.
Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.
Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.
Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.
Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.
Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.
Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng. Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?
Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?
Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…
Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.
Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.
Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”
Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.
Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.
Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ 1992 (hình tác giả cung cấp)
Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.
Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.
Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?
Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.
Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh. Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.
Anh sống thế nào nhỉ?
Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.
Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.
Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.
Gia đình năm 2015 (hình tác giả cung cấp)
Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.
Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.
Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?
Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.
Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.
Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.
Mãi đến bây giờ, 40 năm sau ngày đau thương ấy, chúng tôi vẫn thấy quyết định quay về là đúng. Chúng tôi hãnh diện khi có người hỏi, có phải anh đã trở về trên chuyến tàu định mệnh, VNTT. Chúng tôi ngẩng cao đầu với niềm tự hào, với sự can đảm khó có của anh, vui với một kết thúc “có hậu” như bây giờ.
Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.
Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.
Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.
Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.
Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”
Từ hôm tôi vào Sầm Sơn, sáng nào trời cũng mưa rả rích. Buổi trưa tạnh ráo thì mây lại u ám, và về chiều gió đông nam nổi lên thổi mạnh, làm thời tiết trở lạnh như vào khoảng cuối thu. Tôi buồn rầu nghĩ đến cảnh nghỉ hè trên Sapa. Vào đây mục đích là để tắm biển, để phơi nắng thế mà đã năm sáu hôm nay tôi chỉ khoác áo ngủ dài ra ngoài pull’over đứng vẩn vơ tựa hiên nhìn đường vắng. Chán nản quá đến nỗi sách cũng không đọc được. Rồi sinh ra cáu kỉnh, gắt gỏng ngầm ngấm trong lòng. Tiếng học chữ Hán và quốc ngữ của lũ trẻ ở phía sau nhà càng làm tôi thêm khó chịu, bực tức!
Nhưng sáng nay, lòng tôi vui thích. Nhớ lại tính nết tôi mấy hôm trước, tôi thấy tôi vô lý. Tiếng học chữ Hán vẫn bay sang, lanh lảnh như tiếng tụng kinh của một chú tiểu tốt giọng, đều đều như tiếng niệm phật của các tín nữ lên chùa, và quen quen, thân mật như tự ngàn xưa sống lại. Cả một thời ký vãng của tôi cũng sống lại, cái thời thơ ấu học chữ Nho. Tôi tưởng như chính tôi đương ê a đọc đi đọc lại mãi một câu: « I a phận từ tử hiến i a… i a phận từ tử hiến i a… ». Giọng đường trong khiến tôi nhớ tới một bậc đàn anh người xứ Thanh. Ngày xưa không gì thú cho tôi bằng nghe anh đọc thơ và bình văn tuy tôi chẳng hiểu chi hết. Bất giác bắt chước giọng anh, tôi ngâm nga đọc hai câu thơ của anh mà cái trí nhớ thời tám chín tuổi vẫn còn giữ vẹn toàn, tươi mát như rau nguồn vừa mới hái:
Thuấn hà nhân dã ngã tư tề,
Lạc thiện tâm tùy báo hiểu kê…
Các bạn có hiểu tại sao tôi vui thế không, tại sao hôm nay tôi sung sướng thế không? Mặt trời cuối xuân đã mọc trên từng không xanh ngắt và trong lòng tôi sáng tươi.
Tôi ra bãi biển, mặc sơ sài có một cái áo sát, một cái quần đùi ngắn. ở đó cố nhiên tôi chỉ gặp toàn những dân chài lưới, người nghỉ mát độc nhất là tôi. Nhưng không vì vắng người tắm biển mà bãi biển kém vẻ hoạt động, dù đây không còn là cái hoạt động thanh lịch, xinh xẻo, cái hoạt động phô bày, dàn xếp từ các nơi thành thị đem về như người ta phô bày, dàn xếp một cảnh hoạt động giả dối ở trên sân khấu nhà hát. Đây là cái hoạt động thiên nhiên, mộc mạc và hùng vĩ.
Hòn Trống Mái – Sầm Sơn
Ven làn nước có phần êm lặng so với những buổi chiều huyên náo mấy hôm trước, từng hàng người lực lưỡng kéo lưới. Những tấm thân cường tráng, nổi từng bắp thịt rắn chắc và rám tía cùng ưỡn ra, ngả về phía sau. Những bộ đùi mập mạp cứng như thép cùng duỗi thẳng để nhịp nhàng giẫm chân xuống cát và từ từ lùi lại, từ từ quá đến nỗi ta sẽ tưởng vẫn đứng y nguyên một chỗ, nếu thỉnh thoảng người cuối hàng không tháo dây móc ra để lộn lên đầu hàng, rồi lại lặng lẽ lạnh lùng, không suy nghĩ, ưỡn mình ngả về phía sau giẫm chân từ từ kéo. ánh nắng vàng dịu, trong mát, mong manh, mịn màng như lọc qua mấy đợt mây xanh, vẽ dài những hình rung động lên cát ướt.
Một cái lưới kéo vào bờ. Yên lặng đứt quãng, yên lặng mà tiếng sóng biển ầm ĩ, đều đều càng làm tăng lên. Một cái mảng từ đâu chở đến vừa vụt hiện ra để hứng lấy từng sải lưới. Đàn trẻ mót cá tua tủa chạy lại, xôn xao cười nói, mỗi đứa tay cầm một cái vợt nhỏ. Một người đánh cá cởi trần quần nâu bện lên tới háng, giơ ra một cái que nứa và dữ tợn dọa nạt: « Chúng mày mà lại gần thì chết đòn bây giờ! ». Bọn kia như không thèm nghe, lội cả xuống nước, quây quần lấy cái mảng, đứng sát vào hai bên thành lưới đã kéo gần tới đây. Tiếng que nứa mỏng vun vút trong không, hay đen đét lên đầu, lên mình lũ trẻ nhốn nháo. Những con cá lớn, trắng, sáng loáng như bạc từ dưới nước tự ném mình lên trên không để lại rơi xuống khoảng lưới vẫn đương kéo vào. Những con cá nhỏ, đầu nhọn thân dài và dẹp mắc trong mắt lưới bị người ta dứt mạnh vứt vào cái lồ đặt trên mảng, nếu không bị một thằng bé con nhanh nhẹn, nhẹ nhàng hắt vào trong vợt của nó.
Chỉ dăm phút, cá đã bỏ hết vào lồ đầy tới hai phần ba. Trộn lộn, lúc nhúc, nào cá thu phơn phớt màu xanh, nào cá chim lấp lánh màu bạc và biết bao nhiêu các thứ cá nhỏ giống nhau mà chỉ dân vùng biển mới có thể phân biệt và thuộc tên. Lẫn vào đó những con mực râu dài, những con cua với đôi khuyên tròn như cặp mắt vẽ trên mai, những con tôm vàng đầu to, uốn mình nhảy tanh tách.
Năm, sáu chị buôn cá xúm lại, vây chặt lấy cái lồ đã khiêng lên bãi. Câu nói thách, câu mặc cả, lời cãi nhau, mắng nhau. Một người đàn bà lôi lấy lồ, một người đàn ông kéo giật lại. Nhưng rồi mua bán cũng xong ngay, và mấy người đàn bà vội vàng cùng nhau chia phần đổ vào thúng, thoăn thoắt gánh đi.
Yên lặng lại trở về trong bầu không khí vẫn sáng dịu. Và những cái bóng yên lặng của những người kéo lưới vẫn nằm dài trên làn cát ướt. Lũ trẻ đã biến đâu mất cả. Ngoài bọn dân chài chỉ còn lại ở dưới bóng rợp cái mảng kê trên nạng, hai đứa bé mà tôi trông thấy ngay từ lúc mới ra bãi biển. Một thằng ngồi bó gối, một thằng nằm sấp, cả hai cùng chăm chú nhìn vào một khoảng đất ở trước mặt, và cùng có vẻ suy nghĩ, tìm tòi.
Tôi lại gần thì đó hai vị tiểu tiên đương ham mải một ván cờ « hoa thị »; những quân cờ là những mẩu que nứa cắm xuống cát. Tôi đứng nhìn qua một lượt, xem xét thế trận của hai bên quân que để nguyên và quân que bẻ gẫy, rồi tôi mỉm cười tuyên bố: « Hòa thôi! ». Cả hai đứa trẻ cùng ngửng lên. Một đứa đăm đăm nhìn tôi và chào: « Thầy! Năm nay thầy ra nghỉ mát sớm! ». Tôi nghĩ thầm: « Nghĩa là năm ngoái nó đã gặp mình ». Tôi hỏi:
– Thế nào? Hòa thôi chứ, em? Hai bên bằng quân mà tướng lại cùng bị vây…
Thằng kia cười đáp:
– Vâng, hòa. Hòa thôi, Tuất ạ. Đánh ván khác nhé?
Tuất lạnh lùng:
– Thôi, chả đánh nữa! Đánh với mày buồn chết, ván nào cũng hòa.
Rồi nó đứng dậy đi bên cạnh tôi.
– Thưa thầy, thầy ở Hà Nội?
– ừ, sao em biết?
Tôi mỉm cười đáp. Tuất rất tự nhiên trả lời:
– Thưa thầy, con tưởng những người Bắc vào đây toàn là người Hà Nội cả.
– Vậy em đã biết Hà Nội chưa?
Tôi tưởng hỏi đùa, và tôi ngạc nhiên khi nghe Tuất đáp lại:
– Thưa thầy đã.
Nó ngước nhìn tôi, nhìn rất lâu như để tìm cái hình ảnh Hà Nội in trong đôi con ngươi của một người Hà Nội mới đem vào. Lần đầu tôi nhận thấy cặp mắt sáng và trong, cặp mắt hơi xếch lên thái dương nhưng không vì thế mà dữ tợn, không vì thế mà mất vẻ ngây thơ dịu dàng, nhân hậu. Cặp mắt của anh đồ Thanh, của anh « đồ Râu » (vì anh có bộ râu rất đen và đẹp), tác giả hai câu thơ trên kia. Cặp mắt của một người chở phà mà tôi đã gặp năm kia ở một bến đò qua sông Mã trên một con đường hẻo lánh. Hôm ấy ngắm người trai trẻ vạm vỡ tuấn tú và trang nghiêm, không hiểu sao tôi nghĩ ngay tới chú đình trưởng Lưu Bang, nhưng hôm nay nhìn thằng bé xinh xẻo với cũng cặp mắt trong sáng và hơi xếch ấy, tôi lại tưởng tới vua Lê Lợi, thời còn hàn vi, ẩn náu ở một bến đò nào đó bên dòng sông Mã nước chảy phăng phăng ra biển khơi.
Sau một phút im lặng đi cạnh tôi, Tuất hỏi:
– Thầy có biết phố nhà Thương không?
Tôi hỏi lại:
– Có phải phố Phủ Doãn không?
Tuất nhìn tôi, ngẫm nghĩ:
– Dạ, có lẽ phải đó. Con không sao nhớ được cái tên ấy, con chỉ gọi là phố nhà Thương, ở ngay sau nhà thương, rẽ ra phố Tràng Tiền, thẳng lên phố Bônbe có hiệu Gôđa. Con đã vào hiệu Gôđa rồi, to lắm, đẹp lắm…
Tôi mỉm cười ngắt lời nó:
– Vậy ra em đã ở Hà Nội?
– Dạ.
Rồi Tuất kể cho tôi nghe tất cả câu chuyện đời nó.
Mẹ Tuất chết rồi. Cả cậu Tuất nữa. Tôi không rõ tại sao cậu Tuất lại có một địa vị quan trọng trong đời Tuất và trong câu chuyện của Tuất. Tôi cũng không hỏi kỹ để biết duyên cớ. Trước tôi vẫn tưởng « cậu » là người sinh ra thằng bé, tuy tôi cũng hơi lạ một điều về cách xưng hô của nó: mẹ với cậu. Nhưng không, không phải cậu là cha Tuất, cậu chính là em mẹ Tuất, Tuất nói thêm cho tôi biết thế. « Còn cha Tuất? » Câu hỏi ấy chỉ chực thốt ra, nhưng vẫn bị giữ lại. Tôi như sợ làm buồn hoặc phật lòng thằng bé, vì một thiên tiểu thuyết gia đình vừa phác ra trong trí tưởng tượng của tôi. Tôi thấy thằng bé mồ côi mẹ, rồi cha nó lấy vợ kế, một người vợ đảm đang và cay nghiệt, và nhiều lời như một số đàn bà tôi thường gặp ở Sầm Sơn. Nhưng trong mấy năm sau khi mất mẹ, thằng bé còn được cậu bênh vực, che chở, chống cự lại người mẹ kế dữ tợn. Rồi người cậu cũng mất. Từ đó thằng bé bỗng thấy mình trơ trọi trong cái gia đình không yêu mến. Tôi cúi nhìn Tuất như để đọc thiên tiểu thuyết của tôi in trong gương mắt ngây thơ, nhưng thằng bé vẫn vui vẻ kể tiếp câu chuyện của nó.
Nó đến ở với bà An Lợi. Bà ta yêu nó lắm. Còn ai không yêu được một thằng bé con kháu khỉnh như nó? Trừ có là dì ghẻ nó. Thế rồi gần hết hè bà ta hỏi nó có muốn theo ra Hà Nội không.
Ra Hà Nội? Tuất chưa từng bao giờ nghĩ tới. Nhưng bắt đầu từ hôm ấy nó nghĩ tới. Nó không thể tưởng tượng được Hà Nội như thế nào. Song nó chắc ở đó có nhiều, rất nhiều nhà gạch vừa to vừa cao, và rất nhiều ô tô vừa đẹp vừa nhanh. Còn người ở Hà Nội thì chắc như tất cả những « thầy », những « cô » vào Sầm Sơn nghỉ mát. Hình ảnh cái thành phố lớn lao, đẹp đẽ ngày đêm hiện ra trong khối óc mười lăm tuổi, hiện ra lờ mờ, xa xăm như hình ảnh thiên đường và địa ngục hiện ra trong óc một người đàn bà tin đạo. Thực ra nó yêu Hà Nội như người ta yêu thiên đường, nhưng nó cũng sợ Hà Nội như người ta sợ địa ngục.
Một hôm nó bảo bà An Lợi:
– Thưa bà, chắc Hà Nội đông người lắm?
Bà kia mỉm cười:
– Đông lắm. Đông như một tổ kiến vậy.
– Thưa bà, nhà cao dễ đến chục từng?
– Không, chỉ hai, ba từng thôi, nhưng mà to và nhiều lắm.
– Còn xe ô tô?
– ồ! Xe ô tô ư! Đường đi như mắc cửi.
Thằng bé nghĩ ngợi, lo lắng. Về Hà Nội, nó làm thế nào để tránh được ô tô, để khỏi bị đè chết?
Nhưng hôm bà An Lợi sửa soạn ra về nó bỗng quả quyết bằng lòng đi theo hầu. Giọng thằng bé đến đây cất cao lên:
– Thưa thầy quả thực Hà Nội đẹp. Mà có nhiều cái đẹp quá. Hôm mới ra, mỗi lần bà chủ sai con đi đâu có việc gì, lúc về thể nào con cũng bị cốp, vì con đi lâu quá, gặp cái gì con cũng đứng lại xem. Gặp người nào đẹp, ăn mặc hay hay con cũng đứng lại ngắm nghía. Có người thấy con nhìn cũng nhìn lại con, rồi bật lên cười to, làm con xấu hổ cắm đầu chạy. Một hôm bà chủ sai con mua một lạng cà phê ở hiệu Gô đa, con đi mất hết cả buổi sáng. Về, bà con tát cho hai cái nên thân, nhưng mà con cũng hả. Trời ơi, đẹp quá thầy ạ… Thế rồi con cũng quen dần đi. Về sau, con không lạ nữa, bà chủ sai con đi đâu con đi một mạch, chẳng nhìn trước, nhìn sau, bên phải, bên trái nữa.
Thấy Tuất ngừng lại, tôi hỏi:
– Nhưng nay sao em không ở với bà An Lợi?
Thằng bé buồn rầu kể cho tôi nghe đoạn cuối câu chuyện:
Bà An Lợi yêu nó lắm, vì nó ngoan ngoãn nết na. Nhưng không hiểu sao một hôm nó chợt thấy nhớ nhà, nhớ núi Sầm Sơn, nhớ biển Sầm Sơn, nhớ bãi cát Sầm Sơn, nhớ lũ trẻ nô đùa và nhớ cả thầy đồ dạy chữ Hán. Có lẽ lòng háo hức thích Hà Nội đã nhạt. Cái thành phố tráng lệ không còn sức hấp dẫn đối với khối óc ham muốn, không còn đủ mãnh lực để đè át cái tình nhớ quê hương vẫn âm thầm, ẩn náu trong lòng thằng bé con vùng biển.
– Thưa thầy, Tuất kể, suốt một tháng, đêm nào con cũng tưởng đương ở nhà, đương chạy nhảy hay đánh cờ ở ngoài bãi với bạn bè. Bên tai con, tiếng sóng biển réo ầm ầm. Nhưng giật mình tỉnh dậy, con vẫn thấy con nằm ở trên gác nhà bà chủ con. ở dưới đường, đèn điện sáng như ban ngày mà xe ô tô thì chạy rầm rập qua trước cổng nhà thương. Con bưng mặt ngồi khóc, khóc mãi cho tới lúc mệt quá lại ngủ thiếp đi. Mấy hôm đầu, con còn khóc to, nhưng bà chủ con mắng và đánh nữa, nên về sau con chỉ khóc thầm nhét vạt áo vào miệng cho bà chủ khỏi nghe thấy tiếng. Mà người con mỗi ngày một gầy đi. Con gầy quá cơ, thầy ạ. Thầy tính hằng hai, ba ngày liền ăn mỗi bữa một miếng cơm, có khi nhịn đói và chỉ uống nước lã thì làm gì mà không gầy không sút đi. Bà chủ con thương con lắm, cứ hỏi con tại sao con hay buồn hay khóc. Trước con còn giấu quanh; về sau con liền thú thực với bà chủ con rằng con nhớ nhà. Bà chủ con dỗ con: « Rồi lâu quên đi ». Nhưng con không quên, thầy ạ. Bà chủ con lại mắng con; « Đã lớn rồi mà còn nhớ nhà! »
Đến đây, tôi ngắt lời Tuất và hỏi:
– Nhưng em nhớ ai? Em đã bảo mẹ em chết rồi, và cả cậu em cũng chết rồi kia mà.
– Thưa thầy, con nhớ nhà. Nhớ biển, nhớ núi, nhớ… nhớ hết cả mọi thứ. Với lại chính vì má con với cậu con nữa. Má con cứ luôn luôn bảo con; « Tuất ơi! Về đi thôi, về đi thôi. ở đây làm gì, đây không phải nhà mày! » Cả cậu con nữa, cậu con cứ đuổi con « ồi ồi ».
– Mẹ em? Cậu em? Tưởng mẹ em và cậu em đều mất rồi kia mà?
– Dạ, má con và cậu con chết rồi. Con nói con nằm chiêm bao đấy chứ. Một tuần lễ trước hôm được về nhà, đêm nào con cũng nằm chiêm bao thấy má con và cậu con hiện lên đuổi con về. Hôm sau cùng má con gắt và mắng con: « Sao tao dạy bảo mày không nghe lời tao, hở Tuất? » Con lên kêu van với bà chủ con. Bà chủ con thấy con gầy rạc, mặt mũi hốc hác, xanh xao thì sợ con chết nên bằng lòng cho phép con về. Nhưng bảo con hãy chờ vài hôm để bà tìm người đưa con vào Sầm Sơn. Con nói liều: « Thưa bà con nhớ đường, bà cứ để con vào một mình ». Thế là bà chủ trả tiền công con, lại cho con hai đồng tiền tầu. Chiều hôm ấy con về tới Thanh Hóa, rồi đi bộ vào Sầm Sơn liền. Mãi khuya con mới về tới nhà. Nhân đêm hôm ấy có trăng, con đi thẳng ra bãi biển, và con ngồi xuống cát, con khóc, khóc mãi…
Dân chài lưới bải biển Sầm Sơn
Tuất ngừng hẳn, yên lặng đi bên cạnh tôi. Bỗng một lát sau nó vơ vẩn nhìn lên đường hỏi:
– Thưa thầy, nghe nói tiền tầu nay tăng giá. Năm ngoái con lấy vé mất có một đồng mười ba xu.
Tôi lơ đãng trả lời thằng bé:
– Bây giờ vẫn thế.
Và tôi nghĩ thầm:
« Hay nó còn nhớ tiếc Hà Nội và nghĩ đến món tiền mua vé xe lửa đấy chăng? »
Một buổi sáng Chủ Nhựt, còn đang say ngủ trên gác, tôi nghe tiếng mẹ tôi gọi. Giật mình tỉnh giấc, mẹ tôi đang đứng ở đầu giường. Bà nhỏ giọng gọi tôi dậy :
– Dậy con, dậy đưa mẹ đi chùa.
Vẫn còn ngái ngủ, tôi hỏi lại mẹ tôi :
– Sao mẹ muốn đi chùa bữa nay ?
Bà ngọt ngào trả lời :
– Ừ ! Thì mẹ muốn đi chùa bữa nay. Có đi được không thì cho mẹ biết.
Nói xong, bà vội vả bước xuống cầu thang. Trái với thường lệ, tôi không cảm thấy hăng hái chút nào. Tôi còn muốn ngủ nữa vì tối hôm qua đi chơi về quá muộn. Chuyện nầy cũng thường xảy ra. Tàu về bến vào ngày cuối tuần, tôi ít khi có mặt tại nhà trước 12 giờ đêm. Tuy vậy, sợ mẹ buồn, tôi tốc mền ngồi dậy, đi đánh răng và sửa soạn, thay quần áo để đưa mẹ đi chùa.
Tiếng mẹ tôi từ nhà dưới vọng lên :
– Mẹ có mua dĩa bánh cuốn chả lụa để trên bàn. Con ăn sáng xong rồi mới đi.
Tuy tôi đã hai mươi mấy tuổi đầu, có nghề nghiệp hẳn hòi, mẹ tôi vẫn coi tôi như còn bé bỏng ngày nào. Mẹ tôi lo cho tôi đủ mọi chuyện. Trong gia đình, tôi sợ cha tôi nhiều hơn mẹ, ông rất nghiêm khắc. Ông thuộc lớp người bảo thủ, trật tự, trên dưới ngăn nắp. Nhưng tôi thương mẹ nhiều thật nhiều. Thương mẹ là thương mẹ, không có tình thương nào so sánh bằng và không có lời lẽ nào tả hết được. Tình thương đối mẹ thật tự nhiên và thật cần thiết, như đói thì ăn, như khát thì uống. Thương mẹ không cần viện dẫn bất cứ lý do nào. Tình thương đối với mẹ thật thiêng liêng và cao quí, một ân huệ, một hồng ân mà Thượng Đế đã ban cho loài người, cho kẻ làm con.
Sau khi ăn sáng và sửa soạn xong, tôi báo cho mẹ tôi biết, rồi hai mẹ con lên đường. Trên đường đi tôi không khỏi thắc mắc: « Sao hôm nay mẹ lại muốn tôi đi chùa ? « , vì thường thì bà hay đi chùa với chị dâu tôi. Tuy thắc mắc nhưng tôi cũng không muốn hỏi làm gì. Mẹ muốn tôi đi thì tôi cứ đi cho mẹ vui lòng.
Vân Sơn Tự, một ngôi chùa nhỏ, tọa lạc trên một khu đất khá rộng. Xung quanh chùa có trồng một ít cây ăn trái. Đặc biệt bên hông chùa có hai cây vú sữa, cây to, cành lá xum xuê, che đầy bóng mát. Thời gian bấy giờ là vào giữa tháng Chạp âm lịch. Không khí Tết nhứt thật rộn ràng. Các phật tử lần lượt tới chùa, kẻ đem trái cây, người đem bông hoa, nhang đèn cúng Phật. Tôi cứ chú ý đến hai cây vú sữa. Cây vú sữa trắng, cho nhiều trái đã chín mùi, một chút vàng vàng, một chút tim tím, bóng lưởng, trông thật ngon lành hấp dẫn. Ở cuối vườn, nhiều bụi trúc vàng được trồng nối tiếp nhau thành một hàng dài rất trật tự. Những thân trúc nhỏ mong manh, ngả nghiêng theo từng cơn gió thổi. Cành lá rung rinh, xào xạc nghe như có tiếng thì thầm to nhỏ. Tôi cũng bắt gặp đó đây nhiều chậu bông cúc vàng, vạn thọ và mồng gà được vun trồng thật vén khéo. Một khoảnh đất nhỏ trồng toàn bông huệ. Một mùi hương thoang thoảng thoáng qua. Tôi hít lấy không khí trong lành buổi sáng và cảm thấy thật dễ chịu và nhìn quanh, chiêm ngưỡng cảnh sắc vui tươi nhưng không kém phần tôn nghiêm, tịch mịch của nhà chùa, nơi được mọi người sùng bái.
Đang miên man quan sát sinh hoạt nhà chùa trong không khí chuẩn bị đón mừng Tết Nguyên Đán, tiếng mẹ gọi đưa tôi về với hiện tại :
– Con à, đi theo mẹ !
Tôi bước theo mẹ tôi đến một nhóm người đang quây quần trò chuyện thân mật. Mẹ tôi giới thiệu với một người đàn bà có lẽ lớn tuổi hơn mẹ tôi đôi chút :
– Chị Tám ! Đây là thằng con trai, nó tên Phước.
Tôi xoay người qua phía người đàn bà và lễ phép cuối đầu chào :
– Dạ ! Cháu kính chào bác.
Bà Tám nhìn tôi mỉm cười rồi ngọt ngào nói :
– Thằng coi được quá hé !
Nói xong bà hỏi tiếp :
– Cháu có thường đi chùa không ?
Tôi thành thật trả lời bà Tám :
– Dạ ! Ít khi lắm. Hôm nay mẹ cháu muốn cháu đi theo mẹ.
