Những thương thuyền « tiêu chuẩn » của Đức
Albatros

Những thương thuyền « tiêu chuẩn » của Đức được tung ra để thay thế những thương thuyền của hạm đội tàu liberty ship già nua nhưng vẫn còn được xử dụng rộng rãi trên thị trường vận tải hàng hóa vào cuối thập niên 60. Thế hệ mới kế tiếp của liberty ship cũng mang những đặc điểm giản dị nếu không nói là đơn sơ so với loại tàu của thế hệ trước nhưng được thiết kế với động cơ tân tiến hơn và ít hao nhiên liệu hơn. Thương thuyền loại mới sẽ có tốc độ nhanh hơn, khoảng 15 gút và có khả năng đa năng để có thể tự vận chuyển chất hàng trong hầm tàu, trên pont giửa, hàng hóa vrac (loại hàng không bao bì như ngũ cốc, quặng mỏ, than đá) hoặc chất lỏng như dầu thực vật hay hàng đông lạnh.
Những xưởng đóng tàu Anh quốc tung ra loại tàu SD14, đóng được 211 chiếc từ năm 1968 đến 1987, trong khi đó, hãng đóng tàu Nhật Bản IHI đã đóng được 168 tàu loại Freedom (14 800 tấn), 66 chiếc loại Fortune (22 000 tấn). Kỹ nghệ đóng tàu Đức quốc bắt đầu quan tâm đến thị trường béo bở và đề nghị với giới thuyền chủ danh mục những thương thuyền « tiêu chuẩn » với những cải tiến tùy theo nhu cầu loại hàng chuyên chở. Những hãng đóng tàu Flensburger Schiffbau Gesellschaft (FSG) ở Flensburg, Bremer Vulcan de Brême và Rickmers de Bremerhaven đã cố gắng chung để phát triển mô hình liberty ship Đức quốc hay « German liberty » hay Deutscher Mehrzweckfrachter (tàu chở hàng đa năng Đức quốc), phải có kiến trúc giản dị hay đơn sơ nhưng với kỹ thuật tân tiến hơn. Đây là tàu chở hàng (cargo) loại shelter deck trọng tải 15000 tấn với động cơ được thiết kế phía sau. Tàu có một pont giửa kéo dài trên suốt chiều dài của tất cả hầm chở hàng. Hầm hàng 2/3 dài 30m được tiếp nối bằng một hầm deep tank nằm ở phía sau dành cho loại hàng lỏng. Sự vận chuyển hàng được thực hiện với 10 cần hàng (corne de charge) với khả năng 10 tấn. Cần tàu phía trước có một cần trục hàng lớn (bigue) với khả năng 60 tấn. Tất cả những máy kéo (treuil) chạy bằng điện. Động cơ là loại máy Diesel chạy chậm hai thì MAN có 6 cylindre với vòng quay 137 t/m có thể đẩy con tàu với vận tốc 16 gút.
Thương thuyền đầu tiên được hoàn tất mang tên Dirk Mittmann được giao cho hãng của Đức quốc Ernst Jacob ngày 30 tháng Năm 1968. Trong khi thương thuyền SD14 của Anh quốc nhắm vào khách hàng Hi Lạp, thương thuyền « Liberty Đức » nhắm chính yếu vào những khách hàng của Đức. Tất cả có 18 thương thuyền loại Deutscher Mehrzweckfrachter nầy được đóng bởi FSG, 22 chiếc bởi Bremer Vulkan và 10 chiếc bởi Rickmers Werft vào giửa năm 1968 và 1976. Không lâu sau đó, nhiều phiên bản khác tiếp nối xuất hiện. Một cột hàng tàu được thêm vào giửa những hầm hàng số 4 và 5 và đôi khi một cột hàng (mât de charge) nữa được thêm giữa hầm 2 và 3. Những thương thuyền được trang bị đầy đủ nhất mang tên Lumumba, Bandundu, Mbandaka, Kisangani, Mbuji Maji và Bukavu được chuyển giao bởi hãng đóng tàu Rickmers Werft và Bremer Vulkan cho Công ty hàng hải Zaïre từ năm 1974 đến 1975. Bảy chiếc khác được sản xuất theo một phiên bản « Bremen Express » tân tiến hơn được đóng bởi Bremer Vulkan từ năm 1976 đến 1978.