Mẹ tôi định phân trần thì bà Tám lại tiếp tục :
– Để tôi gọi cháu Thúy đến chào chị.
Rồi bà cất giọng :
– Thúy à ! Lại chào bác Tư và anh đây con.
Một cô gái tách rời nhóm bạn bè, tiến về phía chúng tôi. Nàng mặc bộ đồ trắng, tà áo nhè nhẹ bay theo từng bước đi. Trong khung cảnh trang nghiêm của ngôi chùa, nàng hiện ra thật rực rỡ như một bông hoa đẹp đầy hương sắc. Chiếc áo vừa vặn, bó sát người, nàng có thân hình tuyệt đẹp. Gương mặt đôn hậu, đôi mắt sáng long lanh, nước da trắng mịn màng. Nàng có đầy đủ yếu tố của một người con gái được trời cho đẹp. Tôi nhủ thầm : chắc có nhiều « cây si » đang trồng ở đây và đang chết lên, chết xuống ? Có thể rồi đây mình cũng nằm trong nhóm người nầy !
Cô gái đến nơi, cúi đầu lễ phép chào mẹ tôi :
– Dạ cháu kính chào bác Tư.
Thấy tôi đứng bên cạnh, nàng chỉ nhìn tôi thoáng qua mà không nói chi. Bà Tám nhắc khéo :
– Anh Phước đây là con bác Tư, con chào anh Phước đi con.
Cô gái nhìn tôi rồi cất lời thật ngắn ngủi :
– Chào anh.
Tôi cũng lịch sự chào lại :
– Chào cô.
Cũng từ đó, chỉ có bà Tám và mẹ tôi nói chuyện với nhau. Chuyện phật sự, chuyện sinh hoạt đời sống hàng ngày. Tôi nghe mẹ tôi phàn nàn : « Gạo bữa nay lên giá. Thịt cá cũng lên giá. Cái gì cũng lên giá hết chị ơi ! Thét rồi đi chợ không biết mua gì cho vừa với túi tiền của mình ». Rồi biết bao nhiêu chuyện khác nữa. Hai bà rất tương đắc trao đổi với nhau. Tôi và cô gái chỉ đứng nghe mà không có ý kiến gì. Một lát sau, bà Tám lại rủ mẹ tôi :
– Thôi ! Tôi và chị vào chùa lễ Phật. Hai đứa nhỏ muốn vào thì vào. Không vào thì ở ngoài nói chuyện làm quen với nhau.
Nói xong, hai bà bỏ đi vào Chánh Điện. Tôi không tránh được một chút ngại ngùng. Tự nhiên đứng đây với một người con gái chưa hề quen biết. Bây giờ tôi đoán được lý do tại sao mẹ tôi lại muốn tôi đi chùa hôm nay. Phần tôi là vậy, nhìn cô gái còn thấy thảm não hơn, nàng không dấu được vẽ thẹn thùng hiện lên trên gương mặt khả ái. Tôi tin là nàng cũng đoán được ý định của bà Tám và mẹ tôi. Tôi thấy rõ sự luống cuống của nàng. Nàng im lặng, tay vân vê tà áo, mắt nhìn bên nầy, bên kia, tuồng như không có tôi trước mặt. Để đánh tan sự bở ngở nầy, tôi mạnh miệng hỏi cô gái :
– Cô Thúy vẫn thường đi chùa chứ ?
Giống như câu hỏi mà bà Tám đã hỏi tôi lúc nãy. Nàng nhìn tôi với vẽ đầy ngạc nhiên. Nàng không trả lời tôi mà hỏi lại :
– Sao anh biết tên em là Thúy ?
Tôi làm ra vẽ bí mật và trả lời nàng :
– Biết Thúy lâu rồi ! Tại Thúy không biết đó thôi !
Cô gái có vẽ lấy lại được sự bình tỉnh đôi chút. Hơi mỉm cười, nàng hỏi tôi :
– Anh Phước nói thật đi, sao anh biết được tên em là Thúy ?
Không nở để nàng thắc mắc lâu hơn nữa, tôi thú thật với nàng :
– Nói chơi chớ ! Tôi biết được tên cô Thúy là do bà Tám vừa mới gọi.
Nàng bật cười ròn rã rồi nhẹ nhàng trách tôi :
– Anh nầy thiệt ! Làm người ta hết hồn !
Tôi mau miệng xin lỗi nàng :
– Tôi xin lỗi cô Thúy. Tôi chỉ muốn đùa vui một chút thôi !
Nàng dường như chẳng để ý đến lời xin lỗi của tôi. Nhìn tôi, nàng nói tiếp :
– Thúy thường đi chùa với bà nội nhưng chưa được thấy anh Phước bao giờ !
Với chi tiết nầy, tôi biết thêm được một điều : Thúy là cháu nội của bà Tám, tuy bà Tám không lớn tuổi hơn mẹ tôi bao nhiêu. Hẳn ba mẹ của Thúy phải còn trẻ lắm. Tôi nghĩ vậy và trả lời câu hỏi của Thúy :
– Cô Thúy nói đúng. Đây là lần đầu tiên tôi đi chùa với mẹ tôi.
Thúy suy nghĩ một chút rồi tỏ ý thắc mắc :
– Vậy anh là con của bà Tư ?
Tôi bật cười với câu hỏi nầy và vui vẻ trả lời nàng :
– Thì chắc chắn như vậy rồi. Tôi không tin tôi là con của ai khác ngoài mẹ tôi !
Thúy tỏ vẽ không thỏa mãn với câu trả lời nầy. Nàng cũng không để ý đến câu trả lời có một chút pha trò của tôi. Nàng hỏi tiếp :
– Sao bà Tư không nhỏ tuổi hơn bà nội của Thúy bao nhiêu mà có con còn trẻ quá vậy ?
Tôi giải thích cho Thúy biết :
– Chuyện cũng dễ hiểu thôi ! Ba mẹ tôi có chín người con. Người chị thứ Hai của tôi, nếu còn sống, năm nay cũng được 41 tuổi rồi. Chị được sinh ra đời trước tôi 18 năm, được bú sữa mẹ trước tôi 18 năm và tôi là đứa con thứ ‘bét ».
– Thúy xin lỗi anh Phước vì đã quá tò mò. Như vậy, Thúy phải gọi anh Phước bằng chú !
Tôi thân mật trả lời câu hỏi mà nàng cho là tò mò :
– Không biết thì hỏi có sao đâu. Vã lại cũng có nhiều người nghĩ như vậy !
Lợi dụng dịp nầy để biết được ý nghĩ thật của nàng, tôi hỏi tiếp :
– Cô Thúy thấy tôi còn trẻ quá sao ?
Nàng trả lời không do dự :
– Chú Phước hơn Thúy vài ba tuổi là cùng.
Nghe nàng gọi thế, một ý nghĩ khôi hài chợt đến, tôi nhìn Thúy rồi bông đùa :
– Xin đừng ! Xin đừng gọi tôi bằng chú !
Thúy bật cười thành tiếng rồi vui vẻ hỏi tiếp :
– Anh Phước chắc đọc nhiều tiểu thuyết của Chu Tử ?
Tôi chưa kịp trả lời, nàng đã hỏi sang câu khác :
– Anh Phước không thích đi chùa sao ?
Tôi thành thật trả lời nàng :
– Gia đình tôi, chỉ có mẹ tôi và chị dâu tôi thường đi chùa. Tuy nhiên chẳng một ai thật sự qui y để trở thành một phật tử thuần túy, có pháp danh hẳn hòi. Những người còn lại trong gia đình chỉ biết mình theo đạo ông bà, thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt mỗi tháng, mẹ tôi thường cho gia đình ăn chay hai ngày, ngày Rằm và ngày Mồng Một âm lịch. Như vậy, có thể kể tôi là người Đạo Phật được không ? Tôi hỏi lại Thúy.
Có vẽ hơi thẹn thùa, nàng trả lời :
– Dạ Thúy cũng không biết nữa. Để Thúy hỏi lại bà Nội xem sao.
Qua những đối đáp nãy giờ, sự ngại ngùng lúng túng giữa chúng tôi như bớt dần. Không tiện hỏi thêm gì nữa, tôi dừng ở đây và định hướng câu chuyện về một đề tài khác. Chưa kịp thực hiện ý định nầy, Thúy đã hỏi tôi :
– Anh Phước vẫn còn đi học ?
Không vội trả lời câu hỏi nầy, tôi nhìn Thúy và xin phép được gọi Thúy bằng tên để tỏ ra mình là người lịch sự, tư cách. Câu trả lời của Thúy làm tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn.
– Vậy chớ nãy giờ anh Phước gọi Thúy là gì ?
Tôi đánh trống lảng bằng cách trả lời câu hỏi trước của nàng :
– Anh học trường Hàng Hải đã tốt nghiệp và đi làm được hai năm.
Không chủ định, tự nhiên tôi lại xưng anh với nàng và vẫn thấy nàng rất tự nhiên. Nghe tôi nói về trường Hàng Hải, nàng vui vẻ cho tôi biết :
– Thúy có người anh bà con học ở đây. Anh tên Hòa, Lê Bá Hòa, anh Phước có biết không ?
Tôi lẹ miệng đáp lời nàng :
– Anh biết anh Hòa chứ ! Anh Hòa người to con, nước da ngâm ngâm, gân guốc như một võ sĩ nhà nghề. Anh Hòa là sinh viên thuộc khóa đàn anh. Điểm để nhớ ở anh Hòa là anh có đôi chân mày thật rậm.
Nghe tôi nói biết anh Hòa, nàng có vẻ vui lắm.
Tôi nhớ về anh Hòa, ngoài vóc dáng « đô » con, anh còn là một người đàn guitare rất giỏi. Một đôi khi, anh đem đàn vào lớp, vào giờ nghỉ, anh đàn cho anh em nghe. Tôi thích nghe anh đàn bản « Le Beau Danube bleu » của Johann Strauss. Tôi không biết hiện giờ anh đang ở đâu và làm gì. Tôi không thấy anh có mặt trên các thương thuyền đang hoạt động, nhưng tôi không muốn hỏi Thúy.
Câu chuyện giữa chúng tôi đang tiếp nối thì giờ cầu kinh chấm dứt. Bà Tám, mẹ tôi và quí vị phật tử lần lượt rời khỏi Chánh Điện. Không ai bảo ai, Thúy và tôi tự động tiến về phía bà Tám và mẹ tôi đang đi ra. Khi đến gần, bà Tám thân mật nói với tôi :
– Khi nào rảnh, cháu đến nhà chơi. Nhà ở đường Thành Thái, ngang tiệm uốn tóc Thanh Vân, dễ tìm lắm ! Trước nhà có trồng nhiều cây bông giấy. Nếu cần, cháu cứ hỏi nhà bà Tám thì ai cũng biết.
Tôi không biết trả lời sao cho tiện, cứ dạ lia dạ lịa. Tôi kín đáo nhìn Thúy xem nàng phản ứng ra sao. Nàng vẫn tự nhiên, xem như không có gì quan trọng. Mẹ tôi xin kiếu từ bà Tám và hẹn gặp lại lần tới. Tôi chào bà Tám và Thúy. Thúy chào mẹ tôi và tôi. Và chúng tôi ra về.
Trên đường về, mẹ tôi hỏi tôi :
– Sao ? Con thấy « con nhỏ » thế nào ?
Tôi trả lời mẹ :
– Dạ ! Con có thấy gì đâu mẹ !
Mẹ tôi bực mình :
– Thôi ! Đừng có làm bộ ngây thơ ! Thì con nhỏ có đẹp không ? Có muốn cưới làm vợ không ?
Tôi chưa kịp trả lời, mẹ tôi nói tiếp :
– Theo mẹ, như vậy là đẹp quá rồi ! Mẹ đi chùa gặp con nhỏ nhiều lần. Con nhỏ thật lễ phép, ăn nói nhỏ nhẹ. Tuy còn đi học, việc nhà bếp núc đều giỏi giắn. Thời buổi này, kiếm được người như vậy là khó lắm. Cô ấy còn một đứa em gái nữa, nghe bà Tám nói học hành cũng giỏi lắm ! Con thích có vợ làm cô giáo, mẹ tìm được chổ nầy cho con ! Cô ấy đang học Sư Phạm, một hai năm nữa thì ra trường. Dĩ nhiên là con có thì giờ để tìm hiểu thêm. Nên đến nhà chơi thường để làm quen. Còn việc tuổi tác, xưng hô không quan trọng. Mẹ biết, có một gia đình thuộc thành phần khá giả, đàng hoàng, trí thức, hai anh em ruột, một người lấy người cô, một người lấy người cháu vì hai cô cháu tuổi xuýt xoát nhau. Cả hai gia đình đều ở cùng xóm. Họ vẫn sống hạnh phúc, sanh con đẻ cháu đầy đàn. Con lung bung quá, làm ba mẹ không an lòng !
Tôi im lặng nghe mẹ nói mà không có ý kiến chi nhưng tự hứa với mình : « Nếu có thể, nên làm cho mẹ vui ! »
Tàu Nhật Lệ trên sông Hàn – Đà Nẵng
Những tuần lễ sau đó, vì nghề nghiệp, tôi theo tàu đi đi, về về. Nghề nầy rất thích hợp với người trẻ tuổi như tôi. Được đi nhiều, biết nhiều, được mở rộng tầm mắt. Được nhìn thấy cảnh đẹp, khi mơ màng, khi hùng vĩ của non sông đất nước. Biết được một số khác biệt về sinh hoạt tập quán của người dân, từng vùng, từng địa phương. Lần đầu tiên đến Qui Nhơn, tôi thấy người dân sống về nghề đánh cá ở đây. Họ dùng những chiếc thúng rất lớn, đường kính chừng hai thước để câu cá hoặc để di chuyển qua lại trên mặt biển. Họ chèo thoăn thoắt nhẹ nhàng. Chiếc thúng lại tròn, rất dễ điều khiển, bẻ trái, quẹo phải. Muốn đổi hướng từ tới qua lui, người điều khiển chỉ cần xây mình lại. Tôi thấy lạ lắm ! Ở thôn quê miền Nam, sông ngòi chằn chịt, chiếc xuồng « ba lá » là phương tiện di chuyển phổ thông nhứt cho mọi người. Cũng ở Qui Nhơn, có lần tàu ghé đây, buổi sáng tôi thức dậy thật sớm, một mình thả bộ dọc theo bờ biển, khu vực gần bến tàu. Nơi đây là khu chợ cá lộ thiên.
Thuyền thúng ở Miền Trung
Tờ mờ sáng, đoàn tàu đánh cá đã về bến. Quang cảnh thật ồn ào náo nhiệt, người mua kẻ bán. Đa số bạn hàng đến đây để mua sỉ rồi về bán lại. Chuyện đáng ghi lại ở đây, tôi thấy hàng chục con cá đuối khổng lồ, bỏ nằm ngổn ngang đó đây trên bãi cát. Có con lớn chừng ba bốn thước đường kính. Tôi chưa từng thấy cá đuối lớn như vậy ở quê tôi hay ở Sài Gòn. Tôi cho đây là một khám phá mới mẻ nhưng thật sự chẳng có gì lạ đối với người dân miền Trung, nhất là dân vùng ven biển.
Nghề nào cũng có cái sướng, cái cực. Vui khi trời êm biển lặng, nhọc nhằn khi bảo tố phong ba. Con tàu quay cuồng, thủy thủ say sóng. Trong văn thơ, người ta nói : « Tình chỉ đẹp khi còn dang dở », người thủy thủ thực tế hơn : » Đời chỉ đẹp khi biển lặng trời êm. Một điểm đáng phàn nàn : Với nghề nầy, người ta không được quyền nghĩ đến ngày vui cuối tuần hay ngày lễ lộc. Thậm chí đến ngày Tết Nguyên Đán, có khi tàu lại đang bềnh bồng giữa biển khơi hay ở một bến bờ xa lạ nào đó.
Chợ cá Qui Nhơn 1969
Tết năm nay, tàu cập bến kho 5 lúc 8 giờ 30 sáng, đúng vào ngày 30 Tết. Mọi người mừng vui hết lớn ! Thế là được ăn Tết ở Sài Gòn ! Ngoại trừ những nhiệm vụ quan trọng, những ai không trực gác được phép về sớm. Tắm rửa xong, quần áo tươm tất, tôi ra khỏi thương cảng, gọi tắc xi, vọt nhanh về nhà. Tôi nghĩ đến mẹ tôi, bà sẽ vui lắm khi tôi có mặt ở nhà ba ngày đầu năm.
Trên đường về, tôi chợt nghĩ đến Thúy và bổng có ý định ghé thăm nàng một cách bất ngờ. Nhưng tôi lại đắn đo : « Như vậy có tiện lắm không vì không báo trước ? « . Tôi tự bào chửa cho mình : » Cứ đến đại. Nếu nàng và gia đình tỏ ý không thích, tôi sẽ biết được mức độ cảm tình của nàng và của gia đình nàng đối với tôi ra sao » . Vả lại tôi đã được bà Tám mời một cách rất niềm nở. Tôi mạnh dạn thực hiện ý định nầy. Một ý định thật bất chợt, không định trước.
Đây rồi, tiệm uốn tóc Thanh Vân, bên kia đường, một căn nhà gạch hai từng rất khang trang. Phía trong hàng rào sắt có trồng nhiều cây bông giấy. Tôi bảo người tài xế cho xe vòng lại, đậu trước căn nhà nầy và chờ tôi.
Sau khi xe đậu xong, tôi xuống xe, thẳng bước đến cổng, không quên mang theo một hộp kẹo mè xửng. Không thấy ai ngoài sân, tuy cửa nhà trong đã mở sẳn. Tôi bấm chuông. Một cô gái chừng mười sáu, mười bảy tuổi, từ trong nhà bước ra. Tôi đoán, chắc đây là em gái của Thúy.
Cô gái hỏi tôi :
– Dạ ! Ông muốn tìm ai ?
Tôi trả lời nàng :
– Tôi tên Phước, tôi đến thăm bà Tám.
– Ông chờ chút, để tôi báo cho bà nội tôi biết.
Cô gái vừa nói vừa bỏ đi. Tôi nghe văng vẳng tiếng nàng gọi :
– Bà nội ơi ! Có người muốn gặp.
Tôi cũng nghe tiếng bà Tám trả lời :
– Ừ ! Để bà ra ngay !
Vài phút sau, bà Tám đi ra. Nhìn thấy tôi, bà Tám la lên mừng rỡ :
– Ồ ! Cháu Phước hả ? Vô đây ! Vô đây ! Tàu mới về phải không ? Gặp mẹ cháu ở chùa hôm trước. Mẹ cháu nói : « Có thể cháu sẽ về kịp trong dịp Tết nầy ! » Thôi vui quá hé !
Bà Tám nói một hơi. Bà có vẽ vui lắm. Tôi cũng vui lây với cái vui của bà. Tôi trao và biếu cho bà Tám hộp kẹo mè xửng, nói là tôi mua ở Đà Nẵng. Bà cám ơn tôi và phàn nàn : »Đến chơi được rồi, quà cáp làm chi ! ».
Bà Tám cho tôi biết ba mẹ Thúy đi làm sắp về, còn Thúy thì đi lại chợ chiều gần đây để mua cho bà một ít đồ lặt vặt. Đang nói chuyện với bà Tám, tôi nghe tiếng xe gắn máy ngừng lại trước sân nhà. Bà Tám vội nói :
– Ba mẹ của Thúy về đó !
Bây giờ tôi mới cảm thấy thật ngại ngùng ! Tôi luống cuống đứng dậy. Bà Tám ra sân nói gì đó với ba mẹ Thúy. Khi ba mẹ Thúy bước vào phòng khách, bà Tám giới thiệu tôi với hai người. Ông bà khoảng trên năm mươi, cả hai đều đẹp người. Ông đến bắt tay tôi và mời tôi ngồi. Khi biết tôi hành nghề Hàng Hải, ông hỏi tôi về việc tàu bè, thời tiết và sinh hoạt của người dân miền Trung, chuyện nầy, chuyện kia. Ông không đá động gì đến chuyện giữa tôi và Thúy, theo tôi nghĩ ông đã biết.
Một lúc sau, Thúy về, trên tay cầm một cái giỏ đồ ăn. Khi bước vào nhà, nhìn thấy tôi, nàng tỏ vẻ ngạc nhiên. Mọi người có mặt trong phòng khách đều chăm chú nhìn nàng. Điều nầy làm cho nàng cảm thấy lúng túng. Vẽ thẹn thùng hiện rõ trên gương mặt phúc hậu, dễ thương.
Mẹ Thúy lấy giỏ đồ ăn trên tay Thúy, rồi mọi người lặng lẽ rời khỏi phòng. Phòng khách chỉ còn lại tôi và Thúy. Tôi cảm thấy ngượng ngùng, khác hẳn với bản tánh dạn dĩ cố hữu thường lệ. Tôi không nghĩ đến tầm mức quan trọng của sự việc hôm nay. Sự có mặt của tôi hiện giờ. Đây không chỉ là chuyện trai gái tìm quen một cách thông thường, trong lớp học, trong những buổi tiệc tùng, đình đám hay trong những dịp nào đó.
Sự quen biết giữa mẹ tôi và bà Tám. Sự tiếp đón có vẻ thân mật của gia đình Thúy. Với dáng dấp e lệ thẹn thùa pha lẫn một chút vui tươi, tôi nghĩ nàng đã dành cho tôi một chút cảm tình nho nhỏ. Và tất cả hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho những lần giao tiếp về sau. Để phá tan bầu không khí có phần im lặng, tôi hỏi Thúy :
– Thúy đi chợ mới về ?
Nàng nhìn tôi, hơi mỉm cười, rồi trả lời :
– Dạ ! Bà nội muốn có món khổ qua hầm trong mâm cơm rước ông bà chiều nay. Thúy đi mua khổ qua và một ít đồ lặt vặt khác. Chợ cũng gần đây thôi.
Sau một hồi trò chuyện qua lại, tôi mạnh dạn hỏi nàng :
– Nếu được Thúy đồng ý, tôi sẽ xin phép bà Tám và hai bác, mời Thúy đi dạo phố một vòng, khu vực chợ Sài Gòn. Tôi muốn được nhìn thấy sinh hoạt ở đây, đặc biệt trong buổi chợ chiều ngày 30 Tết.
Không nhìn tôi, nàng trả lời thật nhỏ :
– Dạ ! Không biết nữa ! Anh Phước hỏi bà nội và ba mẹ của Thúy.
Hỏi xong câu nầy, tôi thấy mình thật hớ hênh, quá gấp gáp ! Có lẽ tôi đi quá nhanh chăng ? Thật sự ý kiến nầy chỉ mới nảy ra, từ khi tôi có mặt ở đây. Tôi không có một chút nào chủ định trước. Cũng may, nàng không dứt khoát từ chối. Tôi vẫn còn một chút hi vọng.
Chừng để tôi ngồi một mình với Thúy khá lâu, bà Tám bước ra. Tôi đứng dậy lễ phép và thẳng thắn trình bày ý kiến của mình. Nghe xong, bà Tám vui vẽ trả lời :
– Ồ ! Được chứ ! Được chứ ! Để hỏi lại ba mẹ Thúy xem sao.
Cũng vừa lúc ba mẹ Thúy bước ra, bà Tám lập lại lời yêu cầu của tôi. Ông bà cười vui vẽ, nhưng không trực tiếp trả lời tôi. Xoay người về hướng Thúy, ông nói :
– Thúy ! Con đi chơi với anh Phước chút đi. Nhớ chiều về ăn cơm nhà.
Ông mời luôn cả tôi. Tôi không nghe tiếng Thúy trả lời. Lời yêu cầu của tôi được chấp thuận và quan trọng hơn : Thúy không phản đối. Sẳn dịp, tôi xin kiếu từ mọi người và hẹn sẽ trở lại rước Thúy vào lúc 1 giờ trưa. Tôi cũng không quên từ chối lời mời dùng cơm chiều của ba Thúy vì tôi cũng muốn về nhà dùng cơm chiều với gia đình tôi. Mẹ tôi bao giờ cũng chuẩn bị một mâm cơm cúng rước ông bà rất thịnh soạn. Tôi nhìn Thúy rồi chào tạm biệt nàng. Tôi bước nhanh ra khỏi nhà với tâm trạng mừng vui lâng lâng. Một phút bốc đồng đáng ghi nhớ.
Sài Gòn những ngày cận TẾT
Trời hôm nay thật đẹp. Bầu trời xanh lơ, không một áng mây. Nắng vàng ấm áp. Ngoài đường xe cộ chạy tấp nập. Không khí chuẩn bị Tết nhứt vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi thấy vài chiếc cyclo với những chậu bông cúc vàng rực rỡ. Phố xá sạch sẽ ngăn nắp. Người vui, cảnh cũng vui. Câu nói thật chí lý.
Về đến nhà, mẹ tôi mừng rỡ. Mẹ tôi còn vui mừng hơn khi biết tôi có ghé nhà Thúy. Và còn vui mừng hơn nữa khi biết tôi sẽ đưa Thúy đi chơi chiều nay. Mẹ tôi hỏi tôi từng chi tiết một. Tôi thành thật cho mẹ tôi biết từ đầu chí cuối. Nghe xong, mẹ tôi cười và chỉ nói một câu : » Gan dữ hé ! « .
Để tỏ vẻ nghiêm túc, tôi mặc một chiếc áo chemise dài tay màu trắng, quần xám đậm, thắc chiếc cravate màu xanh lá non và đến đón Thúy đúng giờ. Vừa bước vào nhà, Thúy cũng vừa bước ra phòng khách. Tôi nhìn nàng mà ngẩn ngơ. Nàng đẹp thật ! Với một chút trang điểm, nàng đẹp lộng lẩy trong chiếc áo dài màu xanh đậm, màu nước biển ở độ sâu và chiếc quần trắng tha thước. Chiếc áo may thật vừa vặn khéo léo, làm nổi bật một thân hình rất cân xứng và gợi cảm. Tôi như bị thu hút một cách mãnh liệt vào dáng hình nầy. Thấy tôi chăm chú nhìn mình, nàng tỏ vẽ thẹn thùa, rồi với giọng nói rất nhỏ, nàng hỏi tôi :
– Bây giờ mấy giờ rồi anh Phước ?
Biết nàng nhắc khéo mình, tôi vội chào mọi người, hứa sẽ đưa nàng về sớm, rồi cùng nàng bước ra xe. Chiếc taxi với người tài xế đứng tuổi, vui tánh vẫn còn chờ đây, theo lời yêu cầu của tôi.
Trên xe, dường như chỉ có một mình tôi nói nhiều. Nàng chỉ trả lời tôi khi cần thiết. Thật sự, tôi cảm thấy có một chút gì bỡ ngỡ, mất đi vẽ tự nhiên hằng ngày. Tôi hiểu là tôi phải tạo một không khí thật đầy thân mật, gây một chút cảm tình với người con gái nầy. Coi như đây là buổi hẹn hò lần đầu mà tôi là người đã tạo ra và may mắn có được.
Người tài xế taxi thả chúng tôi xuống đường Lê Thánh Tôn, sau chợ Bến Thành, khu vực buôn bán trái cây. Tôi nhìn đồng hồ tay, gần 2 giờ trưa. Nếu tôi đưa nàng về nhà lúc 6 giờ chiều, tôi sẽ có được 4 tiếng đồng hồ với nàng. Tôi phát họa nhanh một chương trình cho buổi đi chơi ngắn chiều nay và tiện tặn từng giây, từng phút. Chúng tôi ngừng lại ở một gian hàng bán trái cây. Một mùi thơm thật dễ chịu thoáng qua, mùi trái táo ! Khi có dịp đi chợ Sài Gòn, tôi thường thích đến đây, có lẽ do cái mùi thơm đặc biết nầy. Tôi hỏi Thúy :
– Mình mua một ít trái cây ăn nhé ? Thúy thích ăn nho hay ăn táo ?
Thúy hỏi ngược lại :
– Ăn ở ngoài đường sao anh ?
Tôi vừa cười vừa trả lời Thúy :
– Có sao đâu ! Nhiều người làm như vậy mà !
Chợ Bến Thành – Sài Gòn – đường Lê Thánh Tôn
Tôi đến quầy hàng, hỏi mua một ít nho tím và nhờ chị bán hàng rửa dùm. Chị vui vẽ làm theo lời yêu cầu của tôi. Nối bước theo mọi người, chúng tôi nhập vào dòng người đông đảo, vừa đi vừa ăn, vừa trò chuyện có phần thân mật hơn trước. Sự bỡ ngỡ lúc đầu dường như không còn nữa. Nàng hỏi tôi nhiều chuyện về nghề nghiệp, lý do nào tôi chọn ngành Hàng Hải ? Mỗi chuyến tàu đi bao lâu mới về ? Những bến bờ nào tàu thường ghé ? Sự khác biệt giữa ngành Hàng Hải và Hải Quân ? Tôi có cảm giác như mình đang bị phỏng vấn bởi một phóng viên nhà nghề. Tôi cũng được dịp trao đổi với nàng về chuyện học hành của nàng và được biết lý do nào nàng chọn học ngành « Gỏ Đầu Trẻ ». Lý do thật giản dị : nàng có người dì làm cô Giáo. Dì Hương, em của mẹ nàng. Nàng coi dì Hương như một thần tượng. Nàng nói dì Hương của nàng đẹp lắm ! Dì Hương lập gia đình sau mẹ nàng một năm. Không biết vì lý do gì, cho đến bây giờ dì Hương vẫn chưa có con.
Chợ hoa Tết trước Ty Hàng Hải
Nàng là đứa cháu đầu lòng trong hai gia đình, bên nội cũng như bên ngoại, nên nàng được cưng chìu hết biết. Đặc biệt là dì Hương của nàng. Dì Hương thương nàng như con. Khi lớn lên, ngoài cha mẹ, dì Hương dạy nàng từng li, từng tí, cách ăn, cách nói, cách đi đứng. Dì Hương hiểu biết nhiều nên được mọi người kính trọng. Dì Hương rất cởi mở và gần gủi nên được mọi người thương yêu. Ngoài ra, dì Hương còn có biệt tài nấu ăn. Nàng đã học được của dì Hương món cơm gà và được mọi người ưa thích. Nàng được chỉ định nấu món cơm gà khi gia đình có dịp tiệc tùng, giỗ chạp. Nàng thương dì Hương như mẹ. Nàng muốn được trưởng thành như một dì Hương, một « Cô Giáo » như dì Hương.
Như tôi đã nói với mẹ tôi từ lâu : »Tôi muốn có vợ làm cô giáo ». Tôi cũng có lý do của riêng tôi. Nếu dì Hương là thần tượng của nàng thì cô Lệ là thần tượng của tôi. Cô Lệ là cô giáo dạy tôi lớp Nhứt « B », trường Tiểu Học Chợ Quán.
Nếu mọi việc suôn sẻ, thì đây quả đúng là ước muốn của tôi, một giấc mơ đã thành sự thật. Hơn nữa, nàng được sanh ra trong một gia đình nề nếp, lễ giáo. Thật tình mà nói : Có lẽ dáng vóc và sắc diện của nàng đã thu hút tôi ngay tự phút đầu, khi tôi gặp nàng tại chùa Vân Sơn.
Rồi những chuyến tàu đi, những chuyến tàu về, chúng tôi nôn nao mong được gặp nhau. Khi thì tôi đến nhà nàng, khi thì tôi đón nàng ở trường học. Và bao giờ chúng tôi cũng đưa nhau đi đâu đó. Tuy được sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, nhưng những tên như Tân Định, Phú Nhuận, Đa Kao, Gò Vấp, Thủ Thiêm, Nhà Bè, nàng chỉ nghe nói mà chưa lần nào được đặt chân đến. Tôi trở thành một hướng dẫn viên rất đắc lực cho nàng. Nhưng khu vực chợ Sài Gòn vẫn là một tựu điểm chính. Một lần, chúng tôi đang ăn kem ở Givral, một đôi vợ chồng trẻ bước vào, mỗi người ẳm một bé gái độ chừng hai tuổi, cùng mặc một kiểu quần áo và cùng màu. Hai đứa bé sinh đôi thật xinh đẹp, ai cũng trầm trồ khen ngợi. Hai vợ chồng chọn một bàn trống kế bàn chúng tôi. Thúy mở lời làm quen :
– Chị có hai đứa cháu đẹp quá !
Người đàn bà mỉm cười thân thiện rồi trả lời :
– Trời ơi ! Cực lắm cô ơi ! Để rồi hai vợ chồng có con rồi biết.
Được dịp tôi chen vào :
– Cũng sắp rồi đó chị.
Thúy trố mắt nhìn tôi, mặt đỏ bừng, nhưng không dấu được một nụ cười thẹn thùng thật kín đáo.
Tôi lại theo tàu với những chuyến đi như thường lệ. Thông thường mỗi chuyến đi như vậy, từ Sài Gòn đi Đà Nẵng rồi trở về Sài Gòn phải mất một tuần lễ. Nhưng lần nầy, tàu lại gặp bảo nên phải ghé vào Vịnh Qui Nhơn để trốn cơn bảo lớn, mất một ít thời gian. Đến Đà Nẵng, thời tiết xấu, mưa nhiều, không cất hàng (gạo) lên được, lại phải chờ. Tàu về đến Sài Gòn trể mất mấy ngày.
Sau khi về thăm nhà thăm gia đình qua loa, tôi đến thăm nàng ngay. Thấy tôi, nàng mừng ra mặt nhưng không có một nụ cười rạng rỡ như thường lệ. Với giọng nói thật nhỏ, vừa đủ tôi nghe, nàng hỏi :
– Sao lâu quá vậy anh ?
Chưa kịp trả lời, tôi nhìn thấy đôi mắt nàng đã ứa lệ. Nàng đã khóc ! Để che dấu, nàng nhìn sang hướng khác. Tôi cảm thấy thật xúc động ! Một cơn xúc động bất chợt trào lên. Không chủ động được, tôi bước tới ôm nàng vào lòng, hôn nhẹ lên má nàng. Nàng trìu mến ngả đầu vào vai tôi. Giây phút rung cảm ngây ngất ngắn ngủi qua thật nhanh. Chúng tôi buông nhau ra. Cũng may, lúc nầy, trong phòng khách chẳng có ai. Dù đã quen nhau khá lâu, dù tình yêu giữa chúng tôi đã sanh sôi nẩy nở, đây là lần đầu tiên tôi hôn nàng. Một chiếc hôn nhẹ bên bờ má, nhưng đã thấm đậm vào tim, vào phổi. Tôi lấy lại bình tỉnh và giải thích cho nàng biết lý do tại sao tàu về trể.
Thời gian nầy, hai gia đình thường quà cáp qua lại với nhau. Sự thân thiết càng ngày càng thắt chặt, nhứt là mẹ tôi và bà nội của Thúy. Riêng tình yêu của chúng tôi càng ngày càng lớn dần và sâu đậm. Một chút nước mắt vừa rồi làm tôi đánh giá được mức độ tình cảm của nàng đối với tôi.
Những lần gặp nhau sau đó, chúng tôi bàn định chương trình cho tương lai. Nàng muốn đám cưới sẽ được thực hiện sau khi nàng tốt nghiệp. Nhưng phần quyết định sau cùng, chúng tôi đồng ý dành cho người lớn. Gia đình tôi và gia đình nàng, mà tích cực nhứt là mẹ tôi và bà nội của Thúy, cả hai đều muốn, đám hỏi nên làm càng sớm càng tốt, đám cưới thì chừng nào cũng được. Ý kiến nầy được tôi và nàng đem ra thảo luận và chúng tôi cùng đồng ý. Chuyện cưới hỏi coi như đã tính xong. Chúng tôi rất vui mừng. Thúy đã bộc lộ rõ rệt sự vui mừng nầy. Nàng nói cười nhiều hơn. Chúng tôi nôn nao với niềm hạnh phúc trước mắt, tin vào tương lai tốt đẹp sau nầy. Tôi báo cho Thúy biết, chuyến tới, tàu sẽ đi Bornéo. Khi tàu về, tôi sẽ xin nghỉ phép thường niên để cùng gia đình lo tổ chức làm Lễ Hỏi cho nàng và cha mẹ tôi đã báo cho gia đình nàng biết.
Vào những năm 1959 – 1960, đội thương thuyền của Miền Nam Việt Nam không nhiều lắm. Đa số đều thuộc hãng tàu Nguyễn Văn Bửu. Thương vụ quan trọng nhứt của hãng tàu là chở gạo ra Miền Trung như Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng. Mỗi nơi đều có Đại Lý riêng lo việc bốc dỡ, lên xuống hàng hóa. Họa hoằn lắm mới có những chuyến đi ra nước ngoài mà thường nhứt là Borrnéo (Nam Dương) và Calcutta (Ấn Độ). Tôi may mắn có được hai niềm vui cùng lúc. Được ra nước ngoài và sắp được có vợ, người mà mẹ tôi đã chọn, người mà tôi yêu thương tha thiết. Tôi xuống tàu với một niềm vui tràn đầy, một tâm trạng háo hức, một chuyến đi hứa hẹn nhiều mới lạ. Cuộc đời quả đẹp thật !
Kuching là một hải cảng lớn nhứt của Bornéo. Tàu đến thả neo ở cửa biển, như ở Cap Saint Jacques, chờ Hoa Tiêu dẫn vào bến, qua một đoạn sông không dài lắm. Trong khi chờ đợi, các anh em thủy thủ lấy cần ra câu. Cá ở đâu mà nhiều thật ! Mồi vừa bỏ xuống là giựt lên ngay. Một loại cá giống như là cá úc ở Việt Nam. Khi tàu hải hành, thủy thủ đoàn, kể cả Sĩ Quan thường được nhà bếp cho ăn thịt nhiều hơn ăn cá. Nên khi câu được nhiều cá, anh em mừng lắm, họ chia phiên nấu nướng, ăn uống thật vui. Riêng tôi, trời cũng về chiều, tôi mong tàu cập bến sớm để được lên bờ hay đi bờ, theo lối nói của người đi biển.
Tàu Nhật Lệ
Rồi tàu cũng cập bến. Tôi theo một vài bạn đàn anh đã có dịp đến đây trước. Họ dẫn tôi đến những khu vực ăn chơi, những khu vực buôn bán. Phố xá cũng giống như khu Chợ Cũ Sài Gòn. Người mua kẻ bán tấp nập. Các bạn tôi chỉ cho biết loại hàng nào cần mua, vì giá rẻ hơn ở Việt Nam, nhứt là về mỹ phẩm, đồ trang điểm cho phụ nữ. Đặc biệt ở đây có rất nhiều cửa hàng mà chủ nhân là người Tàu gốc Chợ Lớn. Họ nói tiếng Việt rất rành rẽ. Tôi mua một ít mỹ phẩm làm quà cho Thúy, một vài loại vải may áo dài, với những designs màu mè rất hiếm thấy ở Việt Nam. Tôi nghĩ là Thúy sẽ rất vui với những món quà nầy.
Thời gian ở Kuching, tôi và một người bạn mướn một chiếc xe và yêu cầu người tài xế đưa chúng tôi vào sâu vùng nông thôn. Chúng tôi muốn tìm hiểu về đời sống và sinh hoạt của người dân ở đây như thế nào. Không khác gì với Việt Nam, người nông dân ở đây, họ cũng lam lũ nghèo nàn, nhà cửa đơn sơ. Dọc theo hai bên bờ sông, thỉnh thoảng tôi thấy phụ nữ tắm sông. Phụ nữ miền quê Việt Nam, một số cũng tắm sông, nhưng có điều khác lạ, ở đây họ để ngực trần.
Lật bật rồi chuyện lên xuống hàng hóa cũng xong. Tàu được lệnh trở về Việt Nam, chuẩn bị cho một chuyến đi khác. Riêng tôi, tôi đã được phép nghỉ một chuyến tàu với lý do : « Đi hỏi vợ ».
Trên đường về, tâm tư tôi lúc nào cũng hướng về Thúy. Tôi thấy nhớ nàng làm sao ! Tôi thầm cám ơn mẹ tôi, cám ơn bà Tám, cám ơn Ông Tơ Bà Nguyệt, tất cả đã cho tôi một ân huệ hiếm có trong đời. Rồi tôi tự cười thầm cho chính mình : Bổng nhiên tôi lại tin vào chuyện Ông Tơ Bà Nguyệt se duyên. Tôi không biết một chút nào về điển tích nầy, Ông Tơ Bà Nguyệt là ai ?
Tàu về đến Sài Gòn vào một ngày nắng đẹp. Tàu đậu ở bến Charner. Điều nầy rất tốt cho tôi. Tôi không phải đi bộ một khoảng đường dài từ chổ tàu đậu đến Cổng Kho 5. Kho 5 là một trong những kho chứa hàng trực thuộc Thương Cảng Sài Gòn. Hàng hóa được các thương thuyền ngoại quốc chở đến Việt Nam, được cất lên và chứa tại đây.
Sau giờ tan việc, tôi gọi taxi vọt thẳng về nhà với tâm trạng nôn nao khó tả : Tôi sắp có vợ rồi đây ! Đúng như mong ước của ba mẹ tôi, muốn có một đứa cháu nội để ẳm bồng.
Từ đầu đường, tôi gặp một ít bà con trong xóm. Tôi chào hỏi mọi người như thường lệ. Điều ngạc nhiên là họ nhìn tôi xa lạ. Không thân mật như mọi khi, khác hẳn với không khí thân quen từ bao giờ.
Chị Hai Huệ, cũng là người trong xóm, từ trong nhà bước ra. Chị thấy tôi, lên tiếng hỏi :
– Mới về hả ?
Tôi chưa kịp trả lời, chị đã bỏ đi. Lại thêm một lần nữa, tôi ngạc nhiên về thái độ lạnh lùng của mọi người. Tôi tiếp tục bước nhanh. Định về nhà hỏi mẹ về chuyện kỳ cục nầy.
Vừa bước chân vào nhà, tôi gặp mẹ tôi. Bà chạy lại ôm tôi, không nói một lời nào. Rồi bổng nhiên òa lên khóc. Tiếng khóc của mẹ lớn dần và lớn dần !!!…
Tôi không chịu đựng được nữa. Tôi nắm hai tay mẹ và lớn tiếng hỏi :
– Mẹ ơi ! Chuyện gì vậy ?
Bà nghẹn ngào rồi nhỏ giọng :
– Một tai nạn đã xảy ra và con Thúy không còn nữa. Nó chết rồi !!!
Không ngăn được cơn xúc động bất chợt và quá lớn, tôi đứng lặng im, không nói được lời nào ! Tôi cảm thấy tê dại, không thấy được gì trước mắt. Đầu óc quay cuồng trống rỗng. Một kích động quá lớn làm tôi cảm thấy chơi vơi, chới với, lững lờ như không có một đối vật nào để bám víu.
Thấy và hiểu được nổi đau đớn của tôi, mẹ tôi an ủi :
– Thôi con ! Thôi con ! Hãy bình tĩnh lại ! Số nó như vậy ! Con đừng quá buồn ! Nghỉ ngơi một chút, rồi đi qua thăm và chia buồn cùng gia đình con Thúy.
Tôi đến thăm gia đình Thúy liền sau đó. Bà Tám thấy tôi là khóc liền. Rồi mẹ Thúy, rồi em Thúy. Phản ứng của tôi là chỉ đứng lặng im, xúc động không nói được lời nào. Vã lại, tôi cũng không biết dùng lời lẽ nào để nói. Vì chính tôi cũng đang cần được an ủi !
Cơn xúc động đi qua. Bà Tám nghẹn ngào kể lại :
– Con đi được hai ngày thì tai nạn xảy ra ! Số là trong xóm có một thanh niên, nó tên là Đơn. Nó theo đuổi tán tỉnh con Thúy nhưng con Thúy chẳng chú ý gì đến nó. Nó đem lòng thù hận. Thành tích của nó trong xóm nầy ai cũng biết, côn đồ, du đảng, chẳng học hành, nghề ngỗng gì. Nó biết chuyện con và con Thúy thương nhau và sẽ đi đến chuyện hôn nhân một ngày rất gần. Nó đón đường con Thúy nhiều lần và hăm dọa con Thúy đừng khi dễ, coi thường nó. Chuyện nầy, con Thúy cũng có cho ba nó biết. Mọi người trong gia đình nghĩ đó chỉ là lời nói suông thôi. Không ngờ nó đã làm thiệt và thật táo bạo dã man !
Khi Thúy trên đường đi học về bằng chiếc xe đạp và gần đến nhà, thằng Đơn dùng xe gắn máy đụng mạnh vào xe con Thúy, làm nó té lăn xuống đường, đầu bị thương rất nặng và được đưa vào Nhà Thương Chợ Rẫy. Bốn ngày sau thì nó qua đời ! Thằng Đơn bỏ trốn nhưng bị bắt liền sau đó vì có người trong xóm nhìn thấy nó khi tai nạn xảy ra !
– Con được coi như là con cháu trong nhà. Thỉnh thoảng con ghé chơi cho nhà bớt hiu quạnh !
Sáng hôm sau, tôi được chị dâu tôi hướng dẫn đi thăm mộ Thúy. Đặt vòng hoa trước mộ, tôi đốt cho nàng một nén hương. Tôi bùi ngùi nhớ lại thời gian qua. Thời gian chúng tôi mới quen nhau nơi ngôi chùa cổ kính. Thời gian chúng tôi mới yêu nhau. Những buổi hẹn hò với sự cho phép của cha mẹ Thúy. Và thời gian tình yêu đã chín mùi. Những dự tính cho tương lai. Khi có con, con trai đặt tên gì, con gái đặt tên gì.
Ôi kỷ niệm ! Biết bao nhiêu là kỷ niệm ! Kỷ niệm tràn về đầy ấp tâm tư. Nguồn cảm xúc dâng trào. Tôi không ngăn được dòng nước mắt xót xa cho Thúy, cho người con gái tôi yêu ! Tôi khóc cho nàng và tôi khóc cả cho tôi !
Em ơi ! Thúy ơi ! Thôi nằm đây nhé ! Anh sẽ giữ mãi cho anh tiếng cười, giọng nói của em. Anh sẽ giữ mãi cho anh một tình yêu vĩnh cửu !
Nghĩa trang giờ nầy thật vắng vẻ đìu hiu. Dường như có một cơn gió lạnh đang tràn về.
Bọn họ về đến Thủ Đức là đã mười một giờ khuya. Sau khi viếng chợ đêm ngày Tết của Sài Gòn tưng bừng ánh sáng và màu sắc, họ trở về với chợ quận và có cảm giác là đang ở nhà lầu thì phải tuột xuống nhà tranh.
Ánh sáng đô thành vẫn thấy đỏ rực trên trời đằng hướng Nam và nhìn vầng sáng ấy, họ nhớ đến những tà áo muôn màu họ vừa ngắm một giờ trước đây. Giờ đây, màu đen của y phục những người đi sắm Tết từ trong xóm ra, sao mà u buồn lạ.
Những gian hàng, phần lớn thắp đèn dầu, sao mà trông nghèo khổ và bịnh hoạn vô cùng.
– Bây giờ ta phá cái gì cho vui đặng qua đêm chớ. Thạch đề nghị.
– Thì lại cũng cứ lăn dưa chớ còn trò gì nữa đâu. Công quyết định.
Đó là một bọn con trai năm người, sống vào thời tiền chiến rất yên ổn ngày xưa, đã hưởng rất nhiều thú vui mà vẫn còn thấy thiếu.
– Hồi sớm, tao để ý đến một hàng dưa do một con bé có duyên lắm trông nom. Không biết ở xứ nào tới mà coi bộ ngây thơ lạ. Ta có lăn dưa thì nên lăn dưa của con bé ấy và nếu có thể được, lăn luôn… nó cho vui trò.
– Mầy nói niết, ban ngày nó có coi hàng, nhưng tối lại thì ông già, bà già nó coi chớ còn đâu nó nữa.
– Ậy ! Mầy mới dốt phong tục. Ở chổ khác, dưa tứ xứ về bằng ghe. Trên ghe có cả ông già, bà già, con cái lu bù thay phiên nhau mà coi hàng. Ở chỗ ta không có sông, dưa về bằng xe bò. Xe bò đậu lâu không được. Tao thấy ông già, ổng đánh xe bò về hồi sớm.
– Bây giờ bắt thăm coi đứa nào phải lăn năm nay đây.
– Tao cho !
– Tao !
– Tao mới phải ; bốn năm liền tao chưa lăn lần nào hết.
– Năm nào mầy cũng kiếm cớ thoái thác. Năm nay lại tham. Tao biết mà, tại có con bé ấy. May là bây chưa thấy mặt nó đa mà còn giành như vậy. Nếu bây mà thấy như tao thì…
– Thì tao còn giành dữ hơn tụi bây nữa.
– Hơn bao giờ hết, ta phải rút thăm mới được.
– Coi chừng nó gian lận tụi bây ơi ! Nó đã thấy con bé rồi thì chết, nó cũng lập mưu mà lăn cho được. Phải kiểm soát cho gắt kẻo trúng phải lá « thăm tráo » của Từ Mậu Công.
Bọn họ kéo nhau vào một quán cà phê ở dãy phố ngó vào một gian hàng ngỏ đó mà rằng:
– Đó, gian thứ nhì kế gian góc bên trái chợ.
– Đâu ? Con bé đâu ?
– Nó ngồi trong tối làm gì thấy được.
Phiên chợ Tết miền Nam Việt Nam trước 1975
Trong bất kỳ chợ Tết của nơi nào, cả chợ Tết của Sài Gòn cũng vậy, nếu gian mứt, gian rượu sáng sủa sạch sẽ bao nhiêu thì gian hàng dưa, bưởi lôi thôi, tối tăm bấy nhiêu.
Những gian hàng ấy luôn luôn ở cuối chợ và trông giống như những người bà con nghèo ở ngõ hẻm.
Trước gian hàng mà Công chỉ, họ chỉ thấy một ngọn đèn dầu hôi đang un khói. Sau ngọn đèn, trên chiếc đệm, dưa chồng chất như kim tự tháp, nền lớn, ngọn nhỏ. Và sau dãy núi dưa, có lẽ con bé đang ngủ gục vì vào giờ nầy chỉ còn lưa thưa vài khách hàng đi mua nhang đèn, bánh, pháo thôi.
Sợ Công gian lận, họ oản tù tì chớ không bắt thăm. Đê được thăm, anh ta nhảy ra liền khỏi tiệm.
Lạ ! Năm ngoái anh bắt thăm trúng, tự cho là xui xẻo, vì đi ăn cắp dưa Tết có ngày phải ăn chổi chà. Nhưng năm nay anh lại mừng hùi hụi và cứ tự bảo là vận mình đỏ lắm.
Đê bước đi những bước nhẹ nhõm, lòng thong thả không lo ngại gì hết vì anh thấy tán gái quê không gì khó cả.
Không mấy chốc anh đã tới trước gian hàng, đặt chân lên đệm và dõng dạc hỏi to:
– Ai bán dưa ?
Người chủ gian hàng bưởi bên cạnh là một người đàn bà đứng tuổi, vạch vách ngăn bằng đệm dòm qua. Bên nầy thì im lặng lạ lùng. Trong bóng tối, sau trái núi dưa hấu, đôi mắt như hai hột ngọc đang nhìn ra ngoài.
Trong ánh đèn vàng úa, Đê thoáng thấy một gương mặt không đẹp mà dễ thương, hiền hậu mà không khờ khạo tí nào. Gương mặt ấy đương bình thản nhìn anh ta hơi mỉa mai kiêu ngạo một chút.
– Dưa bao nhiêu một chục cô ?
– Dạ, bán rẽ cho thầy chín đồng.
– Sao lại bán rẽ cho tôi ?
– Vì có lẽ thầy không biết trả lên, trả xuống, em không nỡ nói thách.