Phiên bản « Typ 36 »

Vào năm 1968, hãng đóng tàu Đức Seebeck Werft của tập đoàn AG Weser đã giao 3 tàu hàng trọng tải 15680 tấn cho hãng khai thác Adolf Wiard. Những tàu nầy có 4 hầm chứa hàng được kiến trúc giản dị theo kiểu cổ điển, không có những trang bị tự động theo một phiên bản mang tên « Typ 36 » khởi đầu cho một lô gồm 60 chiếc, và một phiên bản khác « 36L » với thân tàu được nối dài 10m. Theo mẫu « German Liberty » của những hãng đóng tàu cạnh tranh khác, những chiếc tàu « 36L » có 5 hầm chất hàng.
Nhiều mẫu mã khác nhau được chọn lựa tùy theo những trang bị như cột hàng loại Stülcken, cần cẩu Liebherr hoặc Hägglunds …
Sự khác biệt chính yếu của phiên bản « Typ 36 » đối với những chiếc tàu « German Liberty » khác là động cơ chính của tàu bởi vì loại 36 và 36L được đẩy bằng động cơ bán nhanh bốn thì MAN loại 16V 40/54A với 6390 kW với vòng quay 450t/m.
Thương thuyền loại Trampko

Một phiên bản khác của « German liberty », Trampko được khai triển bởi những hãng Orenstein & Koppel của Lübeck và Schlichting Werft của Travemünde bắt đầu từ cuối năm 1968. Chiếc tàu đầu tiên loại « Trampko » mang tên Carlo Porr được giao cho một hãng khai thác vào tháng Tám 1969. Loại tàu nầy có hình dáng thẩm mỹ có 3 hầm tàu, hai tầng pont và phần kiến trúc nằm ở phía sau. Dàn cột hàng tàu (mât de charge) gồm có hai cột, mỗi cột có 2 cần hàng (corne de charge) 5/10 tấn hoặc cột hàng Stücken.
33 chiếc tàu loại Trampko được hoàn tất giữa năm 1969 và 1978, trong số đó có 6 chiếc được nối dài thêm 10m để giao cho hãng Compagnie Nationale Algérienne de Navigation (CNAN). Ngoài ra, hãng nầy cũng đã nhận trước đó 5 chiếc tàu loại Trampko với trang bị căn bản. Ngoài 11 chiếc tàu nầy, tất cả những chiếc Trampko khác đều được giao cho những Thuyền chủ Đức.
Thương thuyền loại Rendsburg

Một kiểu tàu khác cạnh tranh với kiểu Trampko được đóng thành 21 chiếc bởi hãng đóng tàu Nobiskrug ở Rendsburg (14 chiếc) và Paul Lindenau ở Kiel (7 chiếc). Kiến trúc tổng quát giống như loại Trampko với 3 hầm tàu, phần kiến trúc gồm 4 tầng và một bulbe (bulk) ở mũi tàu. Như kiểu tàu Trampko, kiểu « Flensburg » được đóng đặc biệt cho những Thuyền chủ Đức muốn sở hữu loại tàu hiệu quả và đa năng nhưng không cần thiết phải đơn sơ như tiêu chuẩn của loại tàu « German Liberty » và « Typ 36L ». Vận tốc của Rendsburg được nâng lên từ 16,2 đến 17 gút, nhanh hơn kiểu Trampko một chút. Loại tàu Rendsburg cũng có một phiên bản khác, thân tàu được nối dài với 2 chiếc Fleethörn và Sandhörn được đóng trong năm 1972 và 1973 bởi hãng Nobiskrug. Những tàu nầy dài 142,70m (Longueur hors tout) và sức chứa hàng tối đa là 9450 tấn. Ngoài ra có một kiểu tàu khác ngắn hơn đối với những loại tàu tiêu chuẩn « German Liberty », chiếc Barbarella dài khoảng 130m và sức chứa hàng 8140 tấn.
Nếu không tính những kiểu tàu chỉ được đóng vài ba chiếc, tổng cộng số lượng tất cả các kiểu tàu « German Liberty » được đóng lên đến khoảng 170 chiếc trong khoảng giữa năm 1968 và 1978 là một thành công tốt đẹp của kỹ nghệ đóng tàu của Đức.