À ! Con bé quá quắc lắm. Nó dùng tiếng « không nỡ » là khinh mình đây ! Đê nghĩ rồi nói:
– Chín đồng một chục thì chạy chín cắc một trái. Như vậy mà cô bảo là bán rẽ cho tôi. Má tôi mua dưa cỡ nầy ba cắc một trái thôi.
– Thầy làm toán chia tài dữ ! Chín đồng một chục, mà ra chín cắc một trái…
Bây giờ Đê đã ngồi xuống. Chàng ta nhìn cô gái để đợi cái phút cô lo ra đặng thi hành kế quỉ. Nhưng cô gái vẫn không nhìn đâu khác hơn là người khách hàng nữa đêm.
– Thì một chục là mười, nếu có đầu là mười hai, thì chín cắc một trái có lẽ là tạm trúng rồi chớ gì.
Nghe câu đó, cô gái không nghiêm trang được nữa, rũ ra mà cười.
Đê không thèm để ý, liếc mắt dòm lại sau lưng mình thì thấy bạn hữu đã đưa nhau đứng gác từng khoảng cách nhau sáu thước.
Cô bé cười híp mắt, lắm khi rũ xuống.
Đê thừa dịp tốt, lấy tay hất một trái về hướng Công, người đứng đầu trong sợi dây xích ăn cắp dưa nầy.
Đây là một bọn trai trẻ con nhà giàu, chơi trò lăn dưa cho vui vậy thôi, không nghĩ là mình ăn cắp và không thấy ghê tởm khi làm công việc nầy.
Lăn xong một trái, và chắc bụng là bạn hữu đã chuyền mà đưa trái dưa ấy đi xa. Đê làm bộ ngạc nhiên hỏi:
– Sao cô lại cười tôi ?
– Thầy đi mua dưa mà không biết dưa hấu một chục mấy trái thì lầm chết.
– Chớ cô nói một chục mấy trái ?
– Dưa hấu thì một chục hăm bốn trái.
– Dữ vậy à ? Đê ngạc nhiên thật tình mà nghe con số kỳ dị nầy.
– Lại còn thứ trái cây một chục mười sáu trái. Chục trầu thì chỉ có hai lá thôi. Ấy ! Chục của ta nó rắc rối lắm, cô bé nói thêm.
– Trời ơi ! té ra tôi còn non. Cũng may là đi mua dưa thôi, chớ đi coi vợ mà khờ khạo như vầy thì « lầm chết », đúng y như cô vừa nói.
– Không sao, thầy đừng lo. Một cô gái hai mươi tuổi thì vẫn hai chục tuổi. Vì tuổi tác không có chục mười sáu, chục hăm bốn mà lo.
– Nếu có chục hăm bốn thì tôi, tôi đoán là cô chưa đủ chục, có phải không cô ?
– Cái đó là việc khác, không ăn thua đến vụ mua dưa.
Đê một lần nữa nhận ra gái quê dạn nói cà rỡn hơn gái chợ trong dịp trêu ghẹo của con trai. Họ bộc lộ hơn gái chợ, lắm khi rất trây trớt và có lẽ nhờ thế, họ không bị uất khí và ít sa ngã.
Bấy giờ Đê đã lăn đến trái thứ năm. Mấy anh kia, bắt dưa dính như thủ môn giỏi bắt ba lông, và đưa dưa đi tài tình như trên bải cỏ, các cầu tướng « giao nhỏ ».
Cô bé mảng cà rỡn mà không thấy gì hết.
Đê làm bộ lập nghiêm vì thấy cô gái cũng là tay bản lĩnh, tán láo không được. Anh hỏi qua về quê quán, gia đạo cô gái, hẹn gặp nhau năm tới và tiếc phải chia tay.
– Năm tới có lẽ ba em sẽ đi chợ khác. Cái nghề dưa nầy không thể nào bám mãi một chợ được. Mỗi năm phải tiên đoán coi chợ nào ít người bán mà vào, rủi đụng đầu với nhau nhiều thì nguy.
Đê cũng hơi bùi ngùi, đứng dậy nói:
– Rất tiếc không mua giúp cô được, vì tôi ngỡ một chục mười trái nên thiếu tiền.
– Không hề gì, thầy lấy chơi năm trái, thì trả tiền năm trái là xong.
Đê bủn rủn tay chơn, muốn té quỵ xuống. Không phải vì anh ta sợ tốn tiền. Cũng không phải sợ tội ăn cắp. Nhưng bị một cô gái như thế lột mặt nạ một cách bình tỉnh như vậy khiến anh ta kinh khủng không biết ngần nào.
Anh ấp úng :
– Tôi… thử… xem cô có lanh mắt không.
– Em vẫn biết thầy thử, nên em cố lơ đãng cho vui trò vậy mà !
À ! Nó khéo lắm, con bé ấy. Thế mới chết !
– Dạ (Đê thấy cần phải lễ phép), dạ, bây giờ cô tính bao nhiêu cô ?
– Dạ, dưa mua thì tính giá khác. Còn dưa ăn thử thì cứ một đồng một trái, lấy rẻ thôi.
– Con bé mắc dịch ! Đê rủa thầm. Nhưng nếu nó đòi mười đồng một trái, mình cũng phải trả, chớ dám nói gì.
Khi Đê theo kịp bạn hữu, anh ta mặt bí xị và làm thinh mãi, không họa theo họ mà reo đắc thắng.
– Sao ? Có nước mẹ gì không mà coi bộ sò thế ? Tạo hỏi.
– Có nước con thì có, chớ nước mẹ gì.
Công ngắt, chận lại nói :
– Các anh à, bọn bán dưa họ biết cái ngón của mình nên đề phòng dữ. Cứ mỗi năm, ta làm kém năm rồi một, hai trái.
– Mỗi năm bớt đi một trái dưa cũng chưa nguy. Tôi sợ năm nay phải bớt đi một người trong bọn ta ! Đê than.
– Anh định bỏ chúng tôi đi lăn con bé à ?
– Không lăn nó, mà chính tôi tự lăn vào nó đấy !
– Úy mẹ ơi ! Một cậu trong bọn mình si tình rồi đây, bây ơi !
– Không si tình sao được, các anh. Phải chi các anh có bị đánh như tôi, nó vừa đánh, vừa vuốt ngực thì mới biết.
– Nó đánh bằng chổi chà hay bằng gì ?
– Bằng cái đòn tinh khôn mà rất dễ thương của nó !
Cuốn phim » Ile de Lumière » về chiếc tầu được đặt tên là Đảo Ánh Sáng, đã cứu vớt hàng trăm ngàn boat people Việt Nam sẽ được trình chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp France 2 , 23H05 đêm thứ ba 20/02/2018.
Ông Nicolas Jallot. Ảnh GettyImages
Cuốn phim của điện ảnh gia Nicolas Jallot đã gây xúc động lớn khi trình chiếu trong Đại hội Quốc Tế Phim Ảnh Lịch Sử ( Festival International du Film d’Histoire ) tại Pessac ( Pháp ) tháng 11 vừa qua.
Trong 65 phút, cuốn phim đã thuật lại cuộc vượt biển hãi hùng của hàng triệu người Việt đi tìm tự do khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam VN .
Nhiều khán giả tại đại hội đã không cầm được nước mắt, nhưng cũng đã hãnh diện vì dân tộc Pháp, trong dịp này, đã bày tỏ tinh thần quảng đại, nhân đạo đáng cảm phục.
Nicolas Jallot nói, trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh France Inter, có nước Pháp trước và sau Ile de Lumière. Trước Ile de Lumière, người Pháp thường chia rẽ, tranh cãi về mọi vấn đề. Ile de Lumière là trường hợp hi hữu tất cả xã hội Pháp đã ủng hộ hết lòng một chương trình nhân đạo.
Trước Ile de Lumière, nước Pháp chia ra hai phe, tả và hữu. Những gì phe tả ủng hộ, phe hữu chống , và ngược lại. Với Ile de Lumière, hai lãnh tụ trí thức , hai triết gia hàng đầu của Pháp, Jean Paul SARTRE, lương tâm của tả phái, và Raymond Aron, lương tâm của hữu phái, sau 30 năm bút chiến gần như hận thù, đã bắt tay nhau, vào điện Elysée để yêu cầu tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đón nhận boat people.
Sartre trước đó đã từ chối giải Nobel văn chương, từ chối gặp gỡ bất cứ một chính trị gia nào bị ông ta cho là phản động.
Lần đầu tiên tất cả báo chí thuộc mọi khuynh hướng đều nồng nhiệt ủng hộ một chương trình nhân đạo. Trừ một bài báo rụt rè trên tờ L’Humanité của Đảng Cộng Sản Pháp, tờ báo vốn bênh vực ngưòi anh em Cộng Sản Việt Nam một cách nhiệt thành hơn, chỉ trích các đảng phái chính trị khác đã « lợi dụng một thảm kịch để bôi nhọ cuộc chiến đấu của người Cộng Sản VN ». Nhưng đó chỉ là tiếng nói trong sa mạc
Trước một phong trào nhân dân nhất trí chưa từng có, tổng thống Pháp đã quyết định đón nhận, giúp an cư lạc nghiệp cho 130.000 boat people, mặc dù chính sách của ông lúc đó là hạn chế tối đa di dân vì nước Pháp đang gặp khó khăn kinh tế và vấn đề di dân đã bắt đầu rắc rối trong xã hội Pháp.
Nicolas Jallot nói sau đó, nước Pháp đã đón nhận 300. 000 thuyền nhân, và họ đã hội nhập , thành công, đóng góp cho xã hội Pháp, không gây một vấn đề gì.
Nicolas Jallot là một điện ảnh gia, một tác giả chuyên về những vấn đề hậu Cộng Sản. Ông đã viết hàng chục cuốn sách và nhiều phim tài liệu về Nga, Đông Âu, nhất là giai đoạn sau khi bức tường Berlin sụp đổ.
Ông nói lần đầu, thực tế phũ phàng về thiên đường Cộng Sản đã đập vào mắt người Pháp. Trước đó đã có những tác phẩm tố cáo, như những tác phẩm của Soljénitsyne, nhưng không có gì gây ấn tượng mạnh hơn là những hình ảnh.
Mỗi ngày, trong mỗi gia đình, người ta theo dõi hoạt động của con tàu Ile de Lumière, không cầm được nước mắt trước địa ngục trần gian và hãnh diện thuộc một dân tộc đã đứng ra cứu vớt người tị nan.
Hình ảnh boat people lần đầu đến với người Pháp đầu tháng 11/ 1978 với phóng sự về tàu Hải Hồng, một con tàu chờ 2500 thuyền nhân bị chặn ở biển, không được phép vào hải phận Malaysia.
Hai ngàn 500 người đói khát, bịnh tật giữa trùng dương. Từ đó, các phóng sự liên tiếp trên các đài truyền hình nói về thảm cảnh của hàng triệu người Việt Nam bất chấp sóng biển, hải tặc cướp bóc, hãm hiếp đã vượt biển tìm tự do, chạy trốn một xứ sở mà trước đó báo chí thiên tả nói vừa được giải phóng.
Cả một thế hệ người Pháp, chứng kiến trực tiếp cuộc chạy trốn kinh hoàng của người Việt, đã coi như được chích ngừa vĩnh viễn giấc mộng « xã hội chủ nghĩa » kiểu Marx, Lénine.
Hình ảnh bi thảm của thuyền nhân tàu Hải Hồng đã khiến Bernard Kouchner, một « French doctor » nổi tiếng về những chương trình nhân đạo ở Phi và Á Châu, nghĩ đến việc tạo con tàu Ile de Lumière đi cứu vớt thuyền nhân lênh đênh ngoài biển cả.
Sáng kiến của bác sĩ Kouchner được cả nưóc Pháp ủng hộ , khởi đầu là các nhà trí thức, nghệ sĩ tên tuổi như Michel Foucault, André Gluckmann, Yves Montand, Simone Signoret.
Ile de Lumière đã tuần tiễu cả vùng biển Đông Nam Á để cứu, chăm sóc và định cư hàng trăm ngàn thuyền nhân, mở đầu cho nhiều con tàu khác, nhiều chương trình nhân đạo lớn lao khác.
Sau 1975, đã có hàng triệu người vưọt biển. Ít nhất một phần ba đã bỏ mình trên biển cả.
Việc một đài truyền hình quốc gia chiếu một cuốn phim về thuyền nhân VN chứng tỏ, với công luận thế giới, đó vẫn còn là một thảm kịch lớn nhất trong lịch sử cận đại.
Tôi là dân Nam Kỳ nhưng tôi có nhiều bạn thân là người Bắc và Trung, anh em thường họp mặt để trao đổi bài vở học ở trường, rủ nhau đi coi hát, uống nước miá, đi cắm trại, đi làm các công tác xã hội, có khi gặp nhau để đánh bài và người nào thắng thì lấy “vốn” lại và số tiền “kiếm được” đải anh em ăn cháo trắng hột vịt muối…
Cả đám cùng đậu Trung học đệ nhất cấp chương trình Pháp, lấy bằng Brevet xong, chẳng qua để cho cha mẹ vui lòng, chớ bằng cấp nầy không giúp chúng tôi để bước vào đời được; và anh em chúng tôi thoải mái vui chơi khi học năm lớp đệ tam, classe deseconde; có cái không vui là một bạn thân của nhóm rớt năm rồi, anh ta học có vẻ khổ sở quá và cha mẹ rầy la mỗi ngày nên anh em họp kín là làm sao thi giúp cho anh ta; tôi nghe xong đổ mồ hôi vì tánh của tôi “nhát” lắm mà anh em lại nhắm vào tôi cùng góp sức trong phi vụ nầy. Không ai bắt buộc ai nên tôi từ chối vì nghĩ tương lai của mình sẽ mù mịt nếu dính vào vụ nầy. Sau nhiều ngày, nhiều tranh cải tôi xiêu lòng giúp một tay… Tôi chọn sẽ đứng ra thi vấn đáp một môn mà thôi và anh em đồng ý.
Có anh bạn làm giả cho mỗi người tham gia một thẻ học sinh có tên anh bạn thi rớt, tôi cũng có một thẻ học sinh như vậy, anh ta đúng là dân chuyên môn, nhìn kỹ thẻ học sinh, bạn không thấy một sơ hở nào, tất cả đều dưới tên anh bạn ngoại trừ tấm hình là của tôi; anh chàng chọn thi viết giúp cho bạn là một anh chàng lỳ không thể nói, sau nầy anh ấy là một kiến trúc sư, còn tôi vào vấn đáp cũng vất vả không kém vì quá run sợ, bắt được câu hỏi xong tôi không e ngại gì vì tôi dư khả năng trả lời các câu hỏi, và may mắn thay khi gặp vị giám khảo, tự nhiên tôi bạo dạn và hoàn thành xuất sắc “nhiệm vụ” được giao phó. Kết quả anh chàng “quỷ” nầy lấy được bằng Brevet. Tôi về và khi nhớ lại sự việc nầy tôi bịnh mấy ngày và không ngớt chửi thằng bạn, cũng không dám nói cho anh tôi biết.
Khi cả nhóm đậu tú tài, tụi bạn rủ đi ăn và anh chàng mà trước đây chúng tôi thì dùm đải anh em chúng tôi một bữa ăn Nai Đồng Nội ở khu vực Trương Minh Giảng – Saigon. Vào tiệm ăn thay vì Thịt bò bảy món thì chúng tôi ăn Nai bảy món, tôi cảm thấy hôm nay ăn ngon miệng quá, miếng thịt nào họ chế biến cũng ngon gồm nai luộc, nướng, dồi… ăn với mắm tôm, tôi thì ăn với nước mấm, mấy thằng bạn Bắc kỳ cứ thúc dục ăn nai phải uống thêm chút rượu cho tiêu hóa tốt. Tôi nhớ còn rầy tụi nó là tụi bây còn nhỏ mà bày đặt uống rượu.
Món cuối cùng đưa lên là cháo………… trời đất ơi, tôi muốn xĩu ngay tại chỗ vì cháo có cái đầu lâu của chó nữa. Xin lỗi mấy bạn, tôi chạy ra ngoài ói, ói và ói đến mật xanh, mật đỏ gì đó tôi cũng không biết và không thèm nói gì với ai tôi leo lên xe đạp, đạp về nhà một mách và suy nghĩ tôi quá là ấu trĩ và khờ khạo khi tin chúng bạn, nhất là mấy thằng bạn Bắc kỳ của tôi. Tôi không quan hệ với chúng bạn trên ba tháng! Đây phải là lần đầu và lần cuối tôi ăn thịt chó.
Sau nầy khi đi lính, vào khoảng cuối năm 1972 khi chiến hạm công tác vùng 4 Duyên Hải, vị Tư Lịnh Vùng lúc đó là một ông Đại tá mà người ta gán cho cái tên là “cao bồi” vì ông có nhiều quyết định cao bồi lắm trong nhiều lãnh vực, tôi thì vô thưởng vô phạt, tôi chỉ biệt phái công tác trong vùng của ông một thời gian, xong công tác là về Saigon nên tôi kính trọng ông và không có gì để than phiền ông, và ông đối đãi với anh em chúng tôi rất là đúng mực. Xong một chuyến tuần tiểu ngắn ngày, về lại căn cứ của vùng tôi được một sĩ quan trên bờ báo cho biết là Tư Lịnh mời ăn cơm chiều vào ngày hôm sau. Thật ra ăn là để xã giao chớ ăn với các “quan lớn” thì có vui vẻ gì.
Trong phòng ăn có các sĩ quan tham mưu của vùng, một anh Hạm Trưởng khác biệt phái như tôi, có một nhóm thầy cô giáo và nữ sinh Rạch Giá thăm Phú Quốc. Các món ăn gồm các loại hải sản phong phú của biển, cá các loại, ghẹ luộc, tôm, mực, ốc, gỏi, và ngon nhất có lẻ là con biên mai, là một loài sò chỉ có vùng biển nầy mới có, đúng hơn là còi của con biên mai ngon lắm.
Ông Tư Lịnh vui vẻ, và hết món ngon nầy đến món ngon khác được đưa lên bàn để đãi khách, trong đó có nai của vùng nầy mà ông và các sĩ quan khác của ông không ngớt đề cập đến. Tôi ăn và uống cầm chừng và rất giữ kẽ, vì ông là người BẮC và lại đề cập đến món NAI, hai chữ đó nó làm tôi liên tưởng đến lần bị gạt khi còn đi học. May mắn cho tôi là món nai đã trên dĩa ăn của tôi, do nài ép của nhiều người, nhưng một anh bạn cùng học trường Việt Nam Hàng Hải với tôi, hiện là sĩ quan của vùng nháy mắt ra hiệu cho tôi (hiện anh đang ở Chicago, Illinois). Tôi vừa mới nói chuyện với anh trước khi viết bài nầy. Tôi hiểu ngay và món nai đó không làm tôi mắc bẩy như lần trước, tôi nghĩ thầm “xưa rồi tám”. Sau đó thì bí mật về nai cũng được “bạch hóa” sau buổi ăn tối, nhưng tôi đã cao bay xa chạy rồi vì một công tác khẩn ngay trong đêm.
Tội nghiệp các cô giáo và một số học sinh nữ cảm thấy “đau khổ” như tôi trước đây.
Tôi biết rằng ăn hay không ăn thịt chó là một đề tài gây tranh cãi. Không ai có quyền lên án một sở thích của ai!
Nhưng tại sao lại ăn thịt chó? Theo thống kê mỗi năm 5 triệu con chó bị ăn thịt tại Việt Nam.
Theo tôi thật là tàn nhẫn khi ăn thịt chó vì chó thông minh, có tình có nghĩa hơn biết bao nhiêu con người!
Hy vọng sẽ có thay đổi tích cực trong xã hội Việt Nam chúng ta trong thời gian tới.
Nữ sĩ Huyền Châu sinh năm 1918 và mất năm 2006 tại Pháp, quê quán ở Gành Ráng, một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Bình Định. Tại hải ngoại, bà cộng tác với các báo Quê Mẹ, Hành Động, Tự Do, Văn, Phụ Nữ Diễn Đàn. Xuân về trên Gò Bồi và Xuân tuổi trăng rằm được trích đăng dưới đây từ quyển Gành Ráng, trong đó tác giả đã ghi lại những kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu trong vùng quê và đó cũng là nếp sống chất phát, hiền lành, giản dị của người dân vùng thôn dã Việt Nam vào thập niên 30 và cũng để giới thiệu với các bạn một nét đẹp quê hương miền Trung Việt Nam thời xa xưa.
Năm đó, má tôi nhứt định đưa Bạch Trang, Linh Qui và tôi về Lương Tài quê ngoại của tôi để ăn Tết. Chiếc đò dọc đưa về Lương Tài thuộc loại đò máy chỉ có sáu người khách kể chung với bốn mẹ con tôi. Còn lại hai người kia là học sinh về quê ăn Tết.
Chiếc đò tách rời bến sau chùa Hải Nam thẳng xuôi theo giòng sông Huỳnh Giản đưa về Gò Bồi. Từ Gò Bồi chúng tôi phải cuốc bộ trên ba cây số mới đến làng Lương Tài.
Nước bắt đầu đổi chiều. Trời xanh đậm in vào gương nước trong vắt. Hễ khi nước trong là mùa mưa thoảng xa và mùa Xuân lại về.
Đò vừa cặp bến Gò Bồi thì đã quá ngọ. Phố xá, chợ búa đã vắng thưa người. Các cửa tiệm cũng bắt đầu đóng cửa. Lũ trẻ ranh bắt đầu đốt pháo đì đùng. Hai chàng học sinh kia cũng về chung một đường với chúng tôi. Nắng mùa Xuân tuy trong nhưng thật gắt làm mọi người đổ mồ hôi, nhưng nhờ có gió Xuân mát dịu thổi lao xao làm chúng tôi quên mệt. Đường đất khô ráo, sạch sẽ nên dễ đi. Chúng tôi phải băng qua mấy thửa ruộng, vì vừa mới gặt lúa nên ruộng cũng khô ráo. Hôm nay trên đường đưa về Lương Tài vắng vẻ không có phiên chợ nhóm như thường nhật. Các quán tranh nho nhỏ bên vệ đường bỏ trống trơn. Có những khóm tre ốm tong teo vì đã quá già, có cây bị con sùng, con đuôn tàn phá, nên rủ lá xác xơ. Có cây tre trổ bông từng chùm như hột lúa, tre ra hoa là tre sắp chết.
Trong khung cảnh hoang vắng xác xơ, điểm tươi sáng nổi bật là cổng những ngôi nhà hai bên đường đã dán những cặp liễn đỏ, nổi chữ mực tàu đen nhánh. Cây mai trong sân nở lấm tấm búp vàng đón Xuân. Hàng rào cây trà trước nhà đã được cắt xén thẳng băng.
Vừa đến trước cửa chùa Thập Phước, chúng tôi đã thấy dì tôi cùng anh Mỹ, chị Hạnh đã chờ sẵn. Nhìn nét mặt vui vẻ của dì tôi, tôi biết năm nay nhà ngoại tôi sẽ ăn Tết lớn. Mà đúng vậy, nhà ngoại trang hoàng rực rỡ. Đèn giấy, cờ giấy tam sắc kết dài trước mái hiên. Bàn ông Thiên trước nhà đã chất sẵn hoa quả để cúng giao thừa. Trong nhà có vài người tá điền đưa vợ con về ăn Tết, phụ giúp việc nhà luôn. Cảnh nhà hôm nay đông như mở hội. Cây nêu đã cột sẵn giỏ tre đựng giấy tiền vàng bạc, trầu cau, gạo muối cùng chiếc khánh bạc kêu leng keng. Chờ giờ dậu là ngoại dựng nêu trước sân nhà theo tục lệ hàng năm.
Vừa thấy Bạch Trang, Linh Quy và tôi, ngoại tôi mừng lắm, ôm từng cô cháu nước mắt rưng rung. Ngoại bảo chị Hạnh :
– Hạnh, con lấy mấy trái mảng cầu dai mà ngoại dú trong hũ gạo cho ba em con ăn chơi. Mấy con nầy lớn xộn rồi đây.
Dì tôi nói :
– Con Trang càng lớn càng có vẻ nết na, hiền lành, con Linh Quy mới mười bốn tuổi mà ra vẻ con gái dậy thì rồi. Còn con Huyền Châu…
Dì nheo mắt ngó tôi, làm tôi mắc cỡ. Má tôi đỡ lời :
– Càng lớn nó bớt khỉ khọn, tuy nhiên tánh tinh quái vẫn không chừa. Phải chi nó thùy mị như con Mỹ Hạnh thì vợ chồng em bớt la rầy rát cổ.
Dì tôi khoe :
– Có con ông Hương Cả ở làng trên đi hỏi con Hạnh rồi. Sang năm chị gả cháu…
Chị Mỹ Hạnh mắc cỡ cầm tay Linh Quy lui xuống bếp. Bạch Trang khều tôi ra gốc khế đơm đầy hoa tím. Hồi mười tám năm về trước, ngoại với than góa bụa, nuôi ba cô con gái là má chị Mỹ Hạnh, má Bạch Trang và má tôi nên người. Ngoại đã từng tự hào là ba cô con gái mình xinh đẹp, khôn ngoan. Giờ đây, ngoại tìm niềm vui ở lũ cháu ngoại gái. Trong đám chị em, về nhan sắc, tôi kém sút hơn hết. Nhưng tôi nổi bật hơn họ là ở tánh ranh mảnh, thích pha trò. Ba má, ngoại và các dì xúm lại rầy tôi ào ào nhưng trong bụng có phần thiên vị tôi hơn hết. Ngoại thường tuyên bố :
– Vắng con Châu là nhà cửa lạnh tanh.
Dì tôi thường khuyên má tôi :
– Em chớ rầy la nó thái quá. Nó còn trẻ ăn chưa no, lo chưa tới…
Bạch Trang hôm nay ra vẻ cô nương lắm rồi. Nó thuộc vai chị của tôi nhưng nhỏ tuổi hơn tôi. Chị em nào tôi cũng thương yêu, luôn cả anh Mỹ. Nhưng tôi thích Bạch Trang hơn, vì tôi nghĩ rằng nó yếu đuối, cần được tôi che chở. Bạch Trang nói :
– Nè Châu ! Ngoại cưng tao và mi nhiều hơn anh Mỹ, chị Hạnh vì tao sớm mồ côi mẹ, còn mi thì làm con nuôi ông thầy pháp, sống ở nhà thầy suốt mười hai năm ở làng Hương Thạnh.
– Ừ hén ! Mà sao mi hay để ý chuyện đó làm chi ? Mà sao mi buồn quá vậy Trang ?
Bạch Trang lại nói :
– Nè ! Bắt đầu từ ngày mai mi không được kêu tao bằng mầy nữa nghe chưa ! Ngoại nói tụi mình đã lớn rồi. Tao là vai chị của mi, mi phải kêu tao bằng chị Trang.
Tôi gật gù :
– Ừ ! Mầy nói cũng phải đó ! Nhưng tụi mình lỡ xưng hô mày tao mi tớ quen rồi, giờ đổi cách xưng hô nghe mắc cỡ, nhột miệng quá !
– Ngoại nói mầy đã mười sáu tuổi là tuổi trăng tròn. Đó là vừa đúng tuổi cập kê.
– Cập kê là gì hả chị Trang yêu quí của em ? Cập kê là cập con gà mái kè kè một bên phải không ?
Má tôi bỗng ở đâu trờ tới, nghe tôi phát ngôn ẩu tả liền rít lên :
– Cập kê là cài trâm, nghe chưa con ôn dịch. Cứ nói tầm phào luôn đi. Con gái lớn rồi, liệu mà ăn nói cho nghiêm chỉnh với người ta.
Sáng ngày mồng Một Tết, tiếng trống múa lân ở đầu làng bên cổng chùa Thập Phước vọng inh ỏi. Tiếng pháo ở các nhà hàng xóm đì đùng nổ ròn.
Chúng tôi, trừ anh Mỹ, gồm Bạch Trang, Mỹ Hạnh, Linh Quy và tôi đã thức dậy từ năm giờ sáng. Chúng tôi rửa mặt, chải tóc và trang điểm. Bạch Trang và Mỹ Hạnh vốn tánh giản dị, chọn màu áo lụa nguyệt bạch. Linh Quy năm đó mới lớn nên diện chiếc áo lụa màu cánh sen. Còn tôi năm đó, tôi thích màu u tối, không phải vì bi quan, sầu muộn mà vì chiếc áo gấm màu vỏ măng cụt đẹp quá hợp với nước da tôi, nên dung nó trang điểm cho ngày Nguyên Đán. Cả ba đều mặc quần lụa trắng, kết reng ở hai ống. Cả ba đều đeo kiềng vàng chạm, bông tai tong teng kiểu hai trái châu tròn. Chúng tôi đòi ngoại cúng nước xong, mừng tuổi ngoại, được ngoại lì xì bằng phong bao hồng đơn gó đồng bạc mới tinh.
Phía trước nhà tôi, cách một đám ruộng, người ta đã cất sẵn khu chơi bài chòi. Tiếng trống chầu thùng thùng giục giả khách du Xuân đến đó tham dự.
Khi Bạch Trang, Mỹ Hạnh và tôi ra đến khu bài chòi thì đã có khách ngồi sẵn trên chòi, chỉ có chòi trung ương là còn trống. Bạch Trang và Mỹ Hạnh không dám ngồi vào chòi nầy vì nó được cất quay mặt về hướng đông.
Tôi dục hai cô nương nhát như thỏ kia :
– Đừng có sợ ! Má tui nói chòi trung ương lẩm rẩm vậy chớ hên lắm. Thây kệ mình thử ngồi xem.
Không đợi sự đồng ý của nhị vị cô nương, tôi bắt thang leo tuốt lên chòi. Hai nhỏ cũng đành riu riu theo sau.
Lẽ ra, chòi chỉ chứa có hai mạng. Vậy mà cả ba dồn vào đó làm chòi rung rinh. Ai cũng nhìn chúng tôi xa lạ vì họ biết chúng tôi là dân ở Gành Ráng, không phải dân làng Lương Tài nầy. Chòi dựng trên bốn cây cột sang, che tranh, lót ván, cao chừng hơn hai thước, phía dưới có phủ một tấm sáo tre nhỏ. Một cây đèn dầu vuông với cái tán gồm bốn mảnh kiếng ghép lại đủ soi sáng cho người chơi bài. Trong chòi có một cái mõ tre và cây gõ mõ.
Tất cả gồm chín chòi. Mỗi ván bài là phải đậu năm cắc, chín chòi thì được bốn đồng rưởi, nhưng chỉ có bảy cây cờ. Khi ai tới bài trước thì lãnh được ba đồng rưởi, còn ban tổ chức lấy xâu hết một đồng. Khi tới bài, người thắng cuộc phải ăn đủ ba cây bài. Lúc đó có một cậu thanh niên hoặc một cô thiếu nữ đem đến cho chòi trúng một khai có rượu, trầu cau và số tiền trúng. Họ hò lên vài câu bài chòi tán thưởng người ăn bài, và người ăn bài phải lì xì cho họ.
Chòi trung ương của tôi hên quá, trúng liên tiếp ba ván. Mỗi khi họ vừa hô Tứ Tượng, tôi đánh mõ liên hồi, cười khanh khách, thay vì chỉ đánh ba tiếng mõ cốc cốc. Chị Mỹ Hạnh nguýt :
– Vừa thôi nghen Châu ! Mầy làm quá, thiên hạ chê cười đa ! Con gái, con ghiếc gì cứ láu táu hoài !
Bạch Trang phụ họa :
– Chòi thì nhỏ xíu, mà mỗi khi ăn được con bài nào là nó vừa la, vừa nhảy cởn làm chòi rung muốn sập. Mấy tấm ván kêu cúc kít nghe rợn người. Con nầy không sợ chúng ghét mà !
Bạch Trang ngồi ở phía trong, không thể ló mặt ra được. Tôi mỗi khi ăn là có thể ló mặt ra nheo mặt, chẫu môi với các con bạc ở chòi khác. Bạch Trang cứ la tôi từng chập. Chị Mỹ Hạnh đỏ mặt mắc cỡ vì tánh liếng thoắng trẻ con của tôi.
Thế là trong một bàn gồm bảy cây cờ, chòi tôi chiếm hết ba cây. Tôi còn muốn đậu bàn khác thì anh Mỹ ở dưới chòi chõ miệng réo :
– Về nhà đánh cờ Quan, Châu ơi.
Chúng tôi tuột xuống chòi về nhà.Tụi trẻ nít chạy theo la ơi ới :
– Cô mặc áo măng cụt và cô mặc áo lợt đi bên cô Hạnh chắc ở Giả (Qui Nhơn) lên chơi đó bây.
Một bà đứng tuổi xía vào :
– Cô Hạnh hôm nay diện coi được quá. Còn hai cô có vẻ tỉnh thành. Mấy cô nầy chỉ tằng hắng một tiếng là thiếu gì kẻ cầu hôn.
Tôi mặc kệ cho chị Mỹ Hạnh và Bạch Trang đứng lại chuyện trò với người quen biết trong làng. Tôi dông một lèo về nhà, kiểm điểm số tiền ăn bài và số tiền do ngoại và dì dượng lì xì.
Hôm nay có vài anh bạn của anh Mỹ đến chúc Tết. Họ mặc áo dài sa teng, nút đồng xi đỏ chói, quần vải xe lửa trắng tinh, chân mang giầy xăng đan da nâu, đầu chải dầu sáp bóng loáng. Cứ mặc cho họ ngó trộm, liếc lén, tôi chui vào bếp vì tôi đói bụng quá rồi. Nhưng vào ngày đầu năm tôi không dám ăn vụng sợ bị mắng mà xui xẻo suốt năm, nên đành phụ ngoại, dì và mẹ dọn cổ bàn cúng ông bà. Các món ăn lần lượt sắp lên ván. Nào là lỗ tai ngâm dấm để ăn với bánh tráng, rau sống chấm mắm nêm, nào là thịt kho, cá kho nước dừa để ăn với bánh tét. Nào là dồi thập cẩm xắc mỏng để ăn với bánh tráng nướng dòn. Đặc biệt là mắm nêm do ngoại tôi làm lấy thật nhiều, để dành ăn lâu. Con mắm cá cơm bé xíu, màu hồng đậm thêm và tỏi ớt trộn ngon lành, thơm hơn mắm cá cơm bán ở ngoài chợ. Ngoài mắm nêm ngoại còn làm mắm cua, mắm sặc để ăn sau Tết… và để cho chị em tôi mang về Gành Ráng cùng với chuối ép khô, đu đủ, bầu xắc phơi khô.
Tôi phụ ngoại làm thêm món xào để bày cúng. Đó là món bầu xào tôm thịt. Bầu đã được xắt sợi, phơi khô cất sẵn trong hũ sành, chỉ cần lấy ra ngâm nước ấm cho soi bầu nở lớn ra.
Bàn thờ bày biện trang hoàng lộng lẫy. Tấm ảnh phóng đại của ông ngoại tôi được lau chùi bóng loáng cả khung lẫn mặt kiếng. Bộ lư đồng mắt tre được anh Mỹ và dượng tôi chùi bằng trái khế từ hôm hăm tám tháng Chạp. Hai chân đèn gắn trên cặp hạc cũng được chùi bóng. Bốn cây nhang và khoanh trầm được đốt lên, tuôn khói thơm ngào ngạt. Một cành mai vàng được cặm trong chiếc độc bình vẽ hình Bát Tiên Quá Hải. Một cái cổ bồng đựng ngủ quả đương mùa gồm trái thơm phụng màu hồng lá dài, một trái mảng cầu xiêm da xanh mướt, hai trái xoài thơm xanh ửng vàng, một trái đu đủ xiêm màu xanh nhưng khi xẻ ra là thấy ruột đỏ tím. Một trái dừa Tam Quan to. Trước tấm ảnh được bày nào là bánh tét, bánh in, mè xửng, kẹo cau…
Trước bàn thờ, ở hai bên cây cột có treo cặp liễn mun, chữ thếp vàng lóng lánh.
Tôi liên tưởng tới câu chuyện về cái chết ông ngoại tôi mà cảm thương cho thân phận bà ngoại tôi trong những ngày góa bụa tần tảo nuôi con. Ông ngoại tôi từ Bà Rịa vào rừng Khánh Hòa lượm mù u về ép dầu, bị cọp vồ mất xác. Bà ngoại tôi phải bỏ Bà Rịa trôi nổi ra đây. Hình ảnh ông ngoại tuy còn đó để cho con cháu tưởng niệm, thờ cúng nhưng bây giờ dù cả nhà có cúng mâm cao cổ đầy biết ông ngoại có về hưởng cùng con cháu hay không ?
Nhìn khói nhang bay từng cuộn, tôi chợt buồn mông lung. Sau khi ăn cổ xong, tôi lén ra vườn sau, thơ thẩn một mình. Buổi trưa im lìm. Tiếng ru con của chị Chín hàng xóm mở đầu bằng tiếng hò ơ… ơ nghe buồn buồn. Con chim gõ mõ gõ từng hồi lạch cạch trên cây bông gạo.
Ngoại góa bụa vì thương các dì và mẹ, tảo tần ngược xuôi để có gia viên điền sản. Dì Hai tôi, mẹ của anh Mỹ và chị Mỹ Hạnh lấy chồng cùng xứ, được ở với ngoại. Dì Ba tôi là má Bạch Trang lấy chồng Pháp. Dượng rể dị chủng của tôi về Pháp đem theo chị Linh, để lại Bạch Trang ở với dì và ngoại. Nhưng dì đã thất lộc từ lâu. Còn má tôi thì lấy chồng lai Khách Trú, theo chồng sống ở Gành Ráng. Bây giờ ngoại đem hết cuộc đời còn lại thương yêu lũ cháu. Chị Linh ở bên Pháp viết thư về cho Bạch Trang luôn và nhắc nhở ngoại thật nhiều. Thời thơ ấu của chúng tôi đầy hình ảnh hiền hậu của ngoại.
Mẹ thương con, bà thương yêu cháu. Nước mắt lúc nào cũng chảy xuống chớ có trở ngược lên bao giờ. Từ thuở bé tôi vì bệnh họan, nên ba má tôi đem gởi nhà ông thầy pháp ở làng Hương Thạnh. Sống với cha mẹ nuôi được mười hai năm, tôi được trở về nhà. Cha mẹ nuôi đã cưng tôi bao nhiêu thì bà ngoại cưng, chìu chuộng tôi như vậy. Tuổi thơ và tuổi mới lớn của tôi tràn ngập tình thương.
Tôi đến bên ao sen. Mùa nầy sen tàn. Những chiếc lá già nhô lên mặt nước, lá tròn và lõm sâu ở giữa màu xanh đậm. Lớp lá non nằm ở trên mặt nước như những đồng tiền sắp lớp bên nhau. Phải đợi mùa hạ, sen mới nở rộ bông. Có bông vượt khỏi lá từ búp thuôn thuôn nở xòe từng cánh ôm lấy cái gương nhụy màu vàng tươi. Có bông núp trong bóng lá xanh, để rồi tìm cách ngoi lên đón ánh sang mùa hè. Khi sen tàn, hồ trở nên trống và rộng, bày lớp nước trong vắt, có những khóm bèo cánh tròn, ngâm dưới nước một chùm rễ trắng.
Mùa Xuân quê ngoại, hàng bưởi ổi thấp ra hoa. Thân cây bưởi xám mốc, xây bàn thang thành nhiều nhánh, các nhánh nhỏ đều có gai. Hoa bưởi trắng như hoa mù u, hái hoa giắt vào tóc thì hương hoa thấm vào tóc thơm ngát.
Mùa Xuân quê ngoại, hàng cây mảng cầu ta (người Bắc gọi là Na) trổ lộc non màu cẩm thạch và trổ trái nhỏ bằng ngón cẳng cái. Mảng cầu ta lúc chín thơm ngát, khi tách vỏ, cắn vào ruột mềm sẽ gặp những hột đen lóng lánh, hột để dành chơi đánh búng thay thế hột me.
Mùa Xuân quê ngoại, đám ổi cửu ngoạt (tức cửu nguyệt) chỉ trồng trong vòng chín tháng là đã có trái cắn vào dòn rụm. Khi chín ruột ổi đỏ tía, lẫn những chấm hột màu ngà. Ngoại hái lá ổi, cùng các lá thơm khác, nấu nước cho chúng tôi tắm để trị rơm sẩy vào mùa nóng, thuở chúng tôi hãy còn thơ bé.
Sau nhà là khu trồng chuối. Những quày chuối sứ quằn xuống đất vì đơm nhiều trái mập tròn. Chuối cao lửa đỏ ửng. Khi phơi khô, chuối sứ phải ép mỏng, còn chuối cao để nguyên trái. Khi chuối cao phơi khô sạm mặt là chất mật trong trái chuối tươm ra, thơm mộc mạc.
Mùa Xuân quê ngoại, đám thơm tây đâm tủa lá dài, viền gai nhọn, màu ửng hồng. Trái thơm tây lớn hơn trái thơm ta. Đặc biệt là đám thơm phụng, lá cũng dài và viền gai nhọn, trái có nhiều đầu kết với nhau trông rất đẹp, đầu giống như đầu chim phụng. Quê ngoại tôi đó, mùa Hè ăn mít, mùa Thu ăn bưởi, mùa Đông ăn mận, chuối và dừa, mùa Xuân ăn cam, ăn quít, ăn khế, hái rau cần…
Mùa Xuân quê ngoại có pháo chuột vấn giấy hồng đơn đỏ thắm, có pháo tre vuông vuông, tiếng nổ chát chúa làm tôi giật mình…
Tôi giựt mình sực tỉnh không phải vì tiếng pháo mà là tiếng động bên ngoài hành lang. Giấc mơ thời quá khứ đã tàn. Sáng nay là mồng Một Tết ở cao ốc thuộc quận 13 Paris. Tuy ở xứ người, nhưng mỗi khi Tết đến, tôi cũng sửa soạn cúng rước vong hồn cha mẹ tôi. Bàn thờ giờ đây vẫn bày hoa quả, thắp nhang ấm cúng. Tôi cũng bày thêm trà, bánh tét, bánh ích, rượu và trầu cau. Trong các bửa cơm, tôi cũng làm các món thịt kho, nem, dồi thập cẩm.
Bức ảnh của ngoại, của ba má cũng được bày trên bàn thờ. Khói nhang trầm thơm ngát như từ quê ngoại hồi bốn mươi năm trước thoảng tới. Tôi lim dim tưởng niệm cố hương và người thân đã khuất núi từ lâu.
Ngoài cửa kiếng, tuyết rơi nhiều, trắng xóa khắp công viên phía dưới cao ốc. Cây đã trụi lá, cành cây bám dầy tuyết giá trắng ngần như thủy tinh…
– Miệt vườn là ở đâu ? Phong cảnh ra làm sao ? Có gì đặc biệt ?
– Miệt vườn là quê tao, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, cũng có ruộng như mầy thấy ngoài ngoại ô thủ đô Sài Gòn, miệt Phú Lâm, Bình Chánh. Đất ruộng thấp, ngập nước, nông dân đào đất, lên líp cao trồng cây ăn trái, cây xoài, cây ổi, cây mận … nói chung là làm vườn nên gọi là miệt vườn.
– Ngoài Phú Lâm cũng có vườn, tao ra đó coi thì biết, cần gì phải đi xuống tới xứ của mầy cho xa xôi.
– Ậy, mầy đừng nói vậy, vườn ở Phú Lâm và vườn ở xứ tao khác nhau chớ, làm sao giống được …
Đó là một phần câu chuyện khi Long mời tôi về quê nó ăn Tết hồi năm ngoái, tôi ngần ngại vì nghe đâu dưới miệt vườn không có điện, phải dùng đèn bánh ú, đèn dầu đậu phộng, dầu dừa, dầu chai, dầu mù u, lù mù, không có nước máy, phải xài nước sông đen thủi đen thui như nước dưới bến chợ Cầu Muối, Cầu Ông Lãnh … Tôi ừ ẹt cho qua chuyện rồi trốn biệt.
Năm nay Long mời nữa, tha thiết, quyết liệt hơn, nó lấy quần áo tôi bỏ vô va li, sẵn sàng lên đường sáng ngày mai. Tôi soạn lại bổn cũ, miệng hứa hẹn nhưng bụng thì tính kế đào tẩu.
Trưa nay ở Đại Học Xá Minh Mạng vắng vẻ chẳng khác chùa Bà Đanh, mới hôm qua còn ồn ào như cái chợ, tụi sinh viên như tôi hầu hết đã về quê ăn Tết hồi sáng nầy. Hơi nóng từ mái nhà fibro xi măng tỏa ra hâm hấp, điệu nhạc chát chúa của “chương trình phát thanh thương mại” ngày cận Tết phát ra dồn dập, inh ỏi làm đầu tôi nhức như búa bổ : “tằng ta răng, tắng tắng tăng … tằng ta răng, tắng tắng tăng …” điệu nhạc thiệt vô duyên, rổng tuếch, mấy thằng bạn tôi đọc trại ra : “Trời Phật ơi, ngó xuống coi … bà con ơi, chó cắn tui …” nghe mà tức cười. Mà tôi nhức đầu không phải vì trời nóng và điệu nhạc ong óng, Đại Học Xá Minh Mạng lúc nào mà không nóng, không ồn ào, tháng Hai, tháng Ba còn nóng hơn. Tôi nhức đầu phần khác là do tối qua đi ăn tiệc Tất Niên với mấy thằng bạn đằng trường Khoa Học, uống đủ thứ rượu, thức tới gần hai giờ sáng. Lò mò về tới Đại Học Xá, tưởng đi ngủ được liền, nào ngờ gặp lúc thằng Bảy cùng phòng dẫn về một cô gái giang hồ để làm chuyện xả xui cuối năm, phòng nầy nối liền phòng khác bởi một vách tường cao chỉ quá đầu người, thằng Bảy đang hì hục hành lạc bên trên, cô gái nằm ngữa đưa mắt ngó lên, chợt thấy ba phía vách tường đen đầu người đang chăm chú ngó xuống, hoảng hồn cô đứng phắt dậy, mặc quần áo vô, hấp tấp rời Đại Học Xá. Xong vụ thằng Bảy, cả bọn nam sinh viên còn thức bàn tán, nói chuyện tới bốn giờ sáng.
Tôi thả bộ lại trường Chu văn An định kiếm một trái dừa xiêm giải khát nhưng chiếc xe bán dừa ướp lạnh không có ở đó, chắc đã nghỉ bán theo thời gian nghỉ Tết của học sinh. Tôi trở lại nhà ăn Đại Học Xá, ăn cơm khẩu phần, uống trà đá. Sinh viên về gần hết, khẩu phần một tăng lên hai, ba, muốn ăn bao nhiêu cũng được. No bụng, tôi đón xe ra Nguyễn Huệ xem chợ hoa, không quên tối nay có chương trình Tất Niên với một nhóm bạn ở Đa Kao, Long cũng sẽ tới dự.
Năm giờ sáng, Long xốc tôi dậy bỏ lên xe xích lô máy chở ra Xa Cảng Miền Tây. Mắt nhắm mắt mở, đầu nặng chịch nhưng tôi cũng nhớ ra mình trúng kế Long, hồi hôm Long phục rượu tôi đến say mèm nên tôi chẳng còn biết ất giáp gì, tôi quên hẳng chuyện tìm cách lẫn trốn không về miệt vườn ăn Tết với nó sáng nay, mà nếu có nhớ, không chắc tôi còn đủ sức thực hiện ý định.
Suốt lộ trình Sài Gòn – Bắc Mỹ Thuận tôi ngủ gà ngủ gật, phú thác mọi thứ cho Long, mơ mơ màng màng có lúc tôi nghe tiếng rao bán khóm, bán mía thơm dịu, mía gò cát, mận hồng đào, bánh lá dừa, bánh lá ú, nước dừa xiêm … tiếng người lơ xe kêu hành khách ăn hàng xả rác trong xe, tắt thuốc qua cầu, đóng sáo qua cầu … Cho tới lúc lổ mũi tôi ngữi thấy mùi thịt nướng thơm lừng cũng là lúc chiếc xe đò ngừng hẳn, tiếng người lơ xe kêu : “Tới chổ rồi cô bác ơi, xuống xe qua đò, xuống xe qua bắc Mỹ Thuận”. Long lôi tôi, hối hả trong dòng người lũ lượt theo nhau xuống bắc. Hàng quán tràn ngập hai bên đường, ổi xá lị, cam sành, cam mật, quit ta, lạp xưởng, bánh phồng khoai, chuối khô … tôi muốn ngừng lại mua mấy thứ làm quà cho gia đình Long nhưng hắn gạt đi : “Mấy thứ đó ở miệt vườn thiếu gì, tao có mua mấy ổ bánh mì hồi ở Xa Cảng Miền Tây rồi, bánh mì Sài Gòn đem về vườn mới quí ”.
Sông Mỹ Thuận thiệt rộng, thiệt hùng vĩ, nước chảy cuồn cuộn khuấy đục phù sa, xô giạt con đò đầy, đằng xa là làng mạc, cù lao xanh rờn cây trái, những chiếc thuyền máy di động nhấp nhô, sóng lưởi búa làm tung bọt nước trắng xóa … màu nước sông trong lành, ngập tràn sức sống, thật hoàn toàn khác hẳn những con kinh nước đen tù hảm ở thủ đô Sài Gòn.
Đò vừa cặp bến, chúng tôi tất tả theo dòng người, chiếc xe lam vừa hết chổ, tôi và Long đành ngồi phía trước, hai bên người tài xế, ngày Tết tranh nhau về nhà sớm, không ai chịu đợi chờ, chậm một chút là mất chổ. Không ngủ gục được nửa, tôi đưa mắt quan sát miệt vườn, đã là miệt vườn hay chưa tôi cũng không biết, cầu đúc Cái Gia, ruộng, vườn, vườn, cầu sắt, chợ Cái Tàu Hạ, sao mà Cái nhiều quá, vườn, ruộng, vườn, cầu xi măng Mù U, vườn, ruộng, vườn, cầu Cái Xép, lại Cái nữa, vườn, ruộng, vườn, cầu đúc Nha Mân, xe qua cầu rồi ngừng lại, Long kêu tôi xuống.
Nha Mân, một chợ nhỏ cách Bắc Mỹ Thuận khoảng sáu cây số trên liên tỉnh lộ Vĩnh Long – Sa Đéc. Long gởi hành lý ở tiệm giải khát đầu chợ rồi đưa tôi đi một vòng chợ Tết, dưa hấu, mai vàng, hoa vạn thọ, bánh mứt, ông đò già ngồi viết liễng, một sạp bán báo Xuân, vài sạp bán pháo … đó là những nét đơn sơ của một chợ Tết miệt vườn, dĩ nhiên còn có những thứ mà ngày nào cũng thấy, cá, thịt, rau cải, tạp hóa … Long giới thiệu tôi với rất nhiều người quen trong chợ, họ mời chúng tôi đến chơi trong dịp Tết, lời mời nghe thật đơn giản nhưng chắc nịch, chân tình. Lúc trở lại quán cà phê lấy hành lý đã thấy anh Năm chủ quán chờ sẵn, anh kêu hai đứa tôi lên lầu “lai rai ba sợi” cho ấm bụng trước khi về bên cù lao.
Có bốn cái ghế quanh chiếc bàn tròn, trên bàn dọn sẵn chén đũa, ly, nhạo, một chùm nem chua, mấy quả mận hồng đào, muối ớt, nước mắm chanh và một dĩa lòng với lại thịt gà xào hành lá bốc hơi thơm lừng.
Chủ khách mời nhau nhập tiệc. Tôi ngạc nhiên hỏi anh Năm :
– Tụi em mới đi một vòng chợ, chưa đầy 15 phút mà anh đã làm xong một con gà thì lẹ thiệt.
– Đâu có lẹ dữ vậy, chẳng qua đó là sáng kiến của mấy bà nội trợ miệt nầy. Cắt cổ gà xong thì lấy ngay bộ đồ lòng và hai miếng thịt ức làm món xào dấm để mấy ông nhâm nhi chờ món khác.
Anh Sáu rót rượu đế từ cái chai ba xị vô nhạo, rồi từ nhạo ra ly nhỏ, anh làm việc rất thành thạo, cái nhạo lên cao chậm rãi, đều đặn, theo sau là những bọt rượu trắng tinh, tuy nhiên cũng có khi vài giọt rượu nhễu ra ngoài ly, anh chắt lưỡi hít hà:
– Cắt cổ hơn đổ rượu.
Rượu rót tròn vòng, chủ khách nâng ly tiễn đưa năm cũ. Anh Năm, anh Sáu, mỗi người cầm ly lên, chỉ nghe một tiếng “trót”, ly rượu của họ đã cạn sạch. Long uống theo, khè ra một hơi dài thành tiếng chứng tỏ rượu cay lắm. Thiệt vậy, phần tôi dù là một trong những tay đệ tử Lưu Linh có tiếng của Đại Học Xá Minh Mạng, sau khi làm xong “nhiệm rượu” đã phải giùng mình mấy cái, mặt nhăn như khỉ ăn phải ớt, rượu nếp Nha Mân có khác, cay xé mây, rượu di chuyển tới đâu tôi biết nóng tới đó, đâu có giống rượu “công xi”, rượu nếp than tôi hay nhâm nhi ngoài lề đường Nguyễn Tri Phương với nghêu sò.
Anh Sáu cười ha hả:
– Rượu nầy nấu bằng nếp nguyên chất, đâu có ngâm rắn hổ mà khè dữ vậy a chú Long !
Anh Năm khề khà:
– Chú Ba nầy uống rượu giống như cụ Phan Thanh Giản uống thuốc độc !
Tôi chống chế:
– Tại hồi tối em bị say rượu.
– Hồi hôm say thì bây giờ mình giải nghễ, vô thêm vài ly nữa là hết “bựa” liền chú em à.
Thế là anh Năm :
– Rót đầy cái ly cạn.
Anh Sáu :
– Uống cạn cái ly đầy.
Rồi anh Năm cùng với anh Sáu “hòa tấu”:
– Ly nầy rồi ly nữa, ly giữa lại ly bìa.
– Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, rượu ngon mà gặp bạn hiền thì ngàn chén nào có say đâu.
– Ly thứ nhứt “nhâm nhi tình bạn”, ly thứ hai “trút cạn lòng sầu”, ly thứ ba “mũi chảy tới râu”, ly thứ tư “ngồi đâu gục đó”, ly thứ năm “cho chó ăn chè”, ly thứ sáu “vợ đè cạo gió” …
Anh Năm, anh Sáu vừa nhậu vừa ngâm nga, hát hò, đùa cợt, thái độ các anh thật hào phóng, sảng khoái.
Rượu được ba tuần, đồ nhấm gần hết, thì như có sắp đặt sẵn, thằng con trai anh Năm bưng lên dĩa gỏi gà trộn chuối cây và mấy tô cháo nóng để chửa lửa.
Chai ba xị đế gần cạn, con anh Năm đem thêm một chai khác để kế bên. Ai uống ngàn chén không say ở đâu thì tôi không thấy, riêng tôi mới vô có mấy ly đế Nha Mân (do hai anh châm chế, không bắt uống nhiều) đã muốn bò càng, đầu choáng váng, tôi đá chân Long làm hiệu. Hiểu ý tôi, Long đứng lên cáo từ gia chủ, mượn cớ đường còn xa. Vậy mà anh Năm và anh Sáu còn cầm khách uống thêm hai ly nữa, rồi trước khi chia tay lại dặn dò Tết nhớ ghé qua uống tiếp.
Từ chợ Nha Mân muốn về quê của Long ở bên cù lao Tân Hiệp còn phải đi khoảng một cây số đường bộ, theo bờ rạch Nha Mân ra vàm, trước khi đến bến đò để được sang sông. Trên đoạn đường ngắn ngủi ấy, thằng cháu uống rượu nhăn mặt của cụ Phan Thanh Giản đã bị bà con đón đường ba lần nữa để bắt uống nhiều loại “độc tửu” khác nhau cùng với lươn um xả, tôm càng nướng, cá mè vinh hấp lá bạc hà …
Tôi thở vắn than dài:
– Tao “quỷnh” quá rồi Long ơi ! Còn mấy cái ải “rượu” nữa mới tới bến đò ?
Long cười hề hề:
– Chắc đây là trạm chót, trời tối rồi, chắc không ai thấy mình để mời mọc nữa đâu. Mầy còn lạ, phần tao đã quen rồi, mỗi lần về quê là tao như theo bước Ông Quan Vân Trường thời Tam Quốc, Ông Quan Vân Trường “quá ngũ quan, trảm lục tướng”, còn tao thì “quá ngũ quan, ẩm lục xị”, rồi say túy lúy càn khôn, nhiều khi uống không nỗi, nhưng đâu đễ gì từ chối sự mời đón của bà con.
Và mặc dù đã quá chén, nhưng tại bến đò chú Tư, mỗi đứa tụi tôi còn phải nốc thêm nửa ly bầu quặng rượu đậu nành để ông lái đò hài lòng trước khi đưa người qua sông Dịch. Đến nhà Long thì đã quá nửa đêm, phần say, phần mệt, tôi chỉ còn kịp chun vô cái mùng lưới mắc sẵn trên bộ ngựa gõ trải chiếu bông, mát lạnh, đánh một giấc đến sáng bét ngày hôm sau.
Ba Mươi Tết, một ngày bận rộn ở vùng quê, tảo mộ ông bà, chùi lư, dán liễng, trang hoàng trước ngỏ, trong nhà, chưng dọn bàn thờ tổ tiên … Tôi, Long và Hổ, em trai út của Long phụ trách việc chưng dọn, trong khi má Long lo nấu cỗ, chuẩn bị lễ rước ông bà.
Trước nhà Long là một rạch nhỏ còn được gọi là xẻo, mùa mưa xẻo lúc nào cũng đầy nước, mùa nắng như những tháng cận Tết, nước ròng, lòng xẻo cạn queo. Xẻo cắt ngang cù lao Tân Hiệp, có ba xóm, Xóm Vàm ở vàm xẻo, cách chợ Nha Mân bởi nhánh sông Sa Đéc. Long ở Xóm Giữa, gần ngôi đình làng cỗ kính có những cây dầu, cây sao thân suông đuột, cao vút. Xóm Trong tận cùng ở bờ bên nầy sông Tiền, bên kia sông Tiền là Rạch Ruộng thuộc tỉnh Định Tường. Dân chúng ba xóm cất nhà dọc theo hai bên bờ xẻo, liên tục hoặc cách nhau bởi những thửa vườn cây ăn trái, những đồng lúa phì nhiêu.
Mặt trời vừa xế, bà Hạnh, má Long giục chúng tôi dọn cỗ lên bàn thờ tổ tiên, các bàn thờ được dựng tạm thời dành cho cô bác, đất đai vương trạch. Trái cây, dưa hấu, bánh phồng, bánh tráng nướng … dọn lên bàn Thông Thiên, bàn thờ Phật, bàn thờ Ông Quan Công, miễu Bà Chúa Xứ. Má Long dặn lúc nước dưới lòng rạch bắt đầu chảy vô thì làm lễ rước ông bà về ăn Tết.
Bửa ăn gia đình sau đó gồm có tôi, Long, Hổ, má Long và Thu, em gái Long. Từ lâu tôi biết Long có em gái, lòng tò mò muốn xem mặt coi xấu đẹp cỡ nào. Thu đi chợ bán bánh mức từ sáng sớm, lúc tôi chưa tỉnh cơn say, mới về chừng nửa giờ trước đây và trốn biệt dưới bếp cố ý không cho tôi gặp mặt.
Tôi đã gặp bà Hạnh nhiều lần trong những dịp bà về Sài Gòn bán ổi xá lị ở chợ Cầu Ông Lãnh và ghé Đại Học Xá Minh Mạng thăm Long. Bà dáng phúc hậu, đoan trang, ông giáo chồng bà qua đời ở tuổi bốn mươi, bà quyết định ở vậy lo cho các con ăn học tới nơi tới chốn. Bà Hạnh rất khéo tay, tôi đã thưởng thức nhiều món ăn đặc sắc do chính tay bà nấu nướng mỗi khi bà ghé qua Đại Học Xá.
Bà Hạnh rất tự hào về người chồng quá cố, hay kể chuyện về ông giáo như là một người đầy lòng nhân ái, hồi xửa hồi xưa, ông là giáo viên trường Tiểu Học ở Nha Mân bên kia bờ sông. Rồi cù lao Tân Hiệp thành hình, dân chúng tới ở ngày một đông, sanh con đẻ cháu thêm nhiều, thăm cù lao mấy lần, thấy các cháu nhỏ chịu cảnh dốt nát vì sông lớn cắt ngang, sóng to gió lớn khó bề qua lại hằng ngày, Ông Hạnh đã xin Ty Tiểu Học Tỉnh mở một trường Sơ Cấp ở Xóm Giữa. Lớp học đầu tiên là một căn nhà lợp lá dừa nước, nền đất, vách bùn trộn rơm, gần bốn chục học sinh trình độ vở long gồm đủ các lứa tuổi, giáo viên không ai chịu thuyên chuyển đến đây, chỉ có ông Hạnh là thầy giáo duy nhứt kiêm trưởng giáo. Mùa nước nổi năm học đầu tiên, ngôi trường giống như một hòn đảo nhỏ giữa vùng nước bao la, thầy xăng quần tới háng lội nước “xộn xộn”, tụi học trò nhỏ có đứa cổi hết quần áo đội lên đầu chung với tập vở. Nay trường có 12 lớp của toàn bậc Tiểu Học, tám phòng học và một văn phòng Hiệu Trưởng khang trang, cao ráo , nền lót gạch Tàu, nóc lợp fibro xi măng. Ông Hạnh đem hết bầu đoàn thê tử sang ngụ hẳn ở cù lao, ngoài giờ dạy học, ông chăm sóc miếng vườn ổi xá lị đào lên từ đất ruộng.
Trong bửa cơm chiều, tôi đã trò chuyện với bà Hạnh:
– Thưa bác giáo, cháu xin lỗi bác, hồi hôm cháu và Long về muộn, để bác phải trông đợi.
– Ối ! Lỗi phải gì, bác biết hai đứa bây về tới chợ Nha Mân lúc mười giờ sáng ngày hôm qua, mấy người hàng xóm đi chợ về nói lại, nhưng bác cũng trông sơ sơ thôi, vì đã quen rồi. Dân miệt nầy hiếu khách lắm, mỗi lần thằng Long về là họ cầm ở lại chơi tới tối. Ở đây thêm vài ngày rồi cháu sẽ thấy, ai cũng là người thân thuộc. Hồi ba sắp nhỏ còn sanh tiền, một tuần lễ ổng đi ăn đám giỗ hết ba bốn ngày, dạy học rồi đi tới khuya lơ khuya lắc mới về, còn cuối tuần mà ổng nói đi chợ Nha Mân uống cà phê là kể như đi chơi luôn hết ngày đó. Ba thằng Năm ở quán cà phê đầu chợ mà cháu có ghé qua là ông hương quản Mùi, bạn thân của ba sắp nhỏ, nay tình bạn truyền sang đời con, rồi không chừng sang luôn đời cháu.
– Thưa bác, tại sao mình rước ông bà lúc nước lớn ?
– Tập quán đã có từ lâu, người dân mong cho tiền vô như nước, cháu đi thăm thử năm ba gia đình miệt nầy sẽ thấy ngày Tết lúc nào nước cũng đầy lu, gạo đầy khạp. Một cỗ lệ khác là không quét rác ra khỏi nhà trong ba ngày đầu Xuân, ý mong tiền bạc ở lại trong nhà, không bị tiêu tán. Cũng có một số bà con rước ông bà từ lúc sáng sớm, vì quá nôn nóng, họ nói đùa, rước sớm được ông bà tốt, mạnh khỏe, lành lặn … trể, người khác rước hết chỉ còn ông bà xấu, bịnh hoạn, cùi đui sứt mẻ … Thật ra ông bà của ai thì người nấy rước, dễ gì ông bà mình chịu về nhà khác ăn Tết, dù cho mâm cao, cỗ đầy hay thênh thang võng lọng, phải không cháu ?
– Dạ, bác giáo nói phải. Còn đất đai vương trạch là ai mà cháu chưa bao giờ nghe nói tới ?
– Dân chúng miền quê tin rằng đất có Thổ công, sông có Hà bá. Đó là hai vị thần bảo vệ đất nước cho họ yên ổn làm ăn.
– Cháu thấy nhà có mấy quài chuối chín vàng hực, trông rất đẹp mắt, ngon lành, sao mình không đem chưng cúng ?
– Ngày Tết chỉ chưng những loại trái cây tượng trưng cho sự tốt lành như mãng cầu gai, mãng cầu ta, đu đủ, xoài cát … đó là bộ ba “cầu đủ xài”, hoặc trái sung nói lên sự “sung túc”. Trái chuối dù tươi tốt cách mấy nhưng nói trại đi là “chúi”, có nghĩa là “chúi xuống” hay “cất đầu không lên”, chẳng mấy người dám chưng trên bàn thờ.
Tôi còn hỏi nhiều câu khác, việc nào cũng được bà Hạnh trả lợi có lý, có tình, tôi cảm phục vô cùng, phục người đàn bà hiểu nhiều, biết rộng, giàu tình thương và nghị lực.
Thu ít nói, nhưng những gì thốt ra đều cẩn trọng, chính xác. Theo lời Long, Thu tốt nghiệp trường Sư Phạm Vĩnh Long năm vừa qua và về dạy trường Tiểu Học Tân Hiệp để gần mẹ và em. Người nhỏ nhắn, tóc đen nhánh chấm vai, mặt trái xoan, nước da bánh ếch. Ở Thu tôi bắt gặp những e ấp, thẹn thùa của một nữ sinh, một cô giáo mới, nét đẹp của Thu kín đáo, tự nhiên, không phấn son, không đài các, chen lẫn vẻ nhu hòa thùy mị Á Đông hợp cùng sự tươi vui, thanh nhã của loại người ưa thích hoạt động.
Trong bữa ăn cơm chiều, tôi và Thu ngồi đối diện, nàng ngượng nghịu, mất tự nhiên, rồi một phút tình cờ bốn mắt chúng tôi gặp nhau, nàng bẽn lẽn cúi đầu, gò má ững hồng. Chúa ơi ! Phật ơi ! Có biết lòng con đang mở hội hoa đăng. Thu chỉ ăn một chén cơm rồi buông đũa chạy xuống bếp.
Sau bữa cơm, Hổ dắt tôi đi xem cái rộng chứa đầy tôm càng râu xanh đỏ ở cái mương sau nhà, mấy khạp da bò chứa cá lóc, lươn, cá trê … cùng với mấy rỗ khô lươn, khô cá lóc ướp xả ớt, tàu vị yểu bông sen … đó là những thứ do chính tay Hổ tát mương bắt được.
– Tát mương bắt bao nhiêu cá tôm đó chắc phải vất vả lắm hả ?
– Hồi xưa cực vì phải dùng sức người với thùng thiếc hay gàu giai, nay có máy Kohler bốn ngựa làm hết, nên khỏe re.
Hổ tiếp tục chỉ tôi nồi thịt kho nước dừa xiêm, mấy thố dưa cải tùa xại, dưa hành, dưa giá, dưa kiệu, dưa đầu heo, cơm rượu … mấy rỗ bánh phồng, bánh tráng mè, bánh tráng ngọt. Rồi còn những múi mứt mãng cầu trắng tinh có hột đậu phộng ở giữa, thố chuối khô ngào đường tươm mật vàng tươi điểm những mảnh đậu phộng trắng ngà, keo thủy tinh đầy mứt gừng, mứt bí, mứt hạt sen, mứt chùm ruột, mứt dừa, mứt cà chua, mứt chanh, mứt ớt …
– Mấy thứ nầy do chị em làm.
– Thu khéo dữ vậy à !
– Chẳng những làm ăn mà còn bán nữa chớ. Gái Nha Mân mà, anh không nghe người ta nói sao ?
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.
Đêm Ba Mươi Tết về ở miệt cù lao. Bầy đom đóm lập lòe trên đám bần, bụi dứa gai ven sông. Từ những máy dầu, máy xăng phát điện, đèn măng xông mỗi căn nhà, ánh sáng ấm cúng hắt ra khoảng đường cái vắng vẻ, chia cắt đêm đen trừ tịch âm u ra từng phần nhỏ, mặt nước sông bằng phẳng cùng với ánh đèn phản chiếu tạo cho tôi cái ảo giác dòng sông là một đại lộ thênh thang với hai hàng trụ đèn thẳng tắp.
Bên cạnh nồi bánh tét sôi sùng sục và trên chiếc đệm bà Hạnh và Thu đang gói nốt những đòn bánh tét cuối năm. Tôi, Long và Hổ uống trà tàu, nhai mứt gừng, nói chuyện năm cũ, ngày mới. Sau mấy lần trộm nhìn đôi má ửng hồng của Thu bên ánh lửa đêm Xuân, tôi chợt thấy lòng mình chùng lại, từ bấy lâu, những tranh đấu, bon chen, công danh, sự nghiệp … đã làm tôi luôn bận tâm, những thứ đó tối nay đi đâu mất hết. Tôi nghĩ gì ? Muốn gì ? Phải chăng tôi mong ước có một cuộc đời thanh đạm, an bình ở miệt vườn, một người vợ như Thu, một mái ấm …
Long lôi tôi về thực tại :
– Ba à, mầy còn nhớ bác năm Thơ mình gặp sáng hôm qua bên chợ Nha Mân hông ?
– Nhiều người quá làm sao tao nhớ hết ? Tao chỉ còn nhớ anh Năm, anh Sáu và chú Tư lái đò. Bác năm Thơ là ông nào ?
– Cái ông đồ viết liễng đó mà.
– Ờ ! Tao nhớ rồi ! Ổng mặc áo dài, bới tóc, đội khăn đóng, ăn trầu, mài mực Tàu viết liễng trên giấy hồng đơn. Mà hai câu liễng ổng viết cho gia đình mầy hay lắm, để tao nhớ lại coi, » Đa tử, đa tôn, đa phú quí. Tấn tài, tấn lợi, tấn bình an « , phải hông mậy ? Nét chữ ổng thiệt là như rồng bay phượng múa. Mà tao thấy đâu có mấy người mướn ổng viết liễng, Tết còn vậy, ngày thường ổng làm sao sinh sống ?
– Ờ ! Mầy nhớ đúng rồi. Mà nhìn ổng viết liễng mầy có liên tưởng tới bài thơ Ông Đồ không ?
Thôi thằng Long hỏi ngay « tủ » của tôi rồi, thơ thì tôi chỉ biết có vài bài, trong đó Ông Đồ là một.
– Có, có chớ ! Mà tao thuộc lòng bài Ông Đồ như cháo cá nấu nhừ, để tao đọc cho mầy nghe.
…
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay …
Long hỏi :
– Tác giả bài nầy là ông Vũ…Vũ gì hà ?
Tôi đáp ngay không cần suy nghĩ :
– Vũ đình Liên, mà ông ấy chỉ có bài Ông Đồ nổi tiếng, còn mấy bài khác cũng thường thường thôi.
Bà Hạnh gói xong đòn bánh tét cuối cùng, bà đứng dậy đi ra nhà sau.
Có lẽ bài thơ Ông Đồ gải đúng chỗ ngứa của Thu nên cô phát biểu gọn ơ :
– Anh Ba thuộc thơ lại nhớ tên tác giã, chắc túi thơ nặng lắm anh có thể cho bà con nghe thêm vài bài thơ Xuân anh thích ?
Tay tôi gải đầu, miệng thầm than khổ. Gieo cái nhân thì gặt lấy hậu quả, từ chiều đến giờ tôi cố ý chọc Thu mở miệng nhưng nàng im tiếng, bây giờ Thu lên tiếng thì tôi muốn cứng họng. Tôi biết mình đang ở thế cởi cọp, bằng mọi cách phải cố mà gỡ gạc, không thể để mất mặt với cô giáo vườn nầy.
– Cô Thu cho tôi suy nghĩ một chút nhé.
Tôi soát lại bầu rượu và túi thơ của mình. Bầu rượu thì coi như bể rồi, tửu lượng tôi còn kém xa bà con miệt vườn mấy bực. Túi thơ thì sắp lủng đáy. Văn, thơ, nhạc thứ nào tôi cũng yêu, nhưng mỗi thứ chỉ thuộc vài bài, đoạn còn đoạn mất. Như thơ, ngoài Ông Đồ tôi chỉ nhớ Tình Già của Phan Khôi, trời xui đất khiến hôm nay Long hỏi đúng một trong hai nên tôi mới cà khịa được. Bây giờ đào đâu ra bài thơ Xuân ? À ! Thôi tôi nhớ ra rồi, hồi năm ngoái tôi và thằng Khải thua bài xiểng niểng, mới sáng mùng Hai Tết đã sạch túi, đành phải đứng dựa lan can lầu Đại Học Xá, nhìn bà con nườm nượp du Xuân, thằng Khải bất giác ngâm nga hai câu thơ, thấy đúng tâm sự mình tôi khen hay, còn hỏi hai câu thơ đó ở đâu mà ra. Khải nói đoạn thơ tả tình cảnh Dũng trong Đoạn Tuyệt.
Tôi liền tả oán :
– Như Thu biết chúng tôi là những sinh viên xa nhà trọ học, có năm vì hoàn cảnh đặc biệt không thể về quê ăn Tết, buồn lắm, thế nên hai câu thơ tiền chiến trong Đoạn Tuyệt tả tâm trạng bơ vơ của Dũng những ngày cuối năm được chúng tôi yêu mến nhứt vì cùng một tâm sự với chúng tôi.
Giũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón Xuân sang.
Đọc xong hai câu thơ, tôi thấy Thu có vẻ mơ màng, cảm động, chắc trong bụng nàng phục lăn tôi, tôi thừa thế tấn công :
– Giờ tới lượt cô giáo cho mấy thằng học trò già thưởng thức vài đoạn thơ Xuân nhé !
Thu nhỏ nhẹ, chậm rải :
– Nhà thơ tiền chiến Thu thích nhứt là Chế Lan Viên, thơ » Xuân » của ông rất lãng mạn và cay đắng.
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Ai xui Xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…
– Bây giờ Thu còn thích Chế Lan Viên ?
– Thưa không.
– Lý do ?
– Mời anh nghe thêm một đoạn trong bài » Xuân «
Có những người nghèo không biết Tết
Mang lì chiếc áo độ Xuân tàn
Có đứa trẻ thơ không biết khóc
Vô tình bỗng cất tiếng cười vang…
Theo ý Thu, thời tiền chiến, đoạn thơ trên cùng với nhiều đoạn văn, bài thơ có nội dung tương tợ nhằm mục đích mô tả sự cơ cực của người dân dưới ách phong kiến thực dân, tác giả là Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… Ngày nay cũng với nội dung trên, đoạn thơ mô tả cảnh không biết Tết của hàng triệu người Việt Nam nghèo khó ở khắp hai miền Nam Bắc, mà thủ phạm chính là những nhà thơ tiền chiến và chế độ cộng sản Hà Nội của họ, kẻ phát động cuộc chiến bành trướng chủ nghĩa cộng sản, xâm chiếm miền Nam tự do, gây biết bao tang thương đổ nát trên quê hương. Làm sao Thu có thể tiếp tục yêu mến họ như xưa được phải không anh ?
Thu làm tôi bối rối, nàng đọc thơ rồi phê bình thơ, chuyện văn chương bước qua chuyện chánh trị, tôi bị hụt chân, không theo kịp nàng. Tôi chưa kịp phản ứng thì có tiếng pháo chuột lác đác nổ từ xa, Long hối mọi người đứng dậy đi dựng nêu và đón mừng giao thừa.
Đời sống miệt vườn
Những ngày vui Xuân ở cù lao Tân Hiệp đối với tôi là một chuổi ngày hoan lạc. Tôi đi tắm sông, tắm cồn, bơi xuồng, chèo ghe, chạy máy đuôi tôm, thăm những vườn ổi xá lị sai quả, nặng cành, vườn cam quít tuy đã hái hết trái nhưng rõ ràng là phì nhiêu, sung túc, những cánh đồng thơm mùi rạ, mùi lúa chín… Tôi trò chuyện với Thu và đón nhận những ánh mắt chứa chan cảm tình của nàng để tâm hồn bay bổng lên chín từng mây, để mộng tưởng, ước mơ một ngày mai không còn xa cách.
Và tôi phải nói ra đây thêm chuyện nhậu nhẹt, ngày nào cũng vậy, tôi hầu như « sáng xỉn, chiều say, trưa lai rai, tối tỉnh say nhậu nữa« . Tôi dự tính đi thăm hết bà con Xóm Vàm, Xóm Giữa và Xóm Trong, nhưng tôi và Long đã không ra khỏi cái Xóm Giữa có quá nhiều « ải rượu », say ở đâu thì ngủ lại đó, tỉnh dậy đã có nhà kế bên đợi sẵn để nhậu tiếp tục.
Rượu và đồ nhắm ở miệt vườn, không những vào dịp Tết mà bất cứ lúc nào cũng dồi dào, gần như vô lượng, trong khi tửu và thực lượng của tôi thì có hạn. Rượu đế thượng hảo hạng, nấu bằng trăm phần trăm nếp, nước trong vắt, rót ra ly sủi bọt không ngớt. Rượu nếp than màu tím nhạt, trên trong dưới đục, hậu vị ngọt ngào, uống vô cảm thấy nhẹ nhàng, không cay, không nóng, nghĩ rằng uống không biết bao nhiêu mới say, nhưng rồi ngã lúc nào không hay. « Huýt ky bà quẹo » chế biến đơn giản và nhanh, đổ một lít rượu đế và hai trái dừa xiêm vô một cái thau, quậy đều, thêm một cục đá lớn, uống rất êm, không cháy cổ như rượu chưa pha, ngọt và mát lạnh, nhưng « quẹo » cũng rất nhanh và êm ái. Rượu mít, rượu chuối hay « lão tửu » cần sự chế biến công phu hơn, mít nghệ hoặc chuối cau chín lột võ, phơi cho heo héo đoạn nướng trên than hồng đến khi vừa cháy xém, ngâm với rượu nếp khoảng hai ba tháng trước khi uống. Rượu mít vàng, trong vắt, lão tửu trắng đục, cả hai thứ trái cây nầy làm nên một loại thức uống đặc quẹo, ngọt và thơm. Rượu đậu nành, hổ cốt, tắc kè, chanh, sa kê… loại nào uống cũng khoái khẩu, nhiều lúc trong tiệc rượu, tôi ước mình được như một Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung, uống thật nhiều cho đã ông thần khẩu, rồi rượu chạy theo đường « nhất dương chỉ » phát tiết ra ở đầu ngón tay, để tôi được uống mãi, uống mãi, uống thêm nữa, cái tình cảm hiếu khách, chân thật của người dân miệt vườn.
Tôi không thể kể ra hết mười mấy tiệc rượu mà tôi đã tham dự, sợ mất thì giờ của quí độc giả, lại cũng sợ làm mình nhớ và thèm, nên chỉ kể ra đây một tiệc tiêu biểu.
Lúc đó là mười một giờ đêm mồng một Tết, chúng tôi đến nhà anh hai Thanh. Dưới ánh đèn điện phát ra từ chiếc máy dầu Yanmar, anh chị hai đang coi vô tuyến truyền hình, mấy đứa nhỏ không có ở nhà, có lẽ đang đánh bài cào con ở khu vực đình làng. Trên bộ đi văng cẩm lai, bốn vị « anh hùng » nằm ngủ ở vị thế không mấy ngay ngắn, chắc vừa trải qua một trận « tửu chiến » kinh hồn.
Anh hai thân tình:
– Bốn cha nội đây say quá về nhà không nỗi, tôi uống với mấy ổng sơ sơ hết gần ba lít rượu mít, tôi cũng mới đánh một giấc vừa thức dậy coi truyền hình với bà xã thì hai chú tới.
Anh hai lên đèn, thắp nhang trên bàn thờ để Long mừng tuổi ông bà, chị hai đi xuống bếp. Tôi nghe tiếng động dao, động thớt, mò xuống chơi, thấy chị hai đang dùng nhánh tre lụi qua thân hai con cá lóc bự. Chị xốc đứng nhánh tre trên nền đất sau nhà, lấy rơm phủ kín cá rồi châm lửa đốt. Khi lửa bén rơm, chị bắt hai con lươn vàng từ khạp da bò, đập đầu, vuột nhớt với tro bếp, rửa sạch, mổ bụng lấy ruột, rồi nướng trên than hồng để làm món lươn xé phai trộn gỏi dưa ngó sen và rau răm. Cách chị làm việc nhẹ nhàng, rụp rụp. Lươn vừa đặt lên bếp thì hai con cá lóc cũng vừa chín tới, gạt bỏ lớp vảy cháy xém bên ngoài để lộ thớ thịt trắng tinh, chị xẻ cá làm đôi theo đường sống lưng, bỏ mở hành vô.
Cá lóc nướng cuốn với bánh tráng, rau thơm, rau cần ống, rau vấp cá và đọt điều, chấm nước mắm me. Anh hai lôi một chai rượu thuốc từ trong tủ ra. Thấy rượu hơi lạ, tôi hỏi:
– Rượu gì vậy anh hai ?
– Rượu thuốc ngâm bìm bịp.
– Thuốc gì ? Bìm bịp là con gì ? Rượu thuốc ngâm bìm bịp có công dụng gì ? Cách chế biến ra sao ?
– Bìm bịp là giống chim rất khỏe mạnh ở miệt nầy, bắt cá tôm ngoài ruộng, dưới sông rạch, làm ổ trên cây cao. Loại chim bìm bịp có hai đặc điểm, thứ nhứt, hót khi nước bắt đầu lớn, nói rõ hơn là chúng kêu inh ỏi khi thủy triều lên, thế nên ca dao miệt vườn có câu:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo trống mỏi mê.
Đặc điểm thứ hai của giống bìm bịp là có khả năng dùng dược thảo thiên nhiên chửa bệnh gãy xương rất hữu hiệu. Lợi dụng đặc tính đó, nông dân trèo lên cây cao, tới tận ổ chim bẻ chưn bìm bịp con hay bìm bịp ra ràng, chim mẹ thấy con bị thương sẽ đi tìm thuốc về băng bó, thuốc rất công hiệu, chỉ trong vòng năm bảy ngày là chỗ xương gãy lành lại như thường. Nông dân bắt bìm bịp ra ràng ngâm rượu, thuốc ở đây là dược thảo thiên nhiên đã ngấm vào cơ thể bìm bịp con. Rượu thuốc ngâm bìm bịp, phải ít nhứt là một năm, giúp chống lạnh, xương cốt dẽo dai, tăng cường sinh lực, ngừa phong thấp. À ! Mà mấy ông kỳ lão khuyên chỉ nên uống mỗi ngày một ly nhỏ thôi, nhứt là mấy người trẻ tuổi, dồi dào sinh lực, lại chưa có gia đình như hai chú uống nhiều rượu nầy sẽ bị… hà hà.
– Bị, bị… gì vậy anh hai ? Phải bị tẩu hỏa nhập ma hông ?
– Chú nói cái danh từ gì nghe có vẻ mới mẻ, thành thị quá, anh không hiểu, nhưng chắc cũng… gần gần như vậy !
Khi anh hai rót ly rượu thứ hai, tôi thắc mắc:
– Mấy ông kỳ lão nói tụi em không được uống nhiều rượu nầy mà !
– Mèn ơi ! Tao nói chơi mà tụi bây tin được sao ?
Tới hôm ấy bìm bịp mới ngâm vừa tròn ba tháng, phần chị hai làm món nhậu quá hấp dẫn, phần nhiệt tình của anh hai, ba chúng tôi đã uống cạn chai rượu không chừa một tí nước cốt để ngâm lại lần thứ hai.
Ngày vui qua mau, ạch đụi rồi hạ nêu cũng tới. Trên chuyến xe đò về lại thủ đô Sài Gòn, có lúc tôi miên man nghĩ ngợi, không biết ông Vũ Bằng khi viết bài Chuột Đồng trong cuốn Món Lạ Miền Nam, ông có thật sự về tận miệt Long Xuyên lúa sạ, ăn thịt chuột và yêu mến người em gái miệt nước nỗi ấy. Riêng tôi sau chuyến đi nầy, tôi đã thật sự ưa thích phong cảnh ruộng vườn, quí mến tính chân thành, hồn hậu của người nông dân, « chịu » những món ăn đồng quê, và nhứt là… mê em gái miệt vườn.
Long đang ngủ gà ngủ gật, tôi đánh thức hắn dậy:
– Ê Long, tao cho mầy biết, tao sẽ cưới em gái mầy, nhưng dứt khoát không có chuyện kêu mầy bằng anh đâu nghen.
Long nhừa nhựa:
– Ừ ! Thì có sao đâu !
Long lại dựa đầu vô thành ghế ngủ tiếp. Tôi lay mạnh hắn:
– Mà dứt khoát cũng không có chuyện con của tao và Thu kêu mầy bằng bác đâu nghen.
Long đổ quạu:
– Mầy sao lôi thôi quá ! Để yên cho tao ngủ một chút coi ! Con mầy kêu tao bằng cậu chớ làm sao bằng bác được !
Cứ độ cuối thu sang đông, nhìn tờ lịch treo tường, người Việt đang sống bốn phương trời xa lạ đều nhớ về quê hương.
Người ở thôn quê trước đây thì nhớ hàng cau già in dáng gầy trên nền trời trong đêm trăng sáng, nhớ những tàu lá dừa lả ngọn ven sông, nhớ dề lục bình trôi lững lờ, nhớ hương bưởi hương cau, nhớ mùi rạ mới. Chao ơi, nhớ lắm, nhớ tiếng tu hú kêu vào buổi chiều gió chướng, nhớ tiếng chày vồ quết bánh phồng vào những ngày Tết, nhớ buổi lặt lá cây mai vàng trước sân cho kịp nở đầu Xuân, nhớ đến đôi liển dán trên cột trước hàng ba, mực đen ánh trên giấy hồng điều, nhớ những buổi trưa ngồi trên bờ rạch chờ xuồng của mẹ đi chợ Tết về…
Người ở thành thị nhớ chợ hoa nhộn nhịp, áo màu khoe sắc với hoa tươi, nhớ những đống dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng chất cao như núi nhỏ dọc theo bến chợ có nhiều gian hàng bánh mứt ồn ào chen chúc kẻ bán người mua, nhớ mấy sạp báo khác hẵn ngày thường vì có treo quanh sạp nhiều tập báo Xuân đủ màu đủ cở.
Bao nhiêu nỗi nhớ in sâu vào tiềm thức đã được nhiều bạn ghi lại trên giấy suốt mấy năm qua để thương về quê cha đất Tổ. hôm nay tôi xin gởi đến các bạn kỷ niệm về báo Tết, báo Xuân.
Hàng năm, báo chí Việt có thông lệ ra tập báo Tết. Tôi nhớ từ năm 1943, 1944, vài tờ báo ở Hà Nội đã có ra số đặc biệt Xuân với bìa và phụ bản vẽ bóng bẩy của Họa sĩ Tô ngọc Vân, Thịnh del…
Thời kỳ đó phụ bản màu in bằng lithographie (thạch bản) được ba , bốn màu với nét chấm (trame) đậm nhạt đã là tác phẩm nghệ thuật tiến bộ rồi. Độc giả hoan nghinh những hình ảnh cô thiếu nữ áo lụa trắng, búi tóc buông lơi đen huyền, má hồng môi đỏ đứng dựa gốc đào, tựa là Hoa đào trước gió hoặc cảnh Hái lộc đầu Xuân với đền Ngọc Sơn đông người chen chúc, cầu Thê Húc màu son với nhiều thiếu nữ xanh đỏ, ai ai cũng thích (ờ mà lạ thật, cứ vẽ tranh là họa sĩ vẽ thiếu nữ).
Lúc bấy giờ, tôi đã 14 tuổi. Ba tôi và chị tôi là độc giả thường trực của Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ Thông bán nguyệt san, nên những hình ảnh số Xuân năm ấy không thiếu trong nhà, riêng tôi đã có những tập cho thiếu nhi như Sách hồng, Hoa Mai, Cậu ấm cô chiêu, Truyền bá, dù khuôn khổ nhỏ vẫn có bìa ba màu xanh, đỏ, đen do họa sĩ Nguyệt Hồ trình bày.
Mỗi tuần tôi bồn chồn đến nhà sách quen thuộc của tỉnh Châu Đốc để chờ tập báo thân yêu đến từ Hà Nội cách xa gần 2000 cây số, và khi chiếc xe đò quen thuộc ngừng trước cửa tiệm, biết có sách mới về, tôi đã có mặt để sau đó ôm tưng tiu tập sách, không đọc vội, sợ bay mất hơi hướng giấy mực nhà in. Mùi thơm của giấy đã in sâu vào lòng nên đến năm 1947, từ miền Tây ba tôi cho lên Sài Gòn học vẽ họa đồ công chánh, tôi lại vào trường Mỹ Thuật Gia Định học vẽ trang trí, ấn loát… chỉ vì trót mê các phụ bản của các anh họa sĩ lúc bấy giờ là Hưng Hội, Thế Chương. Những phụ bản báo Thần Đồng do anh vẽ đã thúc giục tôi lao vào báo chí hồi nào không hay.
Năm Canh Dần ghi sâu kỷ niệm bằng tờ báo Xuân đầu tiên : tờ Xuân Tuổi Trẻ. Tờ nầy do một số học sinh trường Mỹ Thuật « hùn tiền » để ra mắt bàng dân thiên hạ.
Tâm trạng chúng tôi lúc đó, đứa thì khoái tranh khôi hài, đứa được vẽ bìa màu, đứa nạo óc non để « có bài đăng báo » hầu góp mặt trên… văn đàn với đàn anh, nên tiền cơm tháng, tiền ăn quà biến thành 2000 số báo Xuân năm đó.
Sau khi phân công, tôi gò gẫm nắn nót về chuyện Táo quân, anh Nam có khiếu « nhớ thơ » của người, phụ trách mục Thơ thẩn, đang nhìn trần nhà, miệng rên ư ử :
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau..
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu…ư…ư…
Nghe anh đọc chán lỗ tai mà chưa thấy anh viết được câu nào, giấy vụn bỏ đầy bàn.
Anh Lâm Tư, người nhỏ loắt choắt nhưng là kẻ đứng đầu lớp môn vẽ hoa-lá-thú-chim nên được vinh dự vẽ bìa. Anh chàng ít nói nhưng rõ ràng đôi mắt sáng rực niệm kiêu hãnh « được vẽ bìa báo Xuân ». Sau bốn đêm bôi bôi, xóa xóa dưới ánh đèn dầu, cái bìa được cả bọn gật gù tán thưởng. Đó là hình con cọp đang nhe nanh, mình vàng rằn đen. Đôi mắt cũng ngầu lắm !
Bọn tôi ngây thơ cứ tưởng sáng tác học được ở trường cứ đem áp dụng cho ấn loát, dễ quá, nào ngờ khi đem đến nhà in, họ nói vẽ kiểu nầy khó thực hiện, phải đơn giản nét lại để làm cliché in ty-pô.
Thời kỳ đó ngành ấn loát tại Sài Gòn chưa biết phân lọc màu theo phương pháp ốp-sết (offset). Muốn đạt được như hình mẩu phải gở qua tận Hồng Kông, tiền chỉ có bấy nhiêu nên chúng tôi phải chịu sửa lại và khi in xong, bìa Xuân cũng màu mè, đen vàng như ý muốn, nhưng trông con cọp yếu xìu, quờ quạng… Không sao, cũng là Canh Dần mà !
Chắc chắn nội dung và hình thức nếu so với ngày nay thì thua những đặc san của các bạn trẻ ở đây với kỹ thuật ấn loát cao, tài liệu dồi dào, nhưng tờ báo Xuân của chúng tôi cũng đã tạo niềm phấn khởi cho 9 học sinh suốt tháng 10, tháng 11 và mãi đến ngày 23 tháng Chạp năm đó mới… xẹp đi phần nào.
Ngày 23 tháng Chạp, ngày đưa ông Táo về chầu Trời, chúng tôi đến nhà anh Ngũ văn Bằng, đại diện nhóm giao dịch với nhà phát hành Nam Cường để lấy tiền, với hy vọng tràn trề : năm nay mua quà Tết về cho gia đình bằng tiền mình tạo ra và sẽ mang tác phẩm về quê cho các bạn ở Long Xuyên, Châu Đốc « lé chơi ».
Chín đứa chúng tôi ngỡ ngàng nghe báo cáo báo bán lẻ Sài Gòn có 25 số, các tỉnh phải qua Tết mới thanh toán, và đến ngày nay chưa thấy nhà nào đòi gởi báo thêm.
Chết cả đám chưa ! Tưởng đâu in 2000, bán sơ sơ cũng trên 1000 số, trừ tiền huê hồng thì có tiền về xài Tết huy hoàng, ai dè tiền bán 25 số báo, trừ đi 50 phần trăm huê hồng cắt cổ của nhà phát hành, chúng tôi chỉ còn đủ tiền ăn đậu đỏ bánh lọt ở Đa Kao để chia tay về quê ăn Tết.
Nhưng chúng tôi còn được an ủi vì mỗi cậu ôm về cả xấp báo để tặng bà con bạn bè quê nhà để được khen: Chà ! Thằng nầy cũng làm báo ! Vả lại cũng còn hy vọng qua Tết trở lên Sài Gòn thâu tiền đợt sau…
Chợ Châu Đốc chỉ có hai nhà sách và một sạp báo. Nói là sạp báo cho oai vì cuối năm, vào dịp bán báo Xuân mới xuất hiện sạp nầy tại bến xe. Về sách, tạp chí, nhà xuất bản từ Hà Nội gởi vào chi nhánh tại Sài Gòn để nơi đây phân phối để nơi đây phân phối xuống các tỉnh, riêng về báo ngày lúc bấy giờ chỉ có mấy tờ: Thần Chung, Đuốc Nhà Nam, Phục Hưng, Tin Điển… hàng tuần có Tiếng Chuông nên dân Châu Đốc khao khát đón chờ mỗi ngày vào khoảng một giờ trưa. Họ chờ chuyến xe từ Sài Gòn về.
Phải nói là dân chúng xa thủ đô thèm đọc tin tức chiến sự, tin trong nước của báo Đuốc Nhà Nam cũng lắm mà chờ đọc truyện Châu về Hiệp Phố của nhà văn Phú Đức đăng trên báo Thần Chung thì nhiều. Thời gian nầy chưa có truyện chưởng của Kim Dung nên truyện Châu về Hiệp Phố ăn khách với những hồi đánh võ gay cấn, bắn súng lục bách phát bách trúng của Hiệp Liệt (một Zorro của thời bấy giờ).
Độc giả chán ghét những cuộc bố ráp của quân đội viễn chinh Pháp, chống đối ngầm bằng cách tìm đọc trên báo chí để bàn tán quanh ly cà phê những chuyện ly kỳ hồi ký của Sơn Vương, chúa đảo Côn Nôn năm 1945, những chuyện thương tâm trong lao tù của tù nhân chánh trị vừa qua, những chuyện dọc ngang một thời của lãnh tụ Bình Xuyên, Ba Dương v,v… và chàng hiệp sĩ tên Hiệp Liệt với đứa đầy tớ tên Lục Tặc đã làm khoái chí họ, tờ báo Thần Chung được tranh nhau mua sớm.
Dịp nầy cũng nên nhắc đến hiện tượng lạ trong giới xe đò miền Tây lúc bấy giờ: để làm vừa lòng khách muốn đi mau, về sớm và phục vụ độc giả mê báo, các ông chủ xe đò Đại Đồng và một hiệu xe khác tôi quên tên ra giải thưởng bằng tiền mỗi ngày cho anh tài xế nào lái xe từ Sài Gòn về đến bến sớm nhứt. Cũng may lúc đó xăng tốt không pha tùm lum, bánh xe cũng ngon lành nên mặc dù các bà lớn tuổi thấy xe chạy ào ào tranh nhau qua mặt để đến bắc Mỹ Thuận, Vàm Cống khỏi bị kẹt công voa (convoy: đoàn xe nhà binh có hộ tống) các bà chỉ biết niệm Phật, cầu Chúa cho tai qua nạn khỏi suốt lộ trình 250 cây số, đâu dám phản đối các bác tài trẻ tuổi vừa thích tiền thưởng vừa muốn được tiếng chạy giỏi, chạy hay của… tỉnh nhà.
Vì vậy ngày thường đâu cần sạp báo nầy, chỉ khi nào quanh nhà lồng chợ mọc lên những gian hàng Tết là bến xe có thêm sạp báo Xuân.
Tôi đạp xe qua lại để tìm « tác phẩm » của mình và cảm thấy râm ran trong lòng khi thấy tập báo nhỏ nằm khiêm nhường cạnh mấy tờ Xuân khuôn khổ to lớn hơn. Nói là khiêm nhường vì nó được xếp cạnh những tập có bìa màu xanh đỏ tươi tắn thì nó trông giống một tạp chí thường nếu không để ý thấy con cọp nhe nanh và chữ Xuân Tuổi Trẻ.
Ngày nào tôi cũng đi qua đó để thấy những tập Thời Cuộc, Thần Chung vơi đi mà Xuân Tuổi Trẻ vẫn phơi gan còn lại.
Một hôm tôi đánh bạo chỉ tờ Tuổi Trẻ hỏi bác bán báo. Bác ta vui mừng tưởng tôi mua, sau đó biết tôi hỏi thăm kết quả, bác cười thông cảm, trả lời:
– Cũng được ba số rồi !
– Trời hỡi ! Từ 20 tháng Chạp đến 29 Tết chỉ bán được 3 số !
Gia đình tôi và vài bạn được tôi cho báo, có đứa phục lắm và khen nữa (báo cho, đâu cầm mua mà lại chê sao) chỉ có chị tôi nói:
– Chị đọc thấy bài vở… ít quá, em à !
Cái Tết năm đó sao mà lâu hơn mọi năm, chắc các bạn tôi cũng trông mau tới ngày mùng 8, tựu trường lên Sài Gòn để thâu tiền báo.
Kết quả là chúng tôi vỡ mộng ban đầu của tuổi trẻ hăng hái « mê làm báo ». Chúng tôi chỉ lấy được tiền vài chục số báo ở đợt sau, đủ làm tiền mướn xe ba bánh chở gần 2000 tập báo Xuân, nói theo văn nghệ, văn gừng: « đứa con tinh thần đầu lòng » vào Chợ Lớn cân ký lô cho Ba Tàu, vớt vát số tiền nhỏ về trả tiền cơm tháng còn thiếu trước Tết.
Và nhờ bị thất bại, chúng tôi mới biết là dầu báo Xuân hay báo thường cũng đều cần có những quảng cáo của các hãng buôn, mới thâu lại phần nào tiền chi !
Chúng tôi hy vọng nhiều để thất vọng lớn, nhưng thất bại cũng phải, vì năm Canh Dần nầy, lần đầu tiên báo Xuân miền Nam in màu, khổ lớn.
Tờ Thời Cuộc của ông Đinh xuân Tiếu trình bày cô gái miền Nam, bới tóc, choàng khăn quàng cổ, gương mặt phúc hậu, màu xám nhạt, nền xanh hồng, in thạch bản tại Sài Gòn Ấn Quán. Báo lại có nội dung phong phú với nhiều cây bút già dặn như Thiên Giang, Thê Hút, Tam Ích, Quốc Ấn, Lê văn Ngôn… và độc đáo hơn là tờ Thần Chung của ông Nam Đình Nguyễn thế Phương, bìa báo được nhà in Hoa Dương o bế gởi sang Hồng Kông mướn làm bản phân màu và in bằng phương pháp ốp-sết tại … Chợ Lớn. Bìa là hình nguyên gương mặt cô gái má phính đều đặn, mặc áo dài hoa sặc sỡ. Các anh ba tàu retouche phân màu và được nhà in Chợ Lớn in nhiều màu hồng nên trông giống cô gái Tàu, nhưng vẫn hấp dẫn hơn những tờ vẽ nét, vả lại cái tên Thần Chung và bài trong ruột đã làm say mê độc giả dễ tánh sống trong nước bị lửa loạn đang nhìn về thế giới tự do mà thèm đi, thèm sống.
Suốt 36 trang ruột đầy hình đen trắng, thu thập trên các tạp chí Tây Âu như Paris Match, Life… với nội dung đường xa xứ lạ, sưu tầm các kỳ quan thế giới như con thanh sư trước Kim Tự Tháp Ai Cập, tháp nghiêng thành Pise, những chuyện lạ bốn phương như cô gái khổng lồ nặng 387 kí lô, người lùn nhứt thế giới… những chuyện không dính dáng tới Việt Nam, không có hình ảnh « nàng Xuân e lệ » đến thềm năm mới gì gì cả, nhưng tạo được sự thoải mái, lòng hiếu kỳ của độc giả.
Sau hai tờ nầy, tờ Tin Điển của cô Anna Lê Trung Cang có các cây viết cừ khôi là Nam Quốc Cang, Trần Tấn Quốc mổ xẻ thời sự, Thiệu Võ tường thuật thể thao, Ngọa Long, Việt Tha Lê văn Thử viết hồi ký, chuyện vui, tờ Khỏe của các anh Phan Như Mỹ, Thanh Đạm, Lê Quang Ngà chuyên về thao trường, hình bìa in ba màu vàng đen đỏ, vẽ một ngôi sao có sáu gương mặt lực sĩ đang nổi danh: võ sĩ Minh Cảnh, cầu thủ Phan Như Mỹ, tay vợt tơ nít Võ văn Bảy, bơi lội Nguyễn văn Phân, cây vợt bóng bàn Mai văn Hòa, cua rơ Lê thành Các… được giới trẻ khoái lắm.
Từ Tết tới mãn khóa năm đó, chúng tôi không dám nghĩ đến văn nghệ, tỏi, gừng gì nữa, nhưng chắc nghiệp dĩ của tôi phải ăn cơm nhà báo nên gần cuối năm đó tôi vẽ lại truyện bằng tranh: Sự tích ông Táo, mang đến báo Tiếng Chuông của ông Đinh văn Khai, lúc bấy giờ còn là tuần báo, vài tháng sau ra báo ngày. Ông là vị thầy đầu tiên đời làm báo của tôi. Ông nhận tôi làm họa sĩ cho nhà báo, chuyên vẽ tiêu đề, manchette, vignettes…
Tôi được gia nhập làng báo trong lúc báo Tiếng Chuông đang chuẩn bị số Xuân Tân Mão 1951, được sống chung với mấy ký giả lớn tuổi mà từ trước đến nay chỉ « văn kỳ thanh » chớ chưa được « kiến kỳ hình », tôi hãnh diện vô cùng.
Rút kinh nghiệm năm vừa qua, năm nay các báo chuẩn bị kỹ, cố gắng hết mình cho số báo Xuân để làm đà tiến cho số thường, nên các ông bà chủ báo âm thầm kiếm họa sĩ vẽ bìa và dặn trước nhà in không được cho ai biết hình dung bìa của báo mình.
Báo Tiếng Chuông do họa sĩ Thế Chương vẽ một thiếu nữ đẹp ngồi vuốt ve con mèo, phía trên là chữ Tiếng ChuôngXuân Tân Mão 1951 và bình hoa mai. Áo cô gái màu vàng, nền cũng màu kem, nên tờ báo trông sáng sủa lắm.
Tôi là thành viên chuyên nghiệp của nhà báo, nhìn thấy hình vẽ già dặn, màu sắc hài hòa và nét chữ cứng cát sắt nét của Thế Chương mới thấy mình còn là học sinh non. Tôi được giao nhiệm vụ vẽ tựa cho bài vở số Xuân.
Ông Phi Vân, tác giả cuốn Đồng Quê, giải nhứt cuộc thi văn chương của Hội Khuyến Học Cần Thơ 1943 là chủ bút báo Tiếng Chuông, hiền hậu, đạo mạo như thầy giáo, vì túi bụi lo cho báo, cắt xén bản tin, sắp xếp bài phóng sự điều tra, xào nấu cách nào cho hấp dẫn độc giả mà vừa khẩu vị các ông kiểm duyệt trên Nha Thông Tin, nên giao cho anh Phong Đạm phụ trách hẵn số Xuân nầy.
Phụ trách không phải viết hay tìm tòi tài liệu gì cả, mà chỉ lo gom các bài của ký giả, hoặc lựa, đọc kỹ những bài do độc giả gởi tới.
Tôi được sáng mắt khi thấy bài vở Xuân về rất nhiều, không như lúc trước chúng tôi mò mẫm, nạo óc non nớt để viết ra.
Phải nhận rằng lúc ban đầu tờ báo Xuân chỉ là đặc san cuối năm viết về đề tài Xuân do các ký giả của báo hằng ngày viết để có tiền thưởng của chủ báo ngày Tết, giống như tiền bonus. Chủ báo bày ra việc xuất bản để có dịp thâu lại phần nào tiền thưởng của mình, nào ngờ được độc giả hoan nghinh, sau đó thành thông lệ, cứ hàng năm còn hơn hai tháng nữa mới Tết, các cây viết chuyên nghiệp nghèo đã nghĩ đến đề tài cho bài Xuân và các ông bà chủ báo giàu như Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Phụ Nử, Thần Chung đã lo tìm họa sĩ để lôi cuốn bạn đọc.
Phải ở trong làng báo mới thương những ký giả nghèo chạy tiền Tết cho vợ con. Mới tháng Mười, ngoài thiên hạ chưa thấy gì rục rịch năm hết Tết đến, mà các anh đã lo thai nghén tác phẩm rồi. Các anh cũng dấu đề tài kỹ lắm, để bài mình được độc đáo hơn mới mong nổi tiếng chớ.
Báo Tiếng Chuông là báo bề thế, qui tụ nhiều ký giả có tiếng. Ngoài các cây viết nổi danh như Bình Nguyên Lộc, Tiểu Nguyên Tử viết bài gởi đến, ký giả thường trực tại nhà báo có Phi Vân, Việt Quang, Nguyễn Duy Hinh, Đoàn Hùng, A. Trung, Phong Đạm, Quốc Phượng. Để lo cho báo hàng ngày còn có các anh Phan Như Mỹ, Huyền Vũ, Nguyễn Ang Ca, An Khê, Ngọc Sơn, Thanh Thủy… viết bài và ghé qua tòa soạn lúc nào cũng được.
Anh Tiểu Nguyên Tử tức Luật Sư Dương Tấn Trương là cây viết chuyên về bài châm biếm hằng ngày. Bài viết cay độc nhưng dí dỏm, anh chơi chữ thật tài tình, bọn tham quan mọt nước, các tay hạm chuyên áp phe rất ngán anh mà vẫn phải cười thua. Còn nhiều anh nữa, nên lúc gần Tết, bài vở về Xuân gởi về nườm nượp, ông chủ nhiệm, ông chủ bút phải tách riêng một bộ phận chỉ chuyên lo về số Xuân, và phân công cho mọi người viết tùy theo cảm hứng của họ.
Những bài chung chung về đề tài bói toán đã có anh Huỳnh Liên, Anh Đỗ. Các anh tha hồ tán hưu, tán vượn cũng trúng đấy nhé, nên các bà, các cô mua báo Xuân để dành đọc tới, đọc lui suốt năm). Bài về hồi ký trong tù có cụ Võ Oanh, bài về các tay tổ rừng Sát có anh Tô Yến Châu với giọng văn bóng bẩy duyên dáng, những bài về thể thao, kịch trường có Phan Như Mỹ, Huyền Vũ, Nguyễn Ang Ca cứ xào nấu các thành tích trong năm của các lực sĩ rồi thêm danh từ, hình dung từ, động từ thật dao to búa lớn là độc giả thể thao mê liền. Kịch vui ngắn do Huyền Vũ viết rất dí dỏm, bố cục linh động. Những năm nầy, tên Huyền Vũ nổi bật với những kịch ngắn đăng trên Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới còn hơn Huyền Vũ nói trên đài phát thanh sau nầy.
Tôi đọc bài các anh để tìm ý vẽ tựa nên thấy các ký giả gởi bài đến sớm nhứt vẫn là những người viết đề tài: Năm Thìn nói chuyện Rồng, năm Mão nói chuyện mèo… Các anh lục lọi tìm tài liệu lịch sử kể lại những biến cố quan trọng, hoặc năm Thìn xa xưa có bão lụt, chuyện con mèo ngậm ngọc, con mèo đi hia… nhưng lại thương các anh viết đề tài Tết.
Nhìn anh ký giả ôm xấp bản thảo ngoài cửa bước vô, miệng cố cười nhưng méo xệch, có lẽ vì thức sáng đêm để viết cho xong, thiếu cà phê thuốc lá (vì nghèo), đầu tóc còn chưa chải, nhưng bài của anh: Xuân đã về với mọi nhà hoặc Cành mai nơi quê ngoại hoặc Nồi thịt hầm đêm ba mươi… Chao ơi ! Chạy ăn muốn hụt hơi, nhưng các anh nạo óc tưởng tượng để hiến cho độc giả hình ảnh vui tươi của ngày Xuân êm đềm…
Một hạng ký giả còn ngon lành hơn nửa là ký giả viết « cuộc chạy đua ». Các anh tự tạo ra cuộc chạy đua trong làng báo hoặc trong hàng ngũ nghệ sĩ. Dù là cuộc đua tưởng tượng nhưng phải dựa vào ít nhiều sự kiện có thật trong năm qua, anh thêm mắm thêm muối thế nào để cho độc giả đọc bài mà hình dung cảnh tranh đua trong giới. Ví dụ, « bà Bút Trà chạy xe đua qua mặt ông Đinh văn Khai nhờ bài báo không có thật mà rất giựt gân: Người đàn bà lấy khỉ tại… Cà Mau« , hoặc « ông Nam Đình vọt qua mặt các báo khác bằng bài bắt hạm của Nguyễn Duy Hinh: Con cọp ăn bạc ở Lăng Ông Bà Chiểu« …
Loại nầy là sở trường của Nguyễn Ang Ca. Anh quen nhiều, viết hay, né giỏi, viết đúng sự thật mà các đương sự trong cuộc không giận, nhưng vẫn bị nhiều người đẹp níu kéo… Người đẹp Kim Cương cằn nhằn: « Em hổng chịu viết em như vậy à nghen ! ».
Tôi vẽ tựa cũng đại khái theo tưởng tượng hình con mèo hay thôn nữ bên cành mai, tùy theo ý bài rồi viết chữ tựa lớn vào.
Một kỷ niệm nhớ mãi là lúc đó trình bày hai hay ba cột và hình vẽ thòng xuống một cột, trông giống cây súng sáu, cái nào cũng na ná như vậy. Có hôm ông Tam Mộc Mai Lan Quế, ba của bạn tôi, anh Mai Lan Phương, học trên tôi một lớp, đến chơi thấy tôi vẽ như vậy có phê bình: « cậu vẽ có một kiểu giống cây súng sáu vậy ! ». Mà đúng thật. Từ đó tôi trình bày đổi thay, có khi vẽ tựa và hình thẳng từ trên xuống. Ngoài tôi còn có họa sĩ Hiếu Đệ và Bạch Đằng vẽ tiếp. Họa sĩ Hiếu Đệ chuyên vẽ tranh sơn dầu mà lại vẽ hí họa rất bay bướm điêu luyện, họa sĩ Bạch Đằng vẽ chuyện tranh: Quang Trung đại phá quân Thanh…
Cuộc đua của các báo về số Xuân cứ diễn âm thầm suốt tháng Chạp. Báo lớn giàu có đã có nguyên một ban lo liệu và đủ tiền mua giấy bìa, giấy ruột in xong trước tháng Chạp, chỉ thương báo nghèo cũng ráng vay nợ mua giấy mướn in cho kịp ngày.
Ký giả chúng tôi đã ký « bông » lảnh tiền xài hết nhẵn mà năm vẫn còn cũ xì, đã thấy Xuân sang đâu. Lúc thấy còn ứ đọng bài vở, ban làm báo Xuân bèn có ý kiến: nên giải quyết nhiều bài hay, giá trị (hoặc vì độc giả gởi trễ hoặc do các an hem nhà sáng tác thêm) vào số báo tất niên và số tân niên 8 trang. Chủ nhiệm chịu liền, thế là các anh có dịp ký « bông » nữa. Cái « bông » nầy mới thật là hoa Xuân. Tôi đã ngồi ở ban quản lý Tiếng Chuông nhiều năm nên biết rõ cái « bông » ngày cận Tết của anh em trót mang nghề ký giả, ca tụng cái đẹp mùa Xuân mà nghèo nầy.
Đến ngày hai mươi tháng Chạp âm lịch, nha Thông Tin mới cho bán báo Xuân. Cả thành phố như nở hoa. Sạp báo nào cũng đua nhau căng dây chung quanh để treo bao Xuân rực rỡ. Có sạp ở Gia Định, gần Lăng Ông Bà Chiểu căng dây từ sạp qua gốc cây gần đó để người đi đường dù đi xe mau hay đi bộ chậm cũng thấy các cô gái trên bìa báo cười duyên với mình. Đêm đến, các sạp đốt đèn điện sáng trưng để bán tới khuya. Ai ai cũng thấy quang cảnh nhộn nhịp của người bán cười tươi chào mời, người mua không biết tập nào giá trị, tập nào đẹp.
Đúng là giới nhật trình ăn Tết sớm hơn các giới khác.
Theo lịnh chủ nhiệm, tôi đi vòng quanh Sài Gòn, Gia Định để thăm dò tình hình của báo nhà và thực lực của báo khác.
Đa số hình bìa vẫn là thiếu nữ, nhưng ấn loát tiến bộ hơn. Báo Thần Chung do họa sĩ Nguyễn văn Ky trình bày bằng phấn tiên (pastel) cô gái nhu mì, lại có thêm phụ bản màu hình Đức Mẹ Việt Nam (gương mặt, áo dài, khăn đội đầu Việt Nam) đứng trên quả địa cầu ban phước lành do thầy tôi là ông Bùi Kỉnh vẽ. Độc giả thích lắm chen vào mua vì báo có bìa mà lại thêm phụ bản đẹp để treo tường. Báo Sài Gòn Mới do Lê Trung vẽ cô gái áo dài màu xanh đứng dựa gốc cây chờ đò bên ven sông. Người đẹp của họa sĩ Lê Trung thì ngực nào cũng căng phồng nhựa sống, eo bụng nhỏ xíu, môi son mọng như trái nho ngon lành, và đặc biệt là cô nào cũng giống nhau.
Báo nầy bán chạy nhứt ở tỉnh vì dân chúng thích có hình màu đậm đà để trang trí cho tươi nhà. Độc giả Sài Gòn trầm trồ khen gái đẹp nầy ở vùng quê hay ở đô thành về ? Họ muốn theo người đẹp về bên sông nầy, nhưng chọn lựa mãi, họ lại mua tờ Tiếng Chuông hoặc Việt Thanh của ông Văn Hoàn. Năm nay có nhiều báo xuất hiện do những cây viết tên tuổi đảm nhiệm. Có những tập giai phẩm Xuân không cần hình thiếu nữ cười duyên mời mọc nhưng bài vở súc tích như Nhân Loại, Đời Mới của cụ Trần văn Ân vẫn được độc giả tìm mua.
Độc giả khó tánh đứng bên sạp báo lựa mãi, so sánh… Toàn là độc giả, tôi không thấy anh ký giả chuyên nghiệp nào léng phéng bên sạp báo như tôi năm vừa qua ở Châu Đốc thập thò tìm tác phẩm của mình. Các ký giả đang chạy đua với thời gian để lo Tết cho gia đình và chuẩn bị số tân niên từ ngày… còn trong năm. Chỉ có các ông bà chủ báo giàu hỉ hạ chờ anh cập rằng báo ôm cặp tiền đến thanh toán (cho báo phát hành tại thủ đô). Báo phát hành dưới tỉnh sẽ được thanh toán sau Tết.
Riêng tôi cố tìm trong số lượng báo chí bày lên sạp báo có bao nhiêu tập san Xuân của nhóm thanh niên say mê tiếng gọi của báo chí ? Chắc chắn năm nào cũng cá một vài tập san mang hoài bão lớn lao của tuổi trẻ, hy vọng góp mặt với trường văn trận bút, nhưng tiếc lắm, đa số đều phải « trả góp » tiền nợ khi qua giêng.
Nhưng giới nào cũng vậy, « thất bại là mẹ của thành công » nên phải có những tập san nhỏ dò dẫm ban đầu mới mong thâu thập kinh nghiệm để làm ra tập báo lớn sau nầy. Giới cầm bút có rất nhiều ký giả tên tuổi đã từng xuất thân ban đầu bằng giai phẩm nhỏ.
Theo chu kỳ, sau năm Mèo đến năm Thìn, sau Thìn đến Tị… Mỗi năm có ý mới thay ý cũ, vậy mà những đề tài nồng cốt kể trên vẫn đại khái như vậy: năm Tị kể chuyện rắn, năm Ngọ kể chuyện ngựa… chỉ có hình bìa cải tiến không ngừng. Họa sĩ Lê Trung được ăn khách nhờ tranh vẽ hấp dẫn thêm mấy năm sau phải nhường cho hình chân dung phụ nữ đẹp của nhà nhiếp ảnh Tân Mỹ, Bình Minh rồi sau có Đống Đa.
Trước tiên là hình nghệ sĩ điện ảnh Thu Trang, Trang Thiên Kim, Kim Vui, Mỹ Lệ Hoa của ban vũ Lưu Bình, Lưu Hồng… rồi đến Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Khánh Ngọc… Ôi ! Bao nhiêu vẻ đẹp, bao nhiêu nét khả ái, thùy mị, hấp dẫn, nhí nhảnh… năm nào cũng được đưa lên mặt báo Xuân để khách đi đường vào những ngày cuối năm được bao nhiêu người đẹp chào đón, mời mọc trong lúc họ chạy tiền Tết cho vợ con muốn hụt hơi.
Hổng lẻ cứ người đẹp làm bìa hoài sao ? Mà đố có ông bà chủ báo nào dám đưa gương mặt hay thân hình phái nam lên bìa Xuân, dù có tiếng như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Vân Hùng… nên khoảng năm 1958, 1959 các báo đổi phụ bản thành bản đồ Việt Nam, bản đồ Thế Giới với hình lạ đẹp, in màu sắc rõ ràng, có thể treo nhà, vừa để coi, vừa để học.
Từ sau cuộc di cư 1954, văn nghệ sĩ miền Bắc, Trung nhảy vô làng báo. Nhiều cây viết, nhiều sáng kiến độc đáo, nên độc giả báo Xuân bị chia manh xẻ mún, các báo trước kia không còn làm mưa làm gió nữa. Có năm bìa báo Xuân không là cô gái đẹp mà là bức tranh dân gian nghệ thuật như tranh lợn, hái dừa. Các báo cũng cố gắng giữ nếp cũ, không để độc giả thiếu quà tặng, nên thay cho phụ bản Bản đồ là cuốn lịch 6 tờ hoặc một tờ lịch lớn. Độc giả lại hoan nghinh vì vừa có báo đọc vừa có nguyên cuốn lịch màu với sáu cô xinh đẹp tặng không. Các nhà buôn lịch la ơi ới.
Báo Xuân, báo Tết, món ăn tinh thần của mọi gia đình ngày Xuân và là « tiền Tết » của các ký giả nghèo cứ theo mà tồn tại, dù cho vật giá kiệm ước leo thang, đồng tiền có bị lạm phát.
Ngày Tết, nhiều gia đình bày tập báo Xuân trên bàn khách cạnh gói thuốc, chén rượu đãi bạn bè. Có đọc hết 7, 8 tập báo Xuân đó chăng ? Không cần biết. Miễn là trên bàn có bánh mứt, củ kiệu la-de, mai vàng, dưa hấu đỏ mà thiếu báo Xuân thì coi như nhà nầy thiếu không khí Tết.
Cho đến năm 1975, Xuân Ất Mão là con mèo cuối cùng bị cộng sản đuổi chạy khỏi khung trời Xuân thân thương quen thuộc.
Những bạn ký giả nghèo không còn dịp nạo óc kể chuyện Xuân đã sang trong khi còn năm cũ, không còn hớn hở ký « bông » lãnh tiền nhuận bút bài Tết đem về cho vợ con kịp chạy ù ra chợ Bến Thành mua bánh mứt, chậu hoa vạn thọ cúng ông bà.
Giờ đây chúng ta lưu lạc bốn phương trời. Người ở vùng nắng cháy miền Nam nước Mỹ, người ở tuốt phương Bắc sáu tháng tuyết phủ giăng giăng, kẻ ở Âu, người ở Úc… bao giờ có dịp nhìn thấy những sạp báo Xuân với hình ảnh các cô gái dễ thương mỉm cười mời mọc ? Nhìn lại những tập báo mang tim óc của giới cầm bút viết lại những cái hay, cái đẹp của quê hương cho độc giả giải trí trong ba ngày Xuân ?
Xuân về, Xuân về… Như hàng Năm, khi mùa Đông ra đi, khi những cánh chim én, không hẹn nhưng lúc nào cũng trở về đúng chu kỳ đã qui định, bay lượn trên bầu trời xanh dịu, những con chim đậu thành hàng dài trên những đường dây điện trong thành phố kêu chíu chít hay la đà trên những thửa ruộng đã gặt còn trơ lại những luống rạ và những vũng nước cạn còn đọng lại sau mùa gặt, mùa Xuân lại trở về đem theo những cơn gió chướng mát mẻ, êm dịu trong không gian xanh da trời, lơ thơ vài đám mây trắng, thổi xào xạc trên những khóm tre và khua rầm rập trên những mái nhà lợp tôn. Mùa Xuân trở về khi lá me già rơi tơi tả trên mặt đất và những trái me chín rơi rụng vương đầy lối đi, khi hàng cây so đủa trổ bông trắng xóa đem đến hương vị đậm đà cho những tô canh chua bông so đủa cá rô mề, món ăn đạm bạc của dân quê vào những ngày cận Tết. Mùa Xuân quê hương, tình tự của những ngày tháng êm đềm, của những kỷ niệm quá khứ nhưng còn sống mãi trong lòng người Việt tha hương luôn luôn hướng về quê cha đất tổ. Mùa Xuân dịu dàng như cơn gió lành lạnh mơn man đôi má người thiếu nữ xuân thì, ngọt ngào như bánh ít, bánh trôi nước, tình tự như khi trao nhau cánh thiệp Xuân của tuổi vừa mới lớn và làm ngây ngất những người trẻ khi sánh vai đi bên nhau trên bến khi con tàu trở về sau chuyến hải hành xa xôi.
Chợ hoa đường Nguyễn Huệ Việt Nam Cộng Hòa
Thủ đô Sài Gòn trong dịp Tết được tưng bừng trang hoàng đầy màu sắc với những gian hàng Tết mọc lên tranh nhau hấp dẫn người mua, những cánh chim biển trở về đất liền trong dịp Xuân về lại có dịp hò hẹn trên bến tàu, cùng nhau, vai bên vai bên người em gái nhỏ, tay trong tay dìu nhau đi trên đại lộ Nguyễn Huệ ngắm chợ hoa, đi qua từng gian hàng san sát nhau chất đầy những cành hoa mai còn tươi rói từ rừng mai Biên Hòa, những chậu cúc, thược dược, mồng gà, vạn thọ đến từ miền Tây chen lẫn với những núi dưa hấu xanh ngát. Những cơn gió Tết thỉnh thoảng thổi tung đám bụi rồi quyện vào nhau thành những cơn trốt nhỏ, làm tung bay những tà áo dài duyên dáng đầy màu sắc như những cánh bướm. Sài Gòn ngày xưa của tôi đó ! Tết ở Sài Gòn ngày xưa đơn sơ nhưng duyên dáng và lãng mạn của tôi như thế đó ! Rời đại lộ Nguyễn Huệ, đôi bạn tung tăng đến ăn kem ở Phương Lan hay Mai Hương trên đại lộ Lê Lợi, lơ đãng nhìn dòng người tấp nập qua lại, mơ màng chuyện đón Tết vào những ngày sắp tới, tình tự nhìn nhau thưởng thức hương vị Xuân tràn ngập không gian, mùa Xuân cũng đang nở hoa trong lòng họ và dường như khoảng không gian đầy màu sắc và sinh động kia chỉ dành riêng cho hai người. Sau khi ăn kem xong, đôi bạn trẻ tiến về chợ Bến Thành, trung tâm của mua sắm và cũng ồn ào nhất của Thủ đô. Phía bên ngoài chợ là những gian hàng bán khô nai, khô cá thiều, không thể vắng bóng trong những phiên chợ Tết ở Sài Gòn, tiếng quảng cáo ra rả qua máy phóng thanh : »Khô nai, nhậu lai rai, khô cá thiều, nhậu nhiều nhiều » hay là : »Ăn chơi đã ngon, nói chi đến ăn thiệt, ăn thiệt lại càng ngon hơn« . Bên cạnh đó là những gian hàng bột gạo lức Bích Chi, rượu quinquina, kem đánh răng Perlon, Leyna, Hynos, đặc biệt kem Hynos độc đáo với bài hát trong phần phát thanh thương mại trong những năm 67,68 : »Anh yêu em hay anh yêu kem, hay anh yêu anh Bảy… Chà và da đen ? « . Tiếng phát thanh quảng cáo của nhiều gian hàng pha lẩn vào nhau, tạo thành thứ âm thanh hổn độn, ồn ào vang dội một góc chợ nhưng cũng không làm phiền người nghe, một năm mới có một lần, một sắc thái riêng biệt rất « Sài Gòn », rất « Tết », chỉ ở Sài Gòn mới có, tạo thành một bức tranh sinh động đầy màu sắc và âm thanh ; cái âm thanh và màu sắc đã thấm sâu vào máu, vào óc, vào tim như thuốc phiện, không thể cai nghiện, không thể bỏ được, suốt đời không thể quên dù rằng trên 40 năm đã trôi qua nhưng hương Xuân Sài Gòn năm xưa vẫn còn đeo đuổi, vẫn còn lơ lững hay lãng đãng đâu đó trong lòng những dân Việt tha hương.
Mùa Xuân năm nay, tập Đặc San Hàng Hải được phát hành để tiếp nối truyền thống của trường Việt Nam Hàng Hải đã có từ trước năm 1975 để cùng ôn lại những kỷ niệm cũ, cùng chia xẽ những vui buồn của cuộc sống hiện tại, cùng an ủi, ủy lạo những cánh chim không còn đủ sức bay cao hay đang kéo dài những giây phút cuối đời người trong bệnh viện hay nhà dưỡng lão.
Chợ Tết Bến Thành – Việt Nam Cộng Hòa
Những cánh chim Hải Âu xuất phát từ ngôi trường mẹ của Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, giờ đây, có những cánh chim đã vĩnh viễn ra đi, có những cánh chim già yếu và bệnh tật và những cánh chim còn lại trẻ nhất cũng đã bước vào tuổi 60, những cánh chim đã một thời vùng vẫy bay lượn trên những đại dương, những hải cảng xa xôi : Sài Gòn, Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng, Kaoshiung, Keelung, Yokohama, Manila, San Fernando, Singapore, Port Klang, Dunkerque, Le Havre, Rio de Janeiro, Buenos Aires, Montevideo, Papeete, Sydney…
Mùa Xuân là mùa cây cối, vạn vật nẩy mầm sống lại sau mùa Đông băng giá, là mùa hồi sinh của ý thức sau những đam mê, vật lộn, tranh giành với sự sống. Nhìn những người thân hay bạn bè, quen biết tuần tự đã ra đi hay đang chống chỏi với cơ thể bệnh tật, tôi cũng tự hỏi đời sống con người còn lại những gì và của cải, tiền bạc có thể giúp ích gì trong cơn hoạn nạn đau khổ ? Đến lúc đó con người mới thấy những thứ đó không giúp đỡ được gì và cũng không mang theo được qua bên kia thế giới. Lúc đó tâm thức mới bừng sáng dù muộn màng và khởi sự đi tìm ý nghĩa thật sự của đời sống, lúc đó con người mới bắt đầu từ bỏ đời sống vật chất để đi tìm đời sống tâm linh. Tuổi trẻ ít khi quan tâm và tìm hiểu đến tâm thức nhưng tuổi già vì phải đối phó với bệnh tật, sức khỏe suy yếu, trí nhớ suy kém, tinh thần suy sụp và nhất là sự cô đơn trong định luật sinh, trụ, hoại, diệt mới bắt đầu ý thức dần dần đến ý nghĩa thật sự của đời sống con người.
Và một lần nữa, mùa Xuân lại trở về, chúng ta lại có thêm một tuổi đời và thêm kinh nghiệm học hỏi trên đường đời, rốt cuộc chỉ để đúc kết tâm thức và sau cùng chọn lựa con đường cần thiết cho tâm linh chính mình